← Quay lại trang sách

Theo Chân Mây I (tt)

Một lần, tôi ngỏ ý định muốn tìm một chân kèm trẻ cho một gia đình nào đó đi nghỉ mát ở miền biển để có thể sống ở miền biển một thời gian nhân dịp hè, điều mà tôi vẫn thèm khát. Nhiều người bảo rằng đời sống ở biển tẻ nhạt quá. Riêng đối với tôi, tôi lại thích sự tẻ nhạt ấy- Tôi thích những bãi cát chạy dài hoang vắng. Tôi yêu những buổi tối nằm dài trên bãi, ngắm sao trên trời, nghe sóng vỗ ngoài xa và thả lỏng tâm tư vào cõi hư không. Mới chỉ tưởng tượng đến điều đó thôi mà tôi đã thấy lòng êm ả hẳn đi. Anh nói không thích ngắm sao? Không thích nhìn biển? Tôi cũng nhớ anh đã viết cho tôi như vậy- Anh cũng khác tôi nhỉ? Tại sao thế? Vì cả hai việc đó cùng gợi lên trong anh cái ý tưởng về sự giới hạn của con người anh? Ngắm sao làm anh thấy mình tầm thường ti tiện? Tôi thì tôi nghĩ ngược hẳn với anh. Anh ghét đường chân trời của biển vì nó làm cho tầm mắt anh bị hạn hẹp. Còn tôi, tôi bằng lòng về sự có mặt của nó vì nó cho mắt tôi đựợc nghỉ ngơi và một điều thú vị cho trí tựởng tượng của tôi là: bên kia đường chân trời kia có rất nhiều cái lạ… Anh ghét ngắm sao và không chịu nổi sự phải thấy cái tầm thường ở trong anh, và ở cái cuộc sống xung quanh anh. Còn tôi, tôi tìm thấy sự thoải mái trong khi ngắm sao. Tôi nghĩ rằng trên đời này không có gì nhẹ nhàng và đáng ỵêu bằng các vì sao. Chắc anh cũng đã đọc bài ‘‘Les étoiles’’ của Alphonse Daudet? Tuyệt phải không? Nhưng anh vẫn sợ ngắm sao. Thoạt tiên tôi nghĩ là anh hợm mình khi nói rằng anh ghê sợ sự tầm thường. Tôi cho rằng anh thiếu thành thật, thích ‘‘làm ra vẻ’’ và tự cao tự đại... Dĩ nhiên đó là ý nghĩ dạo mới quen biết anh.

Khi tôi ngỏ ý định muốn tìm một chân kèm trẻ như vậy, anh không ngần ngại giới thiệu tôi với bà mẹ đỡ đầu của anh. Bà ta đến tìm tôi và đưa ra điều kiện. Nhưng khi nghe nói phải kèm cả một đứa học đệ tứ đang sửa soạn thi, tôi chùn lại. Thế là tôi bỏ lỡ dịp đi nghỉ hè ấy, bỏ lỡ dịp sống với biển và bỏ lở dịp gần gũi với anh từ Rạch Dừa về Vũng Tàu mỗi ngày chủ nhật để có dịp thảo luận với anh về cuộc sống mà tôi rất thích. Tôi bậy quá phải không? Anh có bất mãn về tôi không? Tôi không biết nếu anh giận tôi thì cho đến bao giờ anh mới hết giận được? May mà anh không ‘‘sợ’’ tôi như vài người bạn mà tôi đã kể với anh. Mặc dù tôi thích thấy nhân vật của tôi băn khoăn, khắc khoải, đau khổ thật đấy, nhưng tôi cũng còn thích rằng nó đừng tuyệt vọng, hay nếu có thì đó chỉ là mối tuyệt vọng về một sự đỗ vỡ trong hiện tại, một mối tuyệt vọng nhất thời…

Anh vẫn nghe tôi nói đấy chứ? Tôi biết rằng sự kể lể của tôi hôm nay đã đi ra ngoài cái thông lệ khép kín thường ngày của tôi. Anh ngạc nhiên là phải. Từ người quan sát anh tôi bỗng trở thành kẻ bi quan sát bởi anh. Buồn cười nhỉ? Nhưng ít ra điều này cũng gỡ tôi ra được phần nào cái mặc cảm ‘‘ thiếu thành thật’’ của mình trong sự giao thiệp với anh. Cũng tại anh cứ khăng khăng một mực là tôi yêu anh, yêu bằng tình yêu của một đứa con gái cho một thằng con trai. Bởi vậy tôi mới phải nói lên cái ý định của tôi. Tôi ‘‘tố cáo’’ tôi trước anh.

Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? À, phải rồi, đến chỗ sau khi tôi bỏ lỡ dịp làm préceptrice cho mấy đứa con của bà mẹ đỡ đầu của anh trong thời gian nghỉ hè tại Vũng Tàu.

Sau đó anh vẫn tiếp tục gửi thư cho tôi. Những lời lẽ trong những lá thư kế tiếp gửi về dần trở nên thân mật. Tôi cứ để anh tiến xa hơn mà không tỏ ý ngăn cản lại. Bởi chính trong lúc để anh tiến xa như vậy, tôi được dịp quan sát anh gần hơn. Về cảm tình của tôi đối với anh ư? Dĩ nhiên là tôi cũng quý mến anh chứ. Nhưng yêu thì chưa bao giờ... Đôi khi tôi cũng tự hỏi là liệu mình còn có thể yêu được ai?

Sau lần làm préceptrice hụt đó tôi tiếp tục những ngày nghỉ buồn nản trong cái thành phố đang lên cơn sốt vì một cuộc khủng hoảng tôn giáo mang màu sắc chính tri. Đen tối. Tôi không còn thì giờ nào nghĩ đến anh với những băn khoăn của anh. Chẳng phải vì tôi bận tham gia tranh đấu như bao nhiêu những người bạn của tôi đang làm. Tôi tự tách ra khỏi cuộc tranh đấu, vì thực sự không hiểu gì cả. Tôi hoài nghi. Tôi sống trong tình trạng ngơ ngác. Tôi muốn theo gót mọi người và xuống đường. Nhưng tôi vẫn đứng nhìn họ. Tôi bỗng bị ném vào trong một sự cô độc kỳ lạ. Họ hợp ở đâu? Họ biểu tình ở đâu? Họ bãi khóa như thế nào? Tôi hoàn toàn không biết gì cả. Tôi biết rõ là mình không sợ những bắt bớ giam hảm, cầm tù. Nhưng tôi vẫn không xuống đường theo gót họ. Có một lúc tôi nghĩ rằng tại mình suy nghĩ nhiều quá nên không chịu nhìn vấn đề áp bức, khủng bố dưới chính hình thức thật của nó. Có những lúc tôi hoảng sự với ý nghĩ rằng mình hỏng mất rồi vì đã không còn bất mãn, căm thù trước những gì gọi là bất công, có những lúc tôi không hiểu tôi nữa. Trong khi mọi người xuống đường, tôi buồn nản và lang thang và sợ sệt trước sự hư đốn của mình cùng với nỗi cô độc. Chả lẽ bây giờ tôi nhảy vào nắm tay với mọi người, gạt ra ngoài những ý nghĩ mâu thuẫn đang xâu xé tôi - mà làm sao gạt chúng ra cho được?- hành động đó khôi hài quá đi. Đấy, rồi rút cục tôi chẳng làm gì cả...

Tôi bỗng đâm ra thù chính trị vì vậy. Đứng trước những vấn đề chính trị, tôi thấy mình trở thành không ý kiến, vô lập trường, vô nghĩa...

Bởi vậy khi cuộc đảo chính xảy ra, tôi càng day dứt khổ sở và có vẻ thản nhiên trước sự nao nức của mọi người. Tôi không hiểu mình nữa. Hoặc cũng có thể những biến cố tôi tiếp nhận còn quá xô bồ. Tôi nảy ra ý định rời bỏ cái thành phố đang sôi sục và điên cuồng về bộ mặt mới của mình. Từ sau cuộc đảo chính, để tìm đến miền biển, miền của sự trầm lặng muôn đời trước mọi đổi thay của cuộc đời, thiên nhiên, vũ trụ, để ngắm lại những đường chân trời, những vì sao về đêm và để nghe tiếng sóng vỗ mà tôi hằng yêu thích và khao khát. Tôi nghĩ rằng Biển đối với tôi như hình ảnh người Mẹ mà mỗi lần cần sự êm ả, cần sự lắng đọng cho một tâm tư đang sôi sục, tôi thường nghĩ tới, mơ tưởng tới giây phút được ngắm nhìn và chỉ nguyên sự nhìn ngắm ấy thôi, lòng lôi sẽ được xoa dịu lại...

Anh đến vào chính lúc tôi đang cảm thấy cô độc. Tôi cũng cần một người bạn đồng hành. Một người bạn đồng hành và tôi quên hẳn sự coi anh như một nhân vật của mình.

Tôi hỏi anh làm gì trong mấy ngày qua. Anh đáp:

- Bị quân đội cách mạng giam giữ.

- Sao lại...? À, tôi hiểu rồi. Ít ra anh cũng đã giúp việc cho chế độ cũ. Anh không tham gia cuộc biểu tình của sinh viên?

Anh lắc đầu, kể cho tôi biết qua về mấy ngày ạnh bị giam:

- Tôi đang ở trường - như tôi đã nói với chị (tôi nhớ anh còh gọi tôi bằng chị) là sau khóa huấn luyện, tôi còn theo học lớp Tình-báo. Đêm xẩy ra biến cố, bọn này bị quân đội vào lùa hết vào trại giam. Ngày thứ ba tức hôm nay, mới được thả ra và chưa biết người ta sẽ giao cho mình chức vụ gì.

Tôi hỏi anh nghĩ sao về cuộc biến động - một câu hỏi tất nhiên. Anh đã trả lời tôi:

- Khéo rồi cũng như Đại Hàn mất.

Tôi nói và chợt nhận thấy mình cũng có ý kiến:

- Còn tôi, tôi hoài nghi vì chúng ta là một nước chạm tiến, Đảo chính là bệnh kinh niên. (Tôi không giấu gì anh là tôi vừa đọc bản dịch ‘‘ Guồng Máy’’ của Sartre được vài hôm. Ảnh hưởng sách vở là cái bệnh của tụi mình, có phải? Mình muốn có ý kiến trong khi thật sự mình chả có ý nghĩ quái gì cả.)

Tôi và anh nhìn nhau im lặng. Tôi bỗng pha trò.

- Thế ra anh là người của chế độ cũ đấy nhỉ? Bỗng dưng lại làm một thứ ‘‘tôi trung bất đắc dĩ’’!

Anh cười, khẽ nhún vai, hai bàn tay xoè ra, và đôi lông mày của anh nhướng lên. Tôi không biết anh đang nghĩ gì lúc ấy. Nhưng tôi thấy thú anh. Tôi đưa ý định rủ anh cùng ra Cấp nằm vài hôm. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên, có lẽ anh không ngờ rằng tôi lại đưa ra đề nghị đột ngột như thế, phải không? Nhưng anh lại nhận lời sau một thoáng giây ngạc nhiên, với một vẻ vội vàng. Tôi thầm nghĩ: có gì đâu. Có gì là quan trọng đâu. ‘‘ Và bỗng dưng tôi ghét cái vẻ ngạc nhiên ấy của anh.

Những ngày ở Cấp đối với anh có một ý nghĩa khác và đối với tôi lại có một ý nghĩa khác. Nhưng chúng mình, dầu sao, cũng mang cùng một tâm trạng lẩn trốn, lẩn trốn đối với cái rạo rực ở đằng sau, của đám người cuồng nhiệt kia mà chúng mình không một mảy may tham dự ngoài một cảm giác chua chát thế nào. Cả tôi lẫn anh cùng không hiểu vì sao, hay đúng hơn không muốn hiểu vì sao, vì cùng một lúc, mình có thể đưa ra nhiều lý do khiến mình không cùng tham dự với mọi người. Đôi khi tôi tự hỏi rằng chúng mình lẫn trốn như vậy có hèn nhát? Nhưng tôi đi đến kết luận chúng mình đâu có bị bắt buộc phải như mọi người. Mỗi người có quyền có một phản ứng riêng, trước một biến cố. Ý thức không phải là một sự hèn nhát. Nhưng thôi, nếu cứ loanh quanh trong vấn đề này thì ngàn đời mình vẫn chẳng đi đến một kết luận nào cả, nếu một khi còn sống và còn tiếp tục suy nghĩ và phải tiếp nhân những biến cố xung quanh, không, ảnh hưởng của những biến cố xung quanh thì đúng hơn.

Thành phố Vũng Tàu những ngày ấy vắng kỳ lạ. Nếu không có âm thanh của chiếc haut-parleur ở bãi trước luôn thông tin về những gì xảy ra từ sau biến cố ở Sài-gòn, nào tuyên ngôn, nào thông, cáo, nào danh sách những người tặng quà các chiến sĩ cách mạng..v.v… nếu không có lệnh giới, nghiêm từ tám giờ tối ở cái thành phố nhỏ bé ấy, thì có thể nói rằng cái mà người ta gọi là cách mạng chẳng hề làm cho bộ mặt của thành phố thay đổi. Rút cục, tôi với anh, hai kẻ trốn chạy đã bị đuổi và tóm được…

Trên bãi, hơn chục người ngoại quốc, lác đác một hai bộ mặt Sài-gòn, còn thì toàn là dân sinh sống ở đấy cả. Tôi hơi cảm thấy lạc lõng. Thêm anh vào làm tôi cảm thấy lạc lõng hơn. Anh ngạc nhiên về điều đó? Giản dị mà. Tôi ghét sự đồng lõa. Mà chúng mình là hai kẻ đồng lõa. Bởi vậy, tôi cảm thấy bực bội. Những gì anh suy nghĩ, làm sao tôi đoán được. Nhưng nhìn cái vẻ mãn nguyện của anh, tôi không khỏi khó chịu. Nhưng, anh ạ, đôi khi những thành kiến chưa bị tiêu diệt hẳn trong tôi. Tôi sống trong một trạng thái xung đột triền miên: Tôi và sự khe khắt của một ý thức đạo đức, tôi và cái biến cố vừa qua ở Sài-gòn, tôi và... tôi và... Và tôi, và tôi muốn được yên thân một mình vì vậy. Nhưng tôi không đủ can đảm nói thẳng với anh điều đó, tôi cũng không đủ can đảm phân tích tôi đến tận tường nữa và tôi cũng không đủ can đảm chịu đựng sự cô độc sau khi anh đã đi rồi, mặc dù chính tôi lại mong được cô độc. Tôi chỉ có thể im lặng theo anh đi kiếm một cái khách sạn có lối kiến trúc cổ điển mà một lần tình cờ đi sục sạo trong cái thành phố này, anh bắt gặp và thích thú. Anh không nhớ tên đường, chỉ lờ mờ biết rằng tòa nhà ấy nó nằm trên con đường đi ra bãi sau. Cuối cùng chúng mình cũng kiếm ra nó. Nhưng nếu nó đã làm anh chú ý về vẻ cổ điển của nó khi nhìn thoáng qua thì sự thiếu tiện nghi của nó đã làm anh thất vọng. Còn tôi không có ý kiến. Vì đối với tôi, sự quan trọng không phải ở những tiện nghi. Chiếc cầu thang bằng gỗ, sàn gác bằng gỗ, vách cũng bằng gỗ - thứ gỗ lâu đời, ọp ẹp, mối đục lung tung, cả ở một vài bậc thang khiến, nếu không cẩn thận, có thể bị mất thăng bằng hay trượt ngã vì một chỗ mục nào đó.

Người bồi phòng dẫn tôi và anh vào một căn phòng, ngay kế bên cầu thang rồi bỏ xuống. Tôi vất túi hành lý xuống sàn nhà và ngồi phịch xuống giường. Anh đưa mắt nhìn xung quanh rồi ngừng lại ở tôi. Có lẽ anh tưởng tôi thất vọng về cái khách sạn mà anh đã hết sức ca ngợi khi chưa đi sâu vào nó. Có thể tôi cũng hơi thất vọng vì nó không như cái hình ảnh tưởng tượng của tôi có về nó khi nghe anh tả. Nhưng điều đó quá thật chẳng quan trọng gì. Anh nói, vừa với tôi vừa với một mình anh:

- Mình không thể ngờ là nó lại thiếu tiện nghi và tồi tàn đến thế này!

Tôi khẽ nhún vai nói:

- Đi sâu vào bao giờ cũng vậy. Bỏ đi thì mình cũng tầm thường nốt. Vậy hãy chấp nhận. Vả lại cái xung quanh thật sự có qụan trọng gì.

Anh nhìn tôi một lúc lâu. Tôi khẽ nhún vai một lần nữa, cười, bỏ đi ra balcon và bỗng dưng suy nghĩ về những điều vừa nói bởi vì chính tôị cũng không ngờ rằng mình đã nói ra những điều đó. Anh ra đứng cạnh tôi. Tôi chờ đợi anh hỏi một câu hỏi thông thường là tôi có ân hận gì không. Nhưng anh không hỏi gì hết. Có lẽ như vậy lại hay. Dầu sao tôi cũng tự lừa dối rằng anh không thắc mắc về cái điều tôi đang băn khoăn. Tôi sợ việc mình phải nhìn thấy một cách rõ ràng quá sự hiện diện của một ý thức đang-chiếu-vào mình. Anh có thể cho rằng tôi giả dối. Đôi khi sự tự lừa dối là cần thiết, nếu thấy phải tranh thủ lấy đôi phút thoải mải cho tâm hồn. Nhưng có điều chắc chắn rằng lừa dối mình vài lần, mình sẽ có được một thói quen. Nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi rằng có thật anh là một người chưa hề bị thành kiến tiêm nhiễm nên đã chấp nhân việc tôi đi với anh là tự nhiên và rất nhiều sự việc khác anh cũng cho là tự nhiên? Sở dĩ tôi nói rằng ‘‘anh chưa bị thành kiến tiêm nhiễm’’ mà không nói ‘‘anh gạt ra ngoài những thành kiến’’ là vì căn cứ vào cử chỉ và những lời nói của anh, tôi vẫn thấy một tính chất hồn nhiên, ngay cả sự suy tư của anh về cuộc sống vẫn có vẽ thuần khiết khiết thế nào. Tại sao tôi lại mang những ý nghĩ ấy về anh? Tôi chịu không thể giải thích được vì sao? Vì sự tiếp xúc đầu tiên với tâm hồn nhiều tin tưởng ngây thơ và vô vị lợi của anh chăng? Tôi ngờ là thế nhưng cũng không biết đích xác và không dám cả quá quyết. Chỉ biết rằng cái ý nghĩ của tôi về anh nó như thế, không thay đổi. Đáng lẽ rằng sau lần ngủ với anh, ý nghĩ đó phải mất đi, thì trái lại nó được củng cố thêm lên. Kẻ bỉ ổi và đáng giận lại là tôi.

Tôi thay bộ áo dài và khoác bộ đồ đi biển rồi lên nằm dài trên giường.

- Dù sao, khung cảnh xung quanh cũng vẫn đẹp.

Anh ngồi xuống bên tôi, xoay lưng lại phía tôi và cúi xuống lấy mấy cuốn sách mang theo trong túi hành lý ra xếp trên bàn ngủ.

- Nếu không ưng ý, mình có thể rời khỏi đây?

Anh đột ngột quay lại phía tôi hỏi. Tôi nghĩ đến sự di chuyển và cái đám đông ở một khách sạn tiện nghi trong thành phố mà ngại. Tôi nói, ở đây yên tĩnh hơn.

Rồi tôi trở mình nằm sấp, tì cằm trên cánh tay và nhìn vào những vật anh đang lôi ở túi đựng hành lý ra: một cuốn của Camus và hai cuốn thơ của Prévert.

Trong khi mọi người ở Sài-gòn hân hoan trước một sự xụp đổ - dù rằng họ chưa ý thức và có lẽ cũng chẳng nghĩ đến những gì sẽ đến kế tiếp cái xụp đổ ấy -, thì anh và tôi nằm ở đây trong một cái khách sạn cổ điển, cũ kỹ, ọp ẹp, ở một cái miền mà ‘‘ hơi hướng cách mạng’’ chỉ thể hiện qua cái haut-parleur ở ngoài bãi, lệnh giới nghiêm từ tám giờ tối, những trang báo được cấp tốc gửi từ Sài-gòn ra nói về cái mà người ta dự định thành lập v.v... và anh và tôi đọc những cái được viết ra từ một phương trời xa lạ, bởi những con người với những suy tư và cảm xúc trong một điều kiện no đủ nhất! Thôi đi, anh, đừng nói rằng sự suy tư về thân phận con người đó là vấn đề chung cho nhân loại. Tôi cũng muốn tin như thế lắm, cũng như tôi cũng rất muốn tin quan niệm của một số người cho rằng: vấn đề chính trị và cơm áo là vấn đề tiên khởi của người dân nước chậm tiến, và vấn đề giới hạn con người, hay nói cách khác, sự suy tư về than phận con người trước cuộc sống hữu hạn haỵ gì gì đó, phải đến sau khi không còn những thiếu thốn, đói khổ nữa. Và rút cục, tôi không muốn tin gì cả. Tôi bất mãn tất cả, bất mãn tôi, bất mãn mọi người, bất mãn cuộc đời. Nhưng tôi vẫn phải tiếp tục suy nghĩ. Và đi đến kết luận để mong chấm dứt một sự xâu xé về quan niệm trong tôi: chính những đói khổ, những thiếu thốn làm cho sự suy tư về thân phận con người thêm nung nấu, chua xót. Nhưng suy tư rồi để làm gì chứ? Nếu chỉ để viết ra những điều đó thì tôi thấy còn vô ích hơn nữa. Thú thật với anh, tôi không biết mình phải làm gì cả

Xin lỗi anh, tôi đã lạm dụng một sự liên tưởng để nói về mình hơi nhiều. Tóm lại tôi không phiền trách mình về những gì đã qua. Tôi chỉ thương cho anh, thương cho tôi, thương cho những người trẻ chúng mình: chúi đầu vào sách vở để rồi chỉ thấy chua sót và bất bình, chua xót vồ bất bình mình, chua xót và bất bình cuộc đời, chua xót và bất bình tất cả, và nhất là để thấy mình không ăn nhịp với cái dòng sống xung quanh…