Chương 19
Suốt một tuần sau đó, tối nào Xương Chạc cũng được ăn xúc xích gan và trứng bác. Nó học được cách lăn, xoay vòng, hất bánh quy từ trên mũi xuống và đớp gọn trước khi miếng bánh chạm đất. Kể từ hôm đó nó không ngủ trên sàn nhà nữa. Nó được ngủ trên giường cùng tôi. Tôi chẳng bận tâm đến hơi thở mùi xúc xích gan của Xương Chạc chút nào. Tôi yêu bộ lông mềm mại, ấm áp của nó và tiếng tim đập nhịp nhàng trong lồng ngực nó mỗi khi ôm nó vào lòng.
Sau bữa tối, tôi cùng bác Gus và bác Bertha ngồi ngoài hiên, Xương Chạc ngáy ro ro đầy hạnh phúc khi tôi dùng bàn chân trần chà lên tấm lưng ấm áp của nó. Thi thoảng nó lại nhảy dựng lên sủa một tiếng khi nghe thấy tiếng động dưới khu rừng. Có thể đó là tiếng một con gấu mèo, hay ôpôt*, hoặc chỉ là tiếng lá cây khẽ xào xạc trong gió.
Nguyên văn: possum: một loài thú có túi.
“Nó đang rất hạnh phúc đấy, Butterbean,” bác Gus nói.
Và sau đó bác Bertha lại bắt bác Gus kể thêm chuyện về chú chó Skeeter.
“Còn cái lần Skeeter ngã xuống sông trong lúc tụi anh đang câu cá, và em trai anh nhảy theo nó khiến chiếc thuyền bị lật ấy?” bác Bertha nói.
Bác Gus cười khúc khích, nhưng trước khi bác ấy kịp đáp lời thì bác Bertha đã tiếp tục: “À, em biết rồi! Anh kể cho Charlie chuyện em gái anh mặc đồng phục Nữ Hướng đạo sinh cho Skeeter đi.”
Gần như ngày nào tôi cũng dắt Xương Chạc qua nhà Odom chơi. Tôi vẫn chưa nói xin lỗi Howard vì chuyện hôm trước, nên trong lòng tôi lúc nào cũng thấy nhộn nhạo. Howard chưa từng nhắc lại chyện hôm đó, nhưng tôi vẫn thấy giận mình vì không chủ động xin lỗi nó. Tôi cứ nghĩ mãi về điều bác Bertha nói, chuyện đánh giá một con người qua cách họ sửa chữa lỗi lầm ấy. Và tôi biết rõ mình không giỏi sửa chữa lỗi lầm cho lắm.
Bất cứ khi nào tôi và Xương Chạc xuất hiện trước cửa nhà Odom, một người trong gia đình họ đều niềm nở chào chúng tôi và vẫy tay mời chúng tôi vào nhà. Sau đó, tôi thường bị cuốn vào không khí tấp nập của gia đình đó, cảm tưởng như một cái vòi rồng ấy.
Tôi và Howard chơi trò cá ngựa bên bàn bếp. Ngay cửa bếp là chiếc quạt kêu vo vo, còn Xương Chạc thì sục sạo khắp căn bếp để tìm những bánh quy hay nước ép hoa quả bị rớt trên sàn nhà. Sau đó, Cotton chạy đến dí sát mặt vào lồng quạt và hú lên như Tarzan. Gió quạt làm giọng nó rung rung như tiếng rô bốt, và tất cả tụi tôi đều phá lên cười.
Burl và Lenny vào bếp làm một ít bánh kẹp cà chua, và để lại dấu vân tay dầu nhớt đen xì lên tất cả mọi thứ hai ổng chạm vào. Hình như hai người đó lúc nào cũng thích chế tạo và sửa chữa động cơ thì phải. Từ xe hơi. Xe máy. Đến máy cắt cỏ. Thi thoảng lại có tiếng chửi ngoài sân, và bác gái sẽ đích thân ra ngoài để bắt mấy kẻ “tội đồ” ngừng chửi bậy ngay lập tức.
Dwight tham gia trại hè bóng chày ở YMCA. Nó về nhà trong bộ dạng nhễ nhại mồ hôi và toàn thân lem luốc đất đỏ. Hầu như ngày nào nó và Cotton cũng vật nhau hoặc thi nhau ném gối tựa vào người đứa kia, cho đến khi Cotton khóc toáng lên và đi mách mẹ mới thôi.
Có những ngày trời nóng đến mức tôi và Howard chỉ nằm ngả ngớn trên hiên nhà, đặt vài viên đá lạnh trên trán và chơi đố chữ. Một hôm, bác trai đặt tấm bạt vào trong thùng xe bán tải rồi đổ đầy nước vào đó làm thành một chiếc “bể bơi” nhân tạo. Sau đó tất cả tụi tôi, trong bộ quần đùi áo phông, đều ngồi trong chiếc “bể bơi” ấy và ăn kem soda cốc giấy.
“Ước gì tụi mình được đến bể bơi thật nhỉ,” Howard nói.
“Khi nào về Raleigh,” tôi nói, “Tớ sẽ tiếp tục đi học bơi giống mùa hè năm ngoái.”
“Thế bao giờ cậu về Raleigh?”.
Tôi nhún vai. “Tớ không chắc nữa. Tớ chỉ nói là... khi nào tớ về thôi..”
“Nếu cậu còn ở lại Colby, thì hôm nào bố tớ sẽ lái xe đưa tụi mình ra hồ,” Howard nói. “Tụi mình có thể đưa Xương Chạc đi cùng. Tớ tin là nó thích bơi lắm đấy.”
“Có thể.”
“Tụi mình ra sông đi,” Howard nói.
Tôi thở dài. Mấy ngày nay Howard đều rủ tôi ra con sông sau nhà nó chơi, nhưng tôi thấy lo lắm.
“Nhỡ Xương Chạc lại chạy mất.thì sao?” tôi nói.
“Cậu nắm dây thật chắc vào,” Howard đáp. “Nhưng thực sự nó không muốn chạy trốn cậu đâu, Charlie ạ. Lần trước nó lỡ lầm thôi mà.” Nó ném bánh quy mặn xuống sàn cho Xương Chậc. “Nó đã quay về với cậu mà, phải không?”.
Nên cuối cùng tôi đành đồng ý, và cả ba chúng tôi cùng đi bộ ra sông. Những chiếc lá dương xỉ trên đường khẽ cọ vào chân chúng tôi, và Xương Chạc lại đánh hơi tất cả mọi thứ trên đường. Nhưng khi đến nơi, lòng tôi đột nhiên nặng trĩu.
Tôi không thấy những con cá tuế thân bạc luồn lách giữa những tảng đá rong rêu, mà chỉ thấy khuôn mặt Howard khi tôi nói, “Cậu ước mình không bị cà nhắc phải không?”. Mặc dù nó luôn tỏ vẻ không bận tâm về câu nói đó, nhưng với tôi, lỗi lầm to lớn đó vẫn tiếp tục lơ lửng giữa hai đứa như đám mây giông vậy.
Tôi thảy một viên đá cuội xuống sông khiến mặt nước gợn sóng và tụi cá tuế bơi toán loạn dưới nước. “Tớ xin lỗi vì chuyện hôm nọ nhé, Howard.”
Khi thấy nó có vẻ bối rối, tôi nói thêm: “Chuyện tớ nói là cậu ước chân không bị tật cà nhắc ấy.”
“À.” Howard cũng thảy một hòn đá cuội xuống dòng nước. Sau đó Xương Chạc cũng nhảy tõm xuống khiến nước lạnh dưới sông bắn lên tung tóe.
“Tớ biết câu nói đó thật độc ác, và tớ không nên thốt ra điều đó. Tớ xin lỗi,” tôi nói.
Tôi đã đợi Howard đáp, “Không sao mà,” nhưng nó không nói vậy.
Tôi đã đợi nó nói, “Đừng bận tâm chuyện đó,” nhưng nó cũng chẳng nói vậy.
Tôi mong nó nói, “Ôi giời, Charlie, tớ quên béng chuyện đó rồi,” nhưng nó cũng không hề nói thế.
Nó chỉ im lặng hồi lâu, sau đó nhún vai và nói, “Tớ đã quá quen với những điều độc ác mà mấy đứa khác nói về tướng đi của tớ rồi.”
Oạch!
Câu nói đó vừa đâm thẳng vào tim tớ đấy, Howard ạ!
Tôi cảm thấy mình vừa bị ném toẹt vào giữa nhóm trẻ con xấu tính ở Colby.
Và tôi thấy mình thật giống con sâu bị vùi xuống tận vũng bùn lầy.
Trong khi cố gắng nghĩ xem mình nên đáp lại Howard ra sao, tôi đưa mắt nhìn hết cái cây này, sang phiến đá khác, rồi lại nhìn dòng sông, cành dương xỉ. Và tôi phát hiện ra một chiếc lông chim màu đen giữa đám lá cây và lá thông rụng ven sông.
“Nhìn này!” tôi chạy đến nhặt chiếc lông chim và giơ ra trước mặt Howard.
Nó nheo mắt rồi chỉnh lại gọng kính trên chiếc mũi tàn nhang.
“Có thứ để ước này,” tôi nói. “Cậu đặt nó trên mặt đất là có thể ước một điều đấy.” Tôi đưa nó chiếc lông chim. “Này, cậu cầm đi. Hãy ước gì đi.”
Nó lắc đầu. “Không.”
“Sao lại không?”
Nó cởi kính và dùng vạt áo lau những giọt nước trên đó. Sau đó nó đeo kính lên và nói “Vì tớ biết điều ước của mình sẽ không bao giờ thành hiện thực.”
Chà, bây giờ thì đến lượt tôi thấy ngạc nhiên rồi đây. Nó lúc nào cũng là Quý ngài Tích cực cơ mà.
“Sao cậu biết?” tôi tò mò.
“Linh tính mách bảo tớ thế?’
“Cậu nhìn tớ này,” tôi nói. “Từ hồi lớp Bốn ngày nào tớ cũng ước đi ước lại một điều, và đến giờ nó vẫn chưa thành hiện thực đấy thôi.” Tôi vuốt ve cái đầu ướt sượt của Xương Chạc. “Nhưng nếu tớ ước đủ nhiều, thì một ngày nào đó điều ước của tớ sẽ thành hiện thực.”
“Vậy tớ hy vọng điều ước của cậu sẽ thành hiện thực,” Howard đáp.
Tôi lại giơ chiếc lông chim trước mặt nó lần nữa. “Cậu chắc không?”
Nó gật đầu.
Sau đó tôi đã đặt chiếc lông chim trên nền đất ướt ven sông, nhắm mắt, và thầm ước điều mình hằng mong mỏi.
Ngày hôm đó, trên đường về nhà, tôi thấy cảm giác tội lỗi trong lòng mình đã phần nào vơi bớt. Tôi không chắc mình đã sửa chữa được lỗi lầm chưa, nhưng ít ra tôi đã cố gắng.