Chương 7
Một đêm nọ, khi anh bị nỗi nhớ cha đánh thức trong bóng tối, Sebastien hỏi tôi, “Nói cho anh nghe em ngưỡng mộ điều gì nhất ở cha em?”
Tôi giả vờ như không nhớ, nhưng anh vẫn gặng hỏi. “Hãy nói cho anh biết đi, Amabelle. Anh rất muốn biết điều này.”
“Cha em tên là Antoine Désir,” tôi nói bởi tôi biết anh sẽ hỏi tôi lần nữa. “Em luôn nghe người ta gọi cha là Frè 1 Antoine, hay Chú Antoine, như cách họ gọi mẹ em là Man 2 Irelle, hay Mẹ Irelle. Mẹ em lớn tuổi hơn cha em, em nghĩ thế, và nhiều người nói là bà trông cũng già hơn nữa.”
1 Tiếng Creole, nghĩa là anh trai hay chú, chỉ một người đàn ông trẻ tuổi. Bắt nguồn từ chữ “frère” trong tiếng Pháp, do Creole ở Haiti là một ngôn ngữ pha trộn được xây dựng chủ yếu trên nền ngôn ngữ tiếng Pháp thế kỷ 18, với ảnh hưởng từ các ngôn ngữ Taíno (ngôn ngữ bản địa của Haiti), Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, và các ngôn ngữ khác ở Tây Phi.
2 Tiếng Creole, nghĩa là mẹ hay má, có thể dùng để chỉ một người đàn bà lớn tuổi. Bắt nguồn từ chữ “maman” trong tiếng Pháp.
“Nói cho anh nghe điều em yêu quý nhất về cha em đi.” Giọng nói của Sebastien có vẻ rụt rè hơn bình thường, như thể thực lòng anh không muốn biết câu trả lời và anh sẽ thoải mái hơn nếu tôi nói rằng tôi không có cha. Nhưng anh biết cha tôi tồn tại, và tôi cũng đã mất ông như anh đã mất cha mình.
“Cha là một người luôn vui vẻ hồ hởi, ngược lại với vẻ khắc khổ trầm lặng của mẹ,” tôi thú nhận. “Ông thường nhấc em lên và tung em lên trời, ngay cả khi em đã quá tuổi bế bồng và tất cả mọi thứ ông làm không còn là những điều diệu kỳ trong mắt em nữa. Ông thường giả vờ ăn đồ ăn của em nếu như ông vét hết đĩa của mình trước khi em ăn xong. Ông dành rất nhiều thời gian làm công việc đỡ đẻ và chữa bệnh. Ông luôn tìm tòi những phương thuốc mới và những cách điều trị các chứng bệnh mà ông thậm chí còn chưa gặp. Ngoài công việc trị bệnh và hộ sinh mà ông làm cùng với mẹ, cha em dành rất nhiều thời gian giúp đỡ mọi người cày ruộng và đào mương dẫn nước. Em đã luôn ghen tị với thời gian mà ông dành để làm việc trên mảnh đất của những người khác.”
Tôi có thể cảm nhận được anh đã sẵn sàng. Anh đang đợi tôi hỏi về người cha quá cố của anh. Tôi có thể nhận ra điều đó trong quãng lặng tưởng chừng vô tận sau khi anh nghe tôi nói xong, hay cách anh mở miệng ậm ừ và sau đó thở dài như thể anh đang tự hỏi rằng anh có thể bắt đầu câu chuyện từ đâu.
“Cơn bão đã tìm thấy cha anh như thế nào?” Câu hỏi cuối cùng cũng bật ra khỏi miệng tôi. Nó không phải là cách dịu dàng hay khéo léo nhất để hỏi, nhưng tôi tin rằng nó sẽ giúp anh lên tiếng.
Anh mở miệng thêm vài lần nữa rồi rên lên khe khẽ.
“Nếu em để bản thân tưởng tượng,” anh lên tiếng, “em có thể hình dung cảnh đó ngay trước mắt em. Một cậu bé cõng người cha đã chết từ đường cái, run rẩy, xiêu vẹo, và chỉ chực sụm xuống dưới sức nặng của ông. Gió thổi lùng bùng trong lỗ tai cậu trong khi xung quanh những mảnh vụn của tấm tôn đã cứa đứt cổ cha cậu bay loạn xạ. Cậu không gào khóc hay kêu thét như em tưởng, chỉ cố gắng không làm tuột cha mình xuống đất. Cậu cầu nguyện rằng máu trong cổ họng cha sẽ ở lại trong đó mà không quyện vào dòng nước lũ đục ngầu và trôi đến những nơi vô định. Nếu em thử tưởng tượng, em có thể nhìn thấy cảnh đó ngay trước mắt mình.”