← Quay lại trang sách

Chương 15

Hôm sau, trước giờ học trường Chúa Nhật, tôi chạy tới bảng tin trong phòng giao lưu để xem Khu vườn Phước lành. Tôi tìm kiếm trong đống hoa cho đến khi tìm thấy đóa hoa của mình. Tôi nghĩ chắc những đứa nhóc khác có nhiều phước lành lắm, vì tụi nó đã làm rất nhiều hoa. Tôi chỉ viết đúng dòng chữ “Tôi khỏe mạnh,” vì Audrey cũng viết như vậy lên một trong những đóa hoa của nó. Tôi nhẹ nhàng gỡ đóa hoa của mình xuống, và dùng cây bút sáp màu tím viết thêm: “Tôi có một chú chó tên là Xương Chạc.”

Khi tôi tới trường Chúa nhật, tôi đã cố kể chuyện Xương Chạc với tụi nhóc ở đó, nhưng có vẻ chẳng đứa nào quan tâm đến chuyện của tôi. Tụi nó còn đang mải liệt kê ra đủ loại tội lỗi để cô Mackey ghi lên bảng.

Chửi rủa.

Bắt nạt.

Nói dối.

Không vâng lời cha mẹ.

Những tội lỗi bay lượn khắp căn phòng hệt như những con quạ đen bay lượn trên cánh đồng ngô vậy.

“Charlie,” cô Mackey gọi tôi. “Em có nghĩ ra tội lỗi nào không?”.

Tôi tin là việc mẹ tôi bỏ rơi các con để bắt đầu làm lại cuộc đời cũng là một tội lỗi. Nhưng tất nhiên tôi không định nói ra chuyện đó, nên tôi chỉ đáp, “Không ạ, thưa cô.”

“Thế còn đá và xô ngã bạn thì sao?” Audrey lên tiếng.

Khi ấy Howard đang ngồi cạnh tôi, và nó lập tức thì thầm vào tai tôi câu thần chú “Dứa. Dứa. Dứa.”

Có thể vì khi ấy chúng tôi ngồi trong trong nhà thờ, nên một điều kì diệu đã xảy ra. Tôi đã kiềm chế được cơn giận của mình và nén chặt nó vào lòng. Tôi mỉm cười và mím môi để không buột miệng nói điều gì tệ hại trong khoảnh khắc kì diệu ấy. Sau đó, một điều kì diệu hơn nữa đã đến bên tôi, và thúc giục tôi nói với Audrey, “Là tớ đã sai khi đá vào chân và xô ngã cậu như vậy, Audrey ạ. Tớ xin lỗi.”

Câu nói đó khiến Audrey vô cùng bất ngờ. Lông mày nó rướn cao, còn miệng thì há hốc, và sau đó nó đáp, “Không sao mà.”

Trên đường trở về phòng giao lưu sau giờ học, Howard đã vỗ lưng tôi và nói, “Làm tốt lắm, Charlie. Tớ đã nói là câu thần chú trái dứa của tớ sẽ hiệu nghiệm mà.”

Tôi đếm ngược từng giây phút đến ngày cuối cùng của học kì. Cuối cùng ngày đó cũng tới, và tôi lại xỏ đôi bốt diễu hành của Jackie đến trường. Dù đôi bốt đó nóng và khiến tôi trầy gót chân, nhưng tôi mặc kệ. Tôi hiên ngang bước giữa hai hàng ghế xe buýt và nháy mắt với mấy đứa con gái cười khúc khích y như lời Jackie dặn.

“Cứ nháy mắt với bọn nó,” Jackie khuyên tôi qua điện thoại. “Em mà nháy mắt thì tụi nó sẽ bối rối và không biết phải làm gì tiếp đâu.”

Vài đứa vẫn tiếp tục khúc khích cười khi tôi ngồi phịch xuống cạnh Howard và đưa cho nó một chiếc bánh muffin chuối của bác Bertha.

“Cảm ơn cậu,” nó đáp. Sau đó nó bẻ đôi chiếc bánh, nhặt ra những quả nho khô rồi xếp thành một đống giữa hai đứa.

“Hôm qua Xương Chạc đã đào mấy cây đậu lên đấy,” tôi nói.

“Chà, chà.” Howard cắn một miếng bánh rồi nhăn mặt. Nó lôi ra một quả nho khô trong miệng rồi xếp tiếp lên chồng nho trên ghế. “Bác Gus có bực không?”

“Không. Bác ấy chỉ bảo lần sau tớ không được cho Xương Chạc vào vườn nữa thôi.”

“Thế bác Bertha có bực không?”

Tôi lắc đầu. “Bác ấy chỉ kể chuyện về chú chó nhà hàng xóm của bác ấy hồi trước thôi. Chú chó đó có thể ăn ngô ngay trên cây trong vườn nhà ông ngoại của bác hàng xóm đó, và nó đã ăn nhiều đến mức suýt chết vì bội thực.”

Khi xe buýt xuống núi, tôi bắt đầu nghĩ ngợi miên man về ngôi trường cũ ở Raleigh. Tôi cảm giác mình đã ở Colby lâu lắm rồi. Và kể từ khi tôi chuyển đến đây, chưa đứa bạn nào ở Raleigh liên lạc với tôi trừ Carlene Morgan. Nó gửi cho tôi một tấm bưu thiếp có hình tòa nhà Quốc hội, nơi cả lớp tôi được đi tham quan.

Cậu may mắn vì không phải đi chuyến này đấy, nó viết trong bưu thiếp. Chỗ đó chán òm ấy mà. HAHA.

Jackie kể là đã gặp Alvina, bạn thân của tôi ở rạp chiếu phim cùng vài thành viên trong đội Nữ Hướng đạo sinh.

“Nó có hỏi thăm em không?” tôi hỏi.

“Không, nhưng chị nói với nó là em sống rất ổn,” Jackie nói.

Sống rất ổn á?

Ha!

Sao Jackie biết tôi ổn hay không ổn cơ chứ? Bả còn đang mải mê đắm chìm trong cuộc sống hoàn hảo cùng Carol Lee thì làm gì có thời gian mà nghĩ đến tôi. Thậm chí bây giờ bả gần như còn chẳng liên lạc với tôi nữa ấy chứ.

Hồi lớp Ba, có lần tôi đã cùng bố đến nghĩa trang thăm mộ ông nội. Chúng tôi tìm đến tấm bia đá có khắc tên Albert Eugene Reese. Ở phía trên còn khắc dòng chữ Đời đời tưởng nhớ. Tôi thì chưa nằm dưới sáu tấc đất như ông nội Albert, nhưng tôi cảm thấy mình cũng giống như một người đã chết, nhưng khác với ông nội - tôi bị tất cả mọi người lãng quên mất rồi.

Bác Bertha lúc nào cũng gợi ý rằng tôi nên mời bạn cũ ở Raleigh đến Colby chơi hè này. Tôi không muốn làm bác buồn đâu, nhưng thú thực tôi thấy ý tưởng đó khá tệ. Chúng tôi sẽ làm gì ở đấy chứ? Ngồi nhìn cây bí mọc trong vườn à? Ra ngồi ngoài hiên ngắm chòm Phi Mã cả tối ư? Rồi tụi nó sẽ ngủ ở đâu? Cả lũ sẽ cùng chen chúc tranh nhau cặp gối Lọ Lem trên cái giường bé tí của tôi à? Không, tụi con gái Raleigh mà đến Colby thì sẽ chán chết mất.

Khi tiếng chuông cuối cùng của học kì vang lên, tôi đã cố hết sức lao thật nhanh ra khỏi lớp. Ngày nào tôi cũng đếm từng phút để chờ đến lúc được về nhà cùng Xương Chạc. Bác Bertha nói rằng nó luôn đứng trước cửa và rên rỉ mỗi khi tôi đi học. “Thật đấy,” bác ấy khẳng định. “Bác mà nói dối thì sẽ bị sét đánh trúng đầu luôn.”

Khi chiếc xe leo dốc, tôi ngắm khung cảnh ngoài cửa sổ, còn Howard vẫn đang mải thao thao bất tuyệt về chuyện Burl vừa mua xe máy, và mẹ nó đã nổi cơn giận dữ chưa từng thấy.

Và bạn biết sao không? Tôi đã thấy ba chú chim đậu cheo leo trên dây điện dọc đường. Ba chú chim đậu trên dây điện cũng là một trong những cách ước nguyện trong danh sách của tôi. Theo lời bác Ray bạn bố, thì phải có chính xác ba chú chim mới có thể ước nguyện được. Nên tôi đã nhanh chóng thầm ước trước khi một trong số chúng bay đi mất.