Chương 16
“Cháu đoán xem bác có gì này?” bác Bertha nói khi tôi vừa đặt chân đến cửa nhà. Bác ấy thò tay vào túi tạp dề và rút ra một phong thư. “Bố cháu gửi thư đấy!”
“Thật ạ?” Tôi nhìn thật kĩ phong thư trong tay bác ấy. Đúng là chữ của bố già Thích Gây Gổ rồị, không thể lẫn vào đâu được. Trên phong thư là những hàng chữ in lượn sóng, to đùng, hệt như chữ viết của trẻ con lớp một ấy.
Tôi mắc dây xích vào vòng cổ của Xương Chạc và dắt nó ra trước sân. Tôi ngồi vào chiếc ghế gấp của bác Gus đặt cạnh khu vườn, và quan sát phong thư thật kĩ.
Cô Charlie Reese
Nếu như mẹ gửi thư cho tôi (nhưng tôi biết thừa mẹ chẳng bao giờ làm điều đó), thì mẹ sẽ viết tên tôi là Cô Charlemagne Reese để khiến tôi thêm bực mình. Và có thể trong thư mẹ sẽ nói là tạm biệt nhé, mẹ đã bỏ con để bắt đầu làm lại cuộc đời mẹ rồi.
Tôi quan sát thật kĩ phong thư thêm lần nữa. Ở góc trên cùng có dòng chữ Trung tâm Cải tạo Quận Wake.
Chà, cụm từ đó nghe không đến nỗi tệ như nhà tù quận. Tôi nghĩ là mấy người trong nhà tù quận sẽ phải ở lại đó lâu hơn. Nhưng nếu bố tôi chỉ bị cải tạo, thì chắc bố sẽ sớm được thả thôi.
Tôi ngửi thử phong thư xem có mùi nước hoa cạo râu của bố không, nhưng nó chẳng có mùi gì. Tôi rút ra tờ giấy sổ gập đôi rồi vuốt thẳng trên đùi mình.
Charlie yêu quý,
Chào con, bố già Thích Gây Gổ của con đây. Con vẫn khỏe chứ?
Bố vẫn ổn.
Nơi này cũng được, ngoại trừ món nước sốt thịt lổn nhổn và mấy chiếc gối có rận thôi.
Hôm trước Jackie đã đến thăm bố và mang sô cô la Hershey với kem đánh răng cho bố đấy.
Bố đoán chắc là con ở nhà bác Gus và bác Bertha rất vui. Con nói với hai bác là khi nào bố kiếm được tiền, bố sẽ gửi cho hai bác ấy nhé.
Yêu con,
Bố già Thích Gây Gổ của con.
Tôi lật mặt sau tờ giấy để xem bên đó còn gì không.
Chẳng có gì cả.
Chỉ có vậy thôi.
Tôi nhìn vào chữ “yêu”, rồi dùng ngón tay chạm nhẹ những chữ cái đó. Sau đó tôi gập lá thư lại và nhét nó vào phong bì.
Ngày hôm sau, tôi mới ở nhà từ sáng đến trưa mà đã thấy chán òm. Tôi đã luyện cho Xương Chạc trò ngồi và giữ nguyên tư thế. Tôi đã giúp bác Bertha đếm số quả mướp tây để tính xem chúng tôi cần bao nhiêu chiếc hũ mới muối hết được đống đó. Tôi đã đi tìm cỏ bốn lá sau nhà, nhưng lại chẳng tìm được nhánh nào. Sau đó tôi đã chia cho Xương Chạc nửa chiếc bánh kẹp bơ lạc, và thế là hết việc. Tôi chẳng còn gì để làm nữa.
Vậy nên tôi đã quyết định đạp xe của Lenny sang nhà Howard chơi. Tôi móc dây xích của Xương Chạc vào ghi đông, và sau đó chúng tôi khởi hành.
Khi tôi tới nơi, nhà Odom đang nhộn nhịp hệt như một tổ ong vậy. Thằng bé Cotton đang chế tạo thứ gì đó bằng đá và cành cây trong một khoảng nhỏ râm mát cạnh hiên nhà. Burl và Lenny đang cùng ngắm động cơ chiếc xe máy Burl mới tậu trên lối vào gara. Thi thoảng, một trong hai người lại lấy cờ lê đập thứ gì đó. Dwight thì tập ném bóng vào chiếc rổ lắp trên cột đèn đường ngay sát mép sân. Còn Howard á? Tôi thật sự không tin nổi khi thấy trò nó đang làm. Trời ạ! Ông tướng đó đang ngồi trên chiếc tràng kỷ cũ rách ngoài hiên chơi giải ô chữ! Đứa trẻ nào lại ngồi chơi cái trò đó vào ngày đầu tiên của kì nghỉ hè cơ chứ?
“Chào cậu,” nó nói, rồi chỉnh lại gọng kính.
Xương Chạc nhảy phóc lên ngồi bên nó trên tràng kỷ, và nằm phịch xuống thở hổn hển.
“Chào,” tôi vén tóc sau gáy rồi lấy tay quạt cho mát. “Trời nóng phết nhỉ,” tôi nói.
“Cậu muốn ôn tập cho trò Thám tử Kinh thánh không?” Howard hỏi.
Trò Thám tử Kinh thánh á?
Tôi suýt buột miệng, “Cậu điên à?” nhưng tôi đã kiềm chế được mình, “Không, giờ tớ không có tâm trạng học Kinh thánh cho lắm.”
“Tớ sẽ cho cậu vài đồng xu Thám tử,” nó nói.
Tôi lắc đầu. “Không cần đâu.”
“Thế cậu muốn làm gì?”
Tôi nhún vai. “Tớ vừa nhận được thư của bố”
Howard ngồi thẳng dậy. “Thật á?” Nó đặt trò giải ô chữ sang một bên. “Bố cậu gửi thư từ trong nhà tù á?”.
“Không phải nhà tù,” tôi chỉnh lại. “Đấy là trung tâm cải tạo.”
“Cũng giống nhau cả mà,” Howard nói.
“Không giống!”
“Giống mà.”
“Không phải!” Tôi nói to đến mức khiến Xương Chạc giật mình thảng thốt. Nó ngóc đầu nhìn tôi như thể tôi bị điên vậy.
Dứa.
Dứa.
Dứa.
Tôi không muốn giận dỗi Howard ngay trong ngày đầu tiên của kì nghỉ hè đâu.
Thú thực là mặc dù tôi và Howard chỉ mới quen nhau chưa lâu, nhưng nó hiểu rõ tôi như đi guốc trong bụng vậy. Nó nhận ra tôi đang phải vật lộn chiến đấu với cơn giận dữ của mình, nên đã lập tức chuyển chủ đề. “Chà, thật tốt khi bố cậu gửi thư.” Nó gãi tai Xương Chạc. “Thế bố cậu bảo sao?”.
Tôi muốn kể cho Howard rằng bố nói rất nhớ tôi, và bố rất mong được về nhà để lại được xem chương trình Vòng quay May mắn cùng tôi. Rằng bố sẽ nấu một bữa tối sang chảnh cho mẹ, với nến sáng lung linh trên bàn và giọng hát của Willie Nelson vọng ra từ chiếc đài nhỏ, và có thể mẹ sẽ mặc chiếc váy đỏ bố thích. Và khi Jackie có bằng lái xe hơi, bố tôi sẽ cho bả lái xe chở cả nhà tôi về vùng quê để mua ngô và dâu tây ở một quầy nông sản bên đường. Sau đó chúng tôi sẽ về nhà và tổ chức tiệc nướng trong sân. Có thể chúng tôi sẽ nắm tay cùng tạ ơn Chúa trước khi ăn giống nhà Howard. Nhưng tôi không nói vậy. Tôi đã nói với nó sự thật.
“Bố tớ bảo ở đó có món sốt thịt lổn nhổn, và gối thì có rận.”
“Tệ quá nhỉ.”
Tôi suýt kể với Howard rằng bố tôi đã kết thư bằng hai chữ yêu con, nhưng sau đó tôi nghĩ rằng chuyện đó nghe khá ngớ ngẩn đối với đứa con trai ngày nào cũng được bố mẹ thương yêu từ khi mới lọt lòng như nó.
“Này, có thể hôm nào đó mẹ tớ sẽ giúp tụi mình nướng bánh quy để gửi cho bố cậu.”
“Thật á?”
“Chắc chắn rổí,” Howard nói. “Cậu muốn ra sông chơi không?”
“Cũng được.”
Vậy là tôi, Howard và Xương Chạc đi ra phía sau gara và dò dẫm men theo con đường mòn hẹp uốn lượn giữa cánh rừng mát mẻ và ẩm ướt. Tôi thích ngửi mùi đất và rêu trong không khí, và cảm giác nhột nhột khi đám lá dương xỉ bên đường khẽ cọ vào cẳng chân. Xương Chạc đi ngay kế bên tôi, thi thoảng nó lại dừng chân để đánh hơi một cái cây hay đoạn rễ bị phủ kín bởi những chiếc lá rụng. Tôi thắc mắc liệu trước đây nó đã từng đi qua con đường này chưa. Tôi nghĩ nó biết rõ khu rừng này hơn bất cứ ai. Có khi trước đây nó đã từng ngủ dưới những tán cây này rồi ấy chứ.
Tôi rất muốn tháo xích để nó được chạy nhảy tự do, nhưng lại thấy sợ. Nhỡ nó chán tôi và quyết định chạy trốn để lại được làm chó hoang thì sao?
Khi chúng tôi ra đến bờ sông, suýt chút nữa Xương Chạc đã kéo tôi ngã theo khi nhảy ùm xuống dòng nước trong vắt, róc rách. Howard và tôi cởi giày, rồi nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác, và Xương Chạc cũng chạy nhảy bì bõm khiến nước lạnh bắn lên tung tóe.
“Vui thật đấy,” tôi nói.
“Đúng vậy.” Howard cười toét miệng khi đứng trên một phiến đá trơn. Tôi cứ nghĩ nó sẽ ngã nhào, nhưng thật may là nó vẫn đứng vững. Xương Chạc kêu lên một tiếng rất ngộ, và liên tục đớp vào dòng nước. Nó đang cố bắt những chú cá tuế nhỏ xíu bơi cực nhanh xung quanh mấy tảng đá.
“Trông nó kìa!” chúng tôi cùng thốt lên. Tôi nhảy từ phiến đá lên bờ sông rồi vẫy tay gọi Howard. “Đến đây nhanh nào,” tôi hét lớn. “Ngoắc tay tớ đi.”
“Gì cơ?”
“Ngoắc tay,” tôi nói. “Chúng ta đều được ước một điều.”
“Thật hả?”
Tôi gật đầu. “Nếu hai người cùng lúc thốt lên một câu, họ có thể ngoắc tay và ước một điều,” tôi nói. “Jackie dạy tớ đấy.”
Thế là Howard cũng nhảy lên bờ sông, và chúng tôi cùng ngoắc tay. Tôi nhắm mắt và thầm ước.
“Cậu có ước gì không?” tôi tò mò.
“Không.”
“Sao lại không?”
Howard cúi người quờ tay trong làn nước làm mấy con cá tuế sợ hãi lao vút đi. “Thực ra tớ chẳng có điều gì để ước cả,” nó nói.
Tôi lắc đầu. Làm gì có ai không có điều gì để ước cơ chứ? Ý tôi là, có thể bạn chỉ ước những điều nhỏ xíu như không bị mụn cơm trên ngón cái, hay không phải ăn cháo yến mạch cho bữa sáng, đối với tôi như vậy cũng là có cái để ước rồi.
“Ơ, chán thật đấy, Howard,” tôi nói. “Chắc phải có gì đó chứ.”
“À, thực ra tớ cũng có một điều ước đấy.”
Sau đó chúng tôi lại ngoắc tay lần nữa, và Howard nhắm mắt lại.
“Cậu ước chưa?” tôi hỏi.
“Rồi.”
“Tớ nghĩ mình biết cậu vừa ước gì.”
“Tớ không thể nói ra được, nếu tớ nói ra thì làm sao nó thành hiện thực được. Cậu không nhớ à?”
“Ừ, cậu không được nói,” tôi nói. “Nhưng tớ thì được. Nếu tớ nói thì không sao cả.”
Tôi không chắc có được làm thế không, nhưng tôi nghĩ là được.
“Cậu đừng nói tớ đúng hay sai là được,” tôi nói.
“Được rồi.”
“Cậu đã ước mình không bị cà nhắc,” tôi nói.
Khi vừa thốt ra những lời đó, tôi thực sự đã nhìn thấy chúng lướt nhanh trong không khí về phía Howard như những lưỡi dao lam sắc bén.
Mặt Howard chuyển thành trắng bệch, và nó cúi gằm xuống đất.
Tôi đã làm gì vậy?
Sao tôi lại nói thế chứ?
Tôi chỉ muốn rút lại những lưỡi dao lam đó, nhưng tôi biết mình không thể.
Đột nhiên tôi cảm thấy mọi thứ xung quanh ngưng lại. Vạn vật đều im lặng như tờ. Như thể nước dưới sông kia đột nhiên ngừng chảy, và lũ chim cũng ngừng hót. Như thể những đám mây trên đầu chúng tôi ngừng trôi lững lờ trên những dãy núi. Và ngay cả Xương Chạc cũng ngồi im như tượng bên tôi.
Nhưng Howard đã phá vỡ sự im lặng đó. Nó túm lấy đôi giầy rồi đi một mạch về nhà, bỏ lại tôi một mình ngoài đó với trái tim trĩu nặng đầy xấu hổ.
Tôi ngồi lại bên bờ sông và bắt đầu đắm mình vào bể hối hận. Jackie thường nói thế mỗi khi tôi thấy thương hại bản thân.
“Vì Chúa, Charlie,” bả nói, “đừng chìm đắm trong cái bể hối hận của em nữa.”
Nhưng tôi không thể ngừng suy nghĩ. Sao tôi lại nói mấy lời khủng khiếp đó với đứa nhóc duy nhất ở Colby đối tốt với tôi? Nó là đứa muốn cho tôi những đồng xu Thám tử, và gửi bánh quy cho bố tôi đấy. Là đứa nhóc chịu nghe tôi trút bầu tâm sự cơ mà?
Tôi lại tưởng tượng cái dây phơi quần áo treo đấy phiền muộn, và thấy mình bị treo lên một cái dây phơi khác. Tôi ngồi lại bên dòng sông và vô cùng hối hận khi nghĩ về việc mình đã hủy hoại ngày hè của Howard. Nhưng chuyện sau đó còn tệ hơn nữa. Một con sóc nhỏ lưng sọc bất ngờ lao ra từ thân cây mục ven sông, và Xương Chạc đã giật phăng dây xích trong tay tôi để đuổi theo con sóc đó. Trước khi tôi kịp phản ứng, thì Xương Chạy đã chạy mất dạng vào rừng.