Chương 8
Señor Pico Duarte mang cái tên của một trong các vị cha già dân tộc đã giành độc lập cho Dominicana, một cái tên mà anh đã chia sẻ với ngọn núi cao nhất trên hòn đảo này cho đến mãi gần đây khi nó được đổi tên thành Pico Trujillo theo tên của Generalissimo. Dù vậy, ở tuổi ba mươi sáu, Señor Pico Duarte vẫn thấp hơn so với chiều cao trung bình của cánh đàn ông, ngay cả khi anh đi ủng quân đội, thứ mà bình thường vẫn làm tôn thêm dáng vẻ cho những quân nhân khác. Với nước da màu mật ong pha hạnh nhân và đôi mắt như hai hòn than chì, anh là khuôn mẫu tạo nên bề ngoài của Rosalinda.
Sàn nhà rung chuyển dưới gót giày của anh khi anh chạy ào ra từ xe ô tô của Papi vào trong nhà để gặp người vợ và những đứa con mới sinh, tìm kiếm bóng dáng họ ở trong phòng khách và các căn phòng khác của ngôi nhà. Cả bác Juana và tôi chạy phía sau anh một cách đầy bản năng và tuân phục về phía phòng của vợ anh. Có lẽ chúng tôi đều nghĩ rằng anh sẽ cần chúng tôi đi lấy cái gì đó cho anh, cho vợ anh, hay cho các con của anh. Là kẻ hầu hạ cho người khác, bạn học cách trở nên vừa hiện hữu vừa vô hình: ở gần bên chủ khi họ cần và cách xa khi họ không cần, nhưng vẫn vừa đủ gần trong trường hợp họ đổi ý.
Bác Juana đã bình tĩnh hơn. Bác nhìn Señor Pico với một nụ cười trìu mến khi thấy anh lao tới bên giường và hôn lên tóc và trán vợ.
“Pico, hãy để em ngắm anh nào,” chị ân cần nói. Những ngón tay chị đan vào mái tóc lởm chởm với những sợi cứng và đen như nhựa đường của anh.
“Con hãy đi thăm bọn trẻ đi,” Papi giục anh với một tràng cười hào sảng.
Khi anh đến bên cạnh nôi và nhìn xuống, toàn thân Señor Pico rúng động như thể muốn cất tiếng hét lên. Anh đưa nắm tay lên miệng để kiềm chế niềm vui sướng hân hoan. Đôi mắt anh ngắm nghía đứa con trai, người nối dõi của anh. Nhấc tấm chăn đang đắp trên người thằng bé, anh nhìn vào trong tã để kiểm tra hai hòn bi của con.
“Anh sẽ đặt tên nó là Rafael, vì Generalissimo,” anh nói trong lúc bác Juana quấn lũ trẻ lại trong chăn có phần còn kỹ càng hơn trước. Señora đồng ý với một cái gật đầu e lệ. Và thế là thằng bé sẽ mang tên Rafael như Generalissimo, vị tổng thống của quốc gia. Tên thân mật ở nhà của nó sẽ là Rafi.
Trong khi chiêm nghiệm sự kỳ diệu và tao nhã hiếm có của cái tên anh mới đặt cho con trai, Señor Pico cởi bỏ mũ và áo chẽn bằng vải kaki và thả chúng thành một đống trên sàn nhà. Bác Juana chạy lại và nhặt chúng lên. Đây chính là lý do chúng tôi đi theo anh vào phòng, để anh không phải bận tâm đến những việc nhỏ nhặt như vậy trong lúc tận hưởng niềm vui sướng tột cùng.
Tôi liếc nhìn sang chồng của bác Juana, Luis, đang đứng một mình ở cửa ra vào. Trông bác như đang chực khóc. Bác Luis vẫn đang mặc bộ đồ làm vườn thường ngày, với một cái áo sơ-mi lấm lem bùn đất và một cái quần rộng thùng thình như một cái dù xung quanh thân người xương xẩu. Bác áp chặt cái mũ rơm trên ngực với vẻ nghiêm trang. Trong mắt bác ánh lên vẻ khao khát mà tôi đã nhìn thấy trong mắt bác Juana trước đó. Vốn tính nhút nhát, bác Luis cẩn thận che giấu cảm xúc của mình đằng sau những cử chỉ nhã nhặn và tôn kính. Bác không bước qua lằn ranh ở cửa để đến bên giường và thăm lũ trẻ, mà cũng không ai bảo bác làm điều đó.
“Cậu có muốn dùng bữa không, thưa Señor?” Bác Juana vừa hỏi vừa thu nhặt đôi ủng cao cổ màu đen của anh trên sàn nhà.
Señor Pico ra hiệu cho bác đi ra với một cái khoát tay hồ hởi. “Cậu có muốn chúng tôi chuẩn bị nước tắm không?” Bác vẫn tiếp tục.
“Hãy đặt nước trên than hồng cho tôi,” anh đáp. Bác Luis chạy vội đi đun nước tắm cho Señor Pico.
“Chắc là em đã phải chịu nhiều vất vả rồi. Có đau lắm không em?” Señor Pico hỏi vợ.
Chị trả lời với một nụ cười thanh thản làm bừng sáng khuôn mặt. Bác Juana để quần áo của Señor Pico vào trong chiếc tủ đứng.
“Amabelle, Juana, hai người có thể lui ra được rồi,” Señor Pico ra lệnh.
Trong lúc señor bận bịu với vợ và các con, tôi ngồi trên một cái ghế đu trước cửa phòng và nhìn bác Luis ngồi giữa sân với một cái đèn bão, lúi húi dùng chiếc mũ rơm quạt lửa để đun nước tắm cho Señor Pico. Khi những ngọn lửa bắt đầu bừng lên, ngọn gió đêm chơi đùa với chúng, hắt lên trên thành chiếc chậu tắm bằng thiếc những hình bóng nhảy múa. Bác Juana đi đến chỗ chồng và đưa cho bác trai một bát súp hầm. Bác Luis đặt cái bát gần cái chậu để giữ ấm. Bác dọn một khoảng trống trên nền đất và trải một miếng giẻ bên cạnh cho vợ ngồi xuống. Bác Juana bắt đầu kể cho bác Luis nghe về việc nhận được tin tức (và hạt cà phê khô) từ các cô em gái. Bác nói một cách hồ hởi về những đứa trẻ của Señora Valencia, rằng bác không thể tin được rằng mình đã từng chứng kiến Señora Valencia chào đời và giờ đây chị cũng đã trở thành một người mẹ.
Trong khi bác gái thao thao bất tuyệt, bác Luis đưa mắt nhìn bóng tối bao phủ xung quanh, như lo sợ sẽ bị những cái cây tấn công. Nhưng bác vẫn giữ im lặng và đợi đến lượt mình nói. Cuối cùng thì bác Juana cũng chấm dứt câu chuyện và chìm vào im lặng.
“Señor Pico mua một con dê và bảo tôi xẻ thịt và ướp muối nó tối nay” là những gì bác nói trước tiên.
“Thế con dê đâu rồi?” Bác Juana hỏi.
Bác Juana liếc nhìn con dê bị treo ngược bằng chân sau từ một trong những cành to khỏe nhất của cây phượng. Bác trở qua nhìn chăm chú vào mặt chồng, dường như cảm nhận được có điều gì không hay đã xảy ra, một điều mà bác trai chưa nói với bác.
“Chuyến đi về của ông như thế nào?” Bác hỏi tiếp.
“Quá nhanh,” bác Luis trả lời. “Don Ignacio lái xe quá nhanh trên đường đến trại lính. Señor Pico cũng phóng quá nhanh trên đường về nhà. Tôi cứ tưởng rằng bà sẽ phải đi dựng một cây thập tự trắng cho tôi ở bên triền núi rồi chứ 1 . Người ta nói rằng loại xe đó được làm ra để đua. Tôi cảm thấy chúng tôi lúc đó như đang đua xe vậy.”
1 Ý Luis nói rằng ông có thể đã chết (cây thập tự trắng thường được dựng trên mộ những người Công giáo).
“Ông vẫn đang run đấy ư?” Bác Juana hỏi, vòng cánh tay rộng lớn ôm lấy hình hài khiêm tốn của chồng.
“Tôi còn chưa kể hết nửa câu chuyện cho bà,” Luis tiếp tục. “Señor Pico là người lái xe trên chặng đường về. Tôi chưa từng trông thấy ai hạnh phúc tràn trề như thế. Đó không phải là lỗi của cậu ấy. Ai có thể trách tội cậu ấy được?”
“Trách cậu ấy về điều gì?” Bác Juana gặng hỏi.
“Señor Pico vừa lái xe vừa nói chuyện. Càng gần tới nhà thì cậu ấy càng tăng tốc. Cậu ấy mải mê hỏi Don Ignacio đủ thứ câu hỏi về lũ trẻ. Don Ignacio đã nói tới lần thứ bảy hay bảy mươi bảy không biết nữa cho cậu ấy về bọn trẻ, rằng chúng to như thế nào, chúng trông giống ai, và nhiều thứ khác nữa. Khi ông ấy không nói nữa thì Señor Pico càng lái xe nhanh hơn. Khi bọn tôi vừa trờ tới đoạn đường gần khe núi thì xuất hiện ba người đàn ông đang đi bộ phía trước…”
“Lạy Đức Mẹ của ngọn nguồn sự sống tha tội cho chúng con,” bác Juana cắt lời chồng. Bác giơ cả hai tay lên trời như muốn khẩn cầu với những vì sao.
“Señor Pico hét lên và bấm còi ra hiệu cho bọn họ,” Luis tiếp tục. “Hai người trong số bọn họ tránh ra kịp thời. Người cuối cùng có vẻ như không nghe thấy tiếng còi xe. Chiếc xe ô tô đâm vào anh ta và hất anh ta bay xuống lạch. Anh ta thét lên khi bị đụng, nhưng khi chúng tôi chạy ra khỏi xe để nhìn thì anh ta đã mất dạng rồi. Hình như anh ta là một trong những người phu đồn điền cho nhà máy ép mía của Don Carlos.”
Tôi biết hầu hết tất cả bọn họ, những người phu sinh sống và làm việc quần quật cùng Sebastien trong nhà máy cũng như trên những ruộng mía của Don Carlos. Thung lũng này đủ nhỏ để tất cả chúng tôi ít nhiều đều biết nhau. Ngay lập tức, tôi nghĩ tới Sebastien. Chắc chắn một người phu khác đã đến báo tin cho tôi rồi nếu Sebastien bị ô tô của Señor Pico cán phải.
Có tiếng động lạo xạo phát ra từ đằng sau cây phượng. Tất cả chúng tôi cùng giật mình đứng phắt dậy. Tôi tưởng rằng Sebastien sẽ xuất hiện và chạy về phía tôi với thân thể đầy máu me. Nhưng trái lại chỉ có bác sĩ Javier và em gái của ông, Beatriz. Beatriz dành phần lớn thời gian với những phím đàn trên chiếc dương cầm trong phòng khách của mẹ cô và độc thoại bằng tiếng La tinh. Thiên hạ đồn thổi rằng cô mơ ước trở thành một nữ nhà báo, mặc quần dài, chu du khắp thế gian, và phỏng vấn những mảnh đời bất hạnh hơn mình. Señor Pico đã từng tán tỉnh Beatriz trước khi quay sang theo đuổi señora, mặc dù cô ấy không hề mảy may lay động. Một ngày nọ, sau khi Beatriz thẳng thừng yêu cầu señor rời khỏi phòng khách của mẹ cô để cô có thể tập trung chơi đàn một mình, anh đã chạy ra khỏi nhà cô trong cơn tự ái ngút trời vì bị chối từ tình cảm và bắt gặp Señora Valencia đang hái những bông hoa lan đỏ trong vườn của cha để cắm vào chiếc lọ đặt bên cạnh giường. Señor Pico, người mà chị chỉ biết đến trước đó như hộ vệ thường trực của Beatriz ở tất cả những buổi tiệc tùng, đột nhiên ngỏ ý giúp chị chọn hoa. Chỉ sau một tháng lui tới trò chuyện với señora, anh đã ngỏ lời với Papi về ý muốn thành hôn với chị. Papi chấp thuận sau khi hỏi ý kiến señora, với điều kiện rằng con gái ông sẽ tiếp tục sống thoải mái trong căn nhà của mình chứ không phải trong những căn nhà gỗ một tầng ọp ẹp gần trại lính, nơi Señor Pico thường xuyên phải có mặt vì trọng trách đặc biệt của anh với quân đội.
Bác Juana đứng dậy chào bác sĩ và cô Beatriz. Beatriz đã tết những sợi ruy băng sặc sỡ vào bím tóc màu caramel dài tới đầu gối của mình. Bím tóc đung đưa sau lưng cô như một chiếc xương cá khổng lồ.
Gật đầu đáp lời chào của bác Juana, bác sĩ Javier hỏi, “Bố của bọn trẻ đã về chưa?”
“Vâng, cậu chủ đã về rồi,” bác Juana đáp lời. “Xin chào buổi tối, Señorita Beatriz 1 .”
1 Tiếng Tây Ban Nha, từ tôn kính để gọi một cô gái trẻ, hàm nghĩa như tiểu thư. Ở đây, Juana gọi Beatriz là señorita thay vì señora như Valencia vì Beatriz ít tuổi hơn Valencia.
“Salve!” 2 Beatriz đáp bằng tiếng La tinh.
2 Tiếng La tinh, có nghĩa là xin chào hay chúc sức khỏe.
“Hola 3 , Señorita Beatriz!” Bác Juana đáp, phủi bụi đất bám đằng sau váy. “Xin mời hai người vào nhà.”
3 Tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là xin chào.
Tôi không thể ngừng lo lắng cho Sebastien. Trong lúc tiếng cười nói và những câu tiếng La tinh trôi chảy của Beatriz vọng ra từ phòng ngủ của Señora Valencia, tôi rảo bước về phía cây phượng và con dê mà Señor Pico mang về. Gần vũng máu đọng nơi mũi con dê gần chạm đất là thúng đồ khâu của tôi với chiếc áo còn dang dở của Sebastien. Tôi đã quăng chúng ở đó khi tôi nghe tiếng kêu đầu tiên của Señora Valencia. Tôi nhặt cái thúng và chiếc áo cho Sebastien lên và mang chúng về chiếc ghế đu với mình. Trên lầu, tiếng cười nói vẫn tiếp tục vọng ra trong khi bác Luis vẫn đang quạt lửa để giữ ấm cho nước tắm của Señor Pico.
Nhanh sau đó, bác sĩ Javier ra về với Beatriz, không quên ngoái lại nhìn tôi từ đằng xa. Señor Pico đã sẵn sàng để tắm và gọi bác Luis bưng nước tắm đến cho anh.
“Vợ tôi muốn gặp cô,” Señor Pico hắng giọng ra lệnh cho tôi từ bên kia sân.
Tôi nhanh chóng đi về phòng của chị. Chị đang nằm một mình trên giường, với lũ trẻ nằm ngủ kế bên.
“Chị thật biết ơn em, Amabelle, vì những gì em đã làm ngày hôm nay.” Chị nói và siết chặt lấy tay tôi.
Khi chồng chị bước vào phòng trong bộ đồ ngủ, chị nhanh chóng thả tay tôi ra. “Vú Juana sẽ ở đây tối nay với chị,” chị tuyên bố.
Tại sao lại là Juana? Tại sao lại không phải là tôi? Những câu hỏi đó lóe lên trong óc tôi. Nhưng có thể bác Juana đã xin chị được ở trong phòng. Có lẽ bác ấy cần ôm ấp lũ trẻ với làn da mịn như mây và tưởng tượng rằng chúng là con của mình. Hơn nữa, tôi phải quay về phòng để đợi Sebastien. Chắc chắn anh ấy sẽ biết chuyện gì đã xảy ra và ai là người đã bị chiếc ô tô cán phải.
Bác Juana đang trải chồng những tấm chăn lên sàn để làm chỗ ngủ trong căn phòng từng là nơi mẹ của Señora Valencia ngồi thêu thùa. Đằng sau lưng bác là chiếc giường lớn có bốn cột và màn che mà Papi đã đóng từ rất lâu để phục vụ những giấc ngủ trưa của vợ mình.
Señor Pico đóng chặt cửa phòng ngủ của vợ để ngăn khí lạnh buổi đêm. Tôi vẫy tay chào buổi tối bác Juana, người đang chìm dần vào giấc ngủ. Bác thổi tắt ngọn đèn và để tôi mò mẫm trong bóng tối.
Trong phòng, Señor Pico đang cố chọc cười vợ bằng cách kể lể rằng anh đã nhớ chị da diết đến thế nào trong những đêm trằn trọc trên tấm nệm cứng ngắc, chật hẹp, và đầy côn trùng ở trong trại lính.
“Có thật là nó tồi tệ đến vậy không anh?” Chị thốt lên.
Thật sự là vậy đấy, anh quả quyết. Thậm chí còn tệ hơn những gì em tưởng nữa, nếu anh nói thật lòng. Khi xa chị, mỗi ngày trôi qua với anh như màn cực hình phải ngồi trên ghế sắt giữa Địa ngục.
Señora hỏi chồng liệu anh có phải quay trở lại trại lính sớm không. Những binh lính cấp dưới của anh có thể chờ thêm một chút nữa, phải không?
Anh trả lời rằng sẽ cố gắng ở nhà cho đến khi chị hết thời gian ở cữ, nhưng mọi việc có thể thay đổi nhanh chóng. Anh đã quên nói với chị sao? Trí nhớ của anh dạo này bỏ đi đâu không biết. Generalissimo đang ở chơi nhà một người bạn, không cách xa đây lắm. Bà bạn tốt của ngài, Doña Isabela Mayer, đang lên kế hoạch tổ chức một buổi dạ tiệc thật long trọng cho ngài ở gần biên giới. Và anh – chồng của chị, có tin được không? – đã được giao phó trọng trách chỉ huy một đội quân để bảo đảm an toàn cho Generalissimo khi ngài đi dự tiệc. Đội quân của anh cũng sẽ nắm nhiệm vụ triển khai một chiến dịch biên giới mới.
Chẳng phải điều này có nghĩa là anh sẽ phải xa nhà lâu hơn trong thời gian tới ư? Señora Valencia hỏi gặng.
Chị không cần phải lo lắng gì cả, anh trấn an. Chiến dịch sẽ kết thúc nhanh chóng và gọn nhẹ. Thú thực là một phần chiến dịch đã bắt đầu rồi.
Chị không đón nhận tin này với sự vui mừng mà anh đã trông đợi. “Chúng ta không nên bàn tới chuyện anh phải ra đi nữa,” chị nói. “Chí ít thì lúc này anh đang ở bên bọn em.”
Trong phòng khách, Papi ngồi một mình như hàng đêm ông vẫn ngồi, trong một góc gần chiếc radio hình chiếc đàn xếp, dỏng tai lên để cố gắng nghe tiếng của một phát thanh viên mà không làm ảnh hưởng đến những giọng nói khác. Papi là một nhà yêu nước lưu vong, và ông vẫn đang tiếp tục tham gia vào cuộc nội chiến đã kéo dài được một năm rưỡi ở Tây Ban Nha qua chiếc radio. Trên đùi ông mở ra các tấm bản đồ của quê hương nơi ông dò tìm các thành phố khác nhau bằng một cái kính lúp trong lúc nghe radio. Những tấm bản đồ đã nứt cạnh và sờn góc, như muốn mủn ra thành bụi theo từng ngày.
“Cuộc chiến hôm nay thế nào thưa ông?” Tôi hỏi. “Bên của ông có đang thắng thế không?”
“Bên chính diện không phải lúc nào cũng là bên thắng cuộc,” ông đáp.
“Ông có ước mình đang ở đó không?”
“Một ông già như ta thì làm được gì ở trên chiến trường?”
Phía trên đầu của Papi sừng sững một bức chân dung lớn của Generalissimo mà Señora Valencia đã vẽ theo mong muốn của chồng. Bức tranh của chị là một phiên bản cải tiến đáng kể so với những tấm ảnh chụp Generalissimo trên báo chí. Chị đã biến ông ta thành một người khổng lồ trong bộ chiến phục của quân đội, tô điểm bằng cầu vai tua rua và từng hàng huy chương nằm ngay ngắn dưới dải băng đeo màu vàng nghệ bắt chéo qua ngực. Đằng sau lưng ông ta là lá quốc kỳ màu đỏ và xanh nước biển với chữ thập màu trắng ở chính giữa, cùng với quốc huy và chiếc khiên với hàng chữ: DIOS, PATRIA, LIBERTAD. CHÚA, TỔ QUỐC, TỰ DO. Nhưng vị trí chủ đạo vẫn thuộc về Generalissimo, với khuôn mặt trái xoan đầy vẻ nghiêm trang và mái tóc đen dày (những sợi bạc lưa thưa đã được che phủ một cách khéo léo). Những lọn tóc đầy sức sống của ông được chải thành nếp mượt mà, viền quanh vầng trán rộng. Trên mặt ông là nụ cười duyên hiền hậu và đôi mắt dịu dàng một cách kỳ lạ. Một ánh mắt gợi tình như nhiều người đã nhận xét.
Papi dường như không để ý tới sự hiện diện đầy oai vệ của Generalissimo trong lúc mải mê lắng nghe tin tức từ một nơi xa xôi. “Ông có muốn dùng một chút trà mãng cầu xiêm 1 không?” Tôi hỏi. “Nó rất tốt cho giấc ngủ đấy.”
1 Tiếng Tây Ban Nha: guanabana.
Papi lắc đầu.
“Amabelle, ta thật là một kẻ không may,” ông buông lời nhận xét.
“Tại sao ông lại nói vậy?” Tôi hỏi.
“Ta nghĩ rằng bọn ta đã cán chết một người đàn ông tối nay,” ông nói.
Lúc đó, tôi nghĩ trong đầu rằng người đàn ông đã chết kia còn bất hạnh hơn Papi nhiều.
“Vào ngày cháu ngoại ta chào đời, chiếc ô tô chở ta có thể đã cướp đi sinh mạng của một người khác,” Papi nói. “Con rể ta không muốn dừng xe để tìm kiếm, và ta cũng không ép nó làm thế. Lúc đó trời đã rất tối rồi. Ta đã không tự mình hoặc sai Luis đi xuống hẻm núi để tìm người đàn ông đó, xem chúng ta có thể cứu sống anh ta hay không. Amabelle, hãy báo lại cho ta nếu cô nghe bất cứ tin tức gì về người đàn ông này, nếu anh ta còn sống hay đã chết. Hãy đi hỏi bạn bè của cô và báo cáo lại với ta.”
“Vâng, thưa ông.” “Chào buổi tối.”
“Chúc ngủ ngon, Papi.”
Ngoài sân, bác Luis đã lột da và xẻ thịt con dê xong xuôi. Bác chất những cái đùi dê vào một cái chậu và phủ lên chúng từng nắm muối hột.
Khi tôi còn nhỏ, cha tôi và tôi thường chơi một trò chơi tên là oslè 1 , sử dụng những mẩu khớp gối trước của con dê. Những miếng khớp gối nhỏ bé này giống như những thanh domino, chỉ khác ở chỗ chúng tròn lưng và có ba mặt rỗng. Tôi thường dành hàng giờ một mình để cố gắng tung năm mẩu khớp lên sao cho chúng ngửa cùng một mặt khi rơi xuống nhưng chưa bao giờ thành công.
1 Một trò chơi của trẻ con ở Haiti giống như chơi chuyền hay banh đũa của Việt Nam. Người chơi phải lật các mẩu khớp gối về cùng một phía trong khi ném một mẩu khớp khác lên và bắt lấy nó.
Tôi nhờ bác Luis cắt hai khúc xương khớp gối nhỏ cho tôi. Tôi đem chúng về phòng và lau sạch vết máu dính trên chúng. Tôi trút bỏ quần áo, cởi chiếc váy màu cát mặc trong nhà và miếng vải vuông bọc đầu cùng màu. Gần như tất cả mọi thứ tôi có đều là những gì từng thuộc về Señora Valencia mà chị không còn cần nữa. Tất cả, ngoại trừ Sebastien.
Tôi trải một tấm chiếu lên sàn nhà cạnh ngọn đèn thầu dầu và một cái vỏ ốc mà Sebastien đã đưa cho tôi. Anh nói rằng trong đó chúng ta có thể nghe thấy những âm thanh mà loài cá nghe được khi chúng bơi vào trong các hang động sâu thẳm dưới biển. Trên tường dán một tờ lịch từ bảy năm trước, năm mà cơn bão càn quét qua hòn đảo. Trong thời gian đó, vô số ngôi nhà bị san bằng và số lượng người chết nhiều đến mức Generalissimo phải đích thân đi xuống những con đường hoang tàn của thủ phủ của Dominicana và ra lệnh cho quân lính mang hết tất cả những xác chết mà ông ta nhìn thấy trong lúc đi tuần tra đến quảng trường Colombina và hỏa thiêu họ tại đó. Những đống lửa cháy trong nhiều ngày và làm cho bầu không khí ngập ngụa tro tàn, đến mức những người đi lại ngoài đường nước mắt nước mũi ròng ròng, với khăn mùi soa bịt chặt vào mũi và những chiếc ô che kín đầu.
Tôi ngả mình xuống tấm chiếu và đợi Sebastien tới. Nếu anh ấy không tới nhanh, tôi sẽ phải đi tìm anh ấy trong khu nhà máy.
Trong lúc chờ đợi, tôi làm một việc mà tôi vẫn thường làm những khi tôi không muốn ra ngoài và phát hiện thấy những sự thật đáng buồn. (Khi bạn không có nhiều kỷ niệm, bạn bấu víu lấy những gì bạn có và lặp lại chúng trong đầu để thời gian không thể xóa nhòa chúng ). Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng tòa thành khổng lồ nằm sừng sững đằng sau nhà cha mẹ tôi ở Haiti, một pháo đài mọc lên từ dãy núi với những đỉnh núi hình mũ trụ của giáo hoàng, như hai nắm đấm chống chọi lại với bầu trời.
Tòa thành 1 được xây dựng bởi Henry I 2 , một vị vua với ước muốn thôn tính một thế giới đã từng thôn tính ông ta. Cha tôi rất thích kể lại câu chuyện của Henry I, một ông vua xuất thân nô lệ đã cho xây dựng những pháo đài như tòa thành lớn này để ngăn chặn giặc ngoại xâm, sau khi những người nô lệ phản kháng lại ách đô hộ của người Pháp và thành lập quốc gia của riêng họ.
1 Được biết đến với cái tên tòa thành Henry Christopher (tiếng Pháp: Citadelle Laferrièrre), pháo đài này được xây dựng trên đỉnh ngọn núi Bonnet a L’Eveque, nằm khoảng 27 km về phía Nam thành phố Cap-Haitien, nhìn xuống thị trấn Milot. Đây là một trong những pháo đài lớn nhất của châu Mỹ.
2 Henry Christopher (tiếng Pháp: Henri Christophe; 1767 – 1820) là một cựu nô lệ và lãnh đạo chủ chốt trong Cuộc nổi dậy của Haiti (Haitian Revolution). Cuộc khởi nghĩa này đã giành lại độc lập cho những người nô lệ da màu từ tay Pháp vào năm 1804. Năm 1805, ông tham gia như một vị tướng dưới trướng của thủ lĩnh Jean-Jacques Dessalines trong cuộc nổi dậy chiếm Santo Domingo (nay là Dominicana) từ quân lính Pháp. Sau khi Dessalines bị ám sát, Henry lui về khu vực Plaine-du-Nord (phía Bắc Haiti) và thành lập một chính quyền riêng biệt. Vào ngày 26 tháng Ba năm 1811, Henry thành lập một vương quốc ở phía Bắc và xưng danh là Henry I, Đức vua của Haiti.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường chơi đùa trong những căn phòng chiến sự bỏ hoang của tòa thành này. Từ phía sau những cột đá, mái vòm, và những ngọn tháp nơi đặt những khẩu đại bác để đẩy lùi sự xâm lấn của tàu chiến từ biển, tôi ngước mắt ra ngắm nhìn thế giới xung quanh. Trong sự bảo bọc an toàn của bốn bức tường, tôi có thể thấy toàn bộ vùng đất mũi phía bắc: những dãy núi màu vàng pha xanh, những thung lũng lúa, cung điện 1 của đức vua với ba trăm sáu mươi lăm cánh cửa nằm ở chân đồi ngay phía trên thị trấn Milot, những tòa nhà cổ ở Ramiers 2 , và cung điện của hoàng hậu phía bên kia cánh đồng. Tôi ngửi mùi ẩm thấp của những quả đại bác và cảm nhận bộ áo giáp của vua Henry I mủn ra thành rỉ sắt trong tay mình, tấm hoàng kim giáp với hình khắc họa một con phượng hoàng bay lên từ một bức tường lửa và dòng chữ mà vị vua thường hay nói khi còn sống – Je renais de mes cendres 3 – như lời hứa rằng một ngày nào đó ông sẽ trỗi dậy từ đám tro tàn của cái chết. Tôi lắng nghe tiếng những ngọn gió lướt qua đám cây cỏ dại túa ra từ kẽ nứt trên những bức tường đá. Và từ trên trần nhà mái vòm cao ngất, tôi có thể nghe được tiếng vị vua ra lệnh cho những linh hồn mệt mỏi, những người luôn phải nhắc nhở ông rằng đây đã là một thời đại khác – một thế kỷ khác – và chúng ta đã trở thành một dân tộc khác rồi.
1 Ở đây nói đến cung điện Sans-Souci (tiếng Pháp: Palais de Sans-Souci), nơi ở của vua Henri I, hoàng hậu Marie-Louise và hai người con gái.
2 Tiếng Pháp: Palais des Ramiers, một di tích trong khu vực National History Park của Haiti, cùng với Citadelle Laferrièrre và Palais de Sans-Souci.
3 Tiếng Pháp: Ta sẽ hồi sinh từ tro tàn của chính ta.
Dần dần những tiếng thì thầm của vua Henry I trở thành giọng nói của Sebastien. Tôi đứng dậy và đi về phía cửa. Sebastien đang đứng ở đó. Anh đưa cho tôi hai củ khoai mỡ vẫn còn bám đầy đất mà anh đã đào lên từ khu vườn nhỏ phía sau phòng của mình trong khu nhà máy. Mỗi khi có thể, tôi đều nấu ăn cho anh và chúng tôi cùng ăn với nhau.
“Suýt chút nữa thì anh xuất hiện trong giấc mơ của em,” tôi thỏ thẻ. “Em đang ở nhà và em đã mong rằng anh ở bên cạnh em.”
“Anh đã đứng đợi ở bên ngoài chờ tới lúc thích hợp,” anh đáp. Áo của anh, một trong vô số những chiếc áo tôi làm cho anh từ vải bao bố nhuộm chàm, lấm lem bùn đất đỏ và dính đầy vụn cỏ xanh. Gai xương rồng cắm vào lớp vải cũng như da thịt trên cánh tay anh, nhưng anh dường như không cảm thấy đau buốt. Một bên mắt của anh sưng húp, mí mắt dưới căng lên đầy máu đen. Anh cố gắng mỉm cười, giữ lấy bên mặt bị đau để nụ cười không làm anh đau đớn hơn.
“Anh bị ngã ở trên ruộng mía à?” Tôi hỏi mà gần như đoán được đó không phải là những gì đã diễn ra. Tôi đưa tay chạm vào bộ râu xù xì mà anh bắt đầu nuôi trong mấy ngày qua. Một vài phần râu nhuốm màu xanh, như thể anh đã bị đè ép mặt xuống cỏ trong một lúc lâu.
“Anh không thể ở lại được,” anh nói. Ít nhất thì anh vẫn còn nói năng được bình thường, tôi nghĩ. Giọng nói của anh vẫn chưa thay đổi. “Già Kongo đang đợi anh ở nhà máy. Con trai Joël của ông ấy đã gặp tai nạn. Anh ấy chết rồi.” Vầng trán đầy bụi đất của anh túa đầy mồ hôi. Anh gạt những giọt mồ hôi với một cái quẹt tay.
“Joël chết rồi ư? Làm thế nào mà anh ấy lại chết?”
“Yves, Joël, và anh đang đi trên đường khi một chiếc ô tô đâm vào Joël và hất anh ấy văng xuống hẻm núi.”
“Còn anh? Anh có bị gãy cái xương nào không?” Tôi lập tức hỏi, như thể đó là cách duy nhất một người có thể bị thương, khi cơ thể họ đã bầm dập và gần như bị nghiền nát như những thân mía trong máy ép ở nhà máy.
“Yves và anh may mắn hơn,” anh đáp. Và tôi trộm nghĩ rằng anh thực sự may mắn như thế nào. Anh đã không khóc lóc, gào thét, hay ném đá về phía ngôi nhà, hay dùng gốc cây để nện vào chiếc xe đã giết chết bạn anh. Có lẽ anh vẫn chưa thực sự cảm nhận được việc đã xảy ra là sự thật. Nhưng đây cũng không phải là lần đầu tiên anh đối diện trực tiếp với cái chết.
“Già Kongo đang làm gì?” Tôi hỏi. Có lẽ Sebastien đang giữ bình tĩnh bằng cách nghĩ tới bước hành động tiếp theo.
“Điều trước nhất cần phải làm là chôn cất xác của Joël,” anh trả lời.
“Kongo có biết là chiếc xe nào đã đâm vào Joël không?”
“Lúc này, tất cả những gì ông ấy biết là con trai ông đã chết. Ông ấy cần phải đóng một cỗ quan tài. Don Carlos sẽ không trả tiền cho việc chôn cất đâu.”
Bác Luis và Papi đều đã say ngủ. Tôi dẫn Sebastien ra phía sau dãy nhà vệ sinh. Ở đó Papi để một chồng gỗ tuyết tùng mà ông vẫn hay dùng cho sở thích làm đồ mộc, đóng bàn ghế, và chạm khắc mô hình của những căn nhà nhỏ. Sebastien lấy bốn phiến gỗ dài, cả loại đã đánh và chưa đánh véc-ni, đủ để đóng một chiếc quan tài cho một người lớn.
Tôi muốn giúp anh vác chúng, nhưng anh từ chối. “Em hãy ở đây,” anh hạ giọng. “Anh sẽ quay lại.”
Tôi đưa mắt nhìn hai củ khoai mỡ dựa lưng vào tường nơi tôi đã đặt chúng ngay sau khi anh trao chúng cho tôi.
“Anh đang bận như vậy mà vẫn còn thời gian để mang khoai cho em ư?” Tôi thắc mắc.
“Em hãy ở đây cho đến khi anh quay lại,” anh nói, “đừng đi đâu cả.” Tôi nghe tiếng anh thở nặng nhọc, vật lộn với sức nặng của những thanh gỗ. Tôi quay về phòng mình, nằm xuống, và đợi chờ anh quay trở lại.
Già Kongo tội nghiệp. Xin chia buồn với ông, Kongo. Hai đứa trẻ mới sinh ra trên đời còn ông ấy phải tự tay chôn con trai mình xuống đất đen.