← Quay lại trang sách

Chương 14

Nằm giữa con suối và khu nhà máy của Don Carlos là những ngôi nhà của nhóm người Haiti mà Sebastien vẫn gọi là non-vwayajè 1 , những người định cư có số phận may mắn hơn những người phu đồn điền, nhưng không khá giả như Don Gilbert và Doña Sabine cùng bè bạn của họ, những người Haiti thượng lưu.

1 Ý chỉ những người Haiti thuộc tầng lớp trung lưu sinh sống ở Dominicana, khác với “vwayajè” – những người lao động di cư thuộc tầng lớp thấp hơn.

Những người Haiti non-vwayajè sống yên ổn trong những ngôi nhà làm bằng gỗ hoặc xi măng. Nhà của họ có mái tôn và hàng hiên sặc sỡ, với những khu vườn rộng cùng hàng rào cây xương rồng và cây dây leo quấn quít quanh những nụ xương rồng. Sân nhà họ trồng đầy cây ăn trái – đặc biệt là xoài và bơ – để lấy bóng mát, thu hoạch quả, và cả trang trí nữa. Gia đình của họ đã sống nhiều thế hệ ở Alegría: địa chủ, nông dân, thợ rèn, thợ khắc đá, thợ may, thợ đóng giày, một cặp vợ chồng giáo viên, và một cha xứ người Haiti tên là Cha Romain. Một vài người bọn họ kết hôn với người Dominicana. Nhiều người trong số họ sinh ra tại Alegría. Chúng tôi coi họ là những người sinh ra đã nắm vận mệnh mình trong tay.

Buổi sáng hôm đó, tôi suy nghĩ về quyết định rời bỏ đồn điền mía sau vụ thu hoạch này của Sebastien trong khi chào hỏi những người phu đồn điền. Một vài người đang ngồi trên những chiếc ghế mây và ăn bữa sáng với bánh mì, cà phê, cháo bột ngô, và món mangú 1 . Những người khác đang đi lại quanh nhà của họ như những người lính gác trước khi bắt đầu một ngày lao động mới. Tôi trông thấy Unèl, một người thợ khắc đá thấp bé, và cất tiếng chào anh. Anh ta vẫy tay chào lại tôi với một nụ cười đầy răng. Unèl là người đã cùng một nhóm bạn mà anh gọi là lữ đoàn của mình xây lại khu nhà vệ sinh cho người hầu kẻ hạ trong sân nhà Señora Valencia.

1 Một món ăn kèm truyền thống ở Dominicana, được làm từ quả cây chuối lá (plantain) đem luộc lên và giã nhuyễn.

Các ông bố bà mẹ đang đưa con mình tới ngôi trường chỉ có độc một phòng do Cha Romain và Cha Vargas, một cha xứ người Dominicana, dựng nên. Ngôi trường mái bằng xây từ những khối bê tông xỉ than này luôn trong tình trạng chật cứng học sinh. Như mọi buổi sáng khác, cha mẹ của lũ trẻ than phiền về những hạn chế trong giáo dục của con cái họ.

“Tôi đẻ con trai tôi ra ngay trên đất nước này,” một người đàn bà nói bằng thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Kreyòl ở Alegría và tiếng Tây Ban Nha, thứ ngôn ngữ lai tạp của những con người luôn luôn nói lắp, như thể họ buộc phải đi thăng bằng trên lằn ranh chật hẹp giữa hai ngôn ngữ đều gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. “Mẹ tôi cũng sinh ra tôi trên mảnh đất này. Tôi, con trai tôi, thậm chí chưa ai trong số chúng ta từng nhìn quá bên kia biên giới. Vậy mà họ vẫn nhất quyết không cấp giấy khai sinh cho chúng ta để con trai tôi có thể thu nhận kiến thức vào đầu nó từ một giáo viên đàng hoàng ở một ngôi trường đàng hoàng.”

“Bọn họ sẽ luôn coi chúng ta như những kẻ ngoại lai, cho dù bà cố của chúng ta có được sinh ra trên đất này chăng nữa,” một người đàn ông trả lời bằng tiếng Kreyòl, thứ ngôn ngữ thông dụng mà chúng tôi vẫn dùng khi nói chuyện với nhau – chứ không phải tiếng Tây Ban Nha. “Như thế bọn họ sẽ dễ dàng tống khứ chúng ta đi khi họ muốn.”

“Các ông các bà đã nghe tin đồn chưa?” Một người đàn bà khác chêm vào. Những ngón tay dài của bà ta múa may phụ họa cho những câu tiếng Kreyòl hoàn hảo của bà. “Họ nói rằng bất cứ ai không làm việc trong những nhà máy mía của tụi Yanki sẽ bị gửi trả về Haiti đấy.”

“Mấy cái nhà máy mía của tụi Yanki thì giúp ích gì được cho ai chứ?” Người đàn bà sinh ra ở Dominicana với đứa con trai cũng sinh ra ở Dominicana đáp lại. “Tôi á, tôi chẳng có một mảnh giấy trong tay để chứng tỏ quê quán mình ở đâu. Con trai tôi, thằng bé được sinh ra ngay tại nơi đây, cũng chẳng có giấy tờ gì để nói xem quê hương nó ở đâu. Những người làm việc trong những nhà máy mía thì bị chủ nhà máy tịch thu hết giấy tờ khai sinh, nên họ cứ như bị dây tròng quanh cổ vậy. Giấy tờ căn cước là tất cả. Ông bà không có giấy tờ trong tay thì cầm chắc là họ có toàn quyền xử ông bà theo cách họ muốn.”

Tôi nghĩ tới hoàn cảnh của mình. Tôi không có giấy tờ gì để chứng minh tôi thuộc về nơi này hay Haiti nơi tôi sinh ra. Lũ trẻ được đưa tới trường trông hết sức căng thẳng lúc chúng ngước nhìn lên cha mẹ chúng, với gương mặt của họ chỉ cách bầu trời xanh có vài phân – nếu tôi vẫn nhớ chính xác cách trẻ con nhìn lên gương mặt cha mẹ chúng. Tôi cảm thấy buồn khi lắng nghe những người Haiti non-vwayajè, những con người tưởng chừng như có một cuộc sống yên ổn ở đây như những cây me, chim thiên đường, hay ruộng mía. Và nỗi lo lắng dấy lên trong tôi khi chính họ cũng mơ hồ về chỗ đứng của họ trong thung lũng này.

Anh thợ khắc đá Unèl tham gia vào câu chuyện và bắt đầu nói về Joël.

“Các ông bà có biết tin bọn họ đã đâm chết một người phu đồn điền bằng ô tô rồi ném xác anh ta xuống một hẻm núi chưa?” Unèl hỏi.

Đó không phải là những gì đã xảy ra, tôi muốn thanh minh. Nhưng tôi là ai mà dám lên tiếng bảo vệ cho Señor Pico?

Nhiều người trong số họ đã nghe tin về Joël, nhưng nó cũng chẳng phải điều gì mới lạ. Họ vẫn luôn nghe tin về những người canh giữ đồn điền nổi cơn thịnh nộ và xả súng trường, vô tình hay hữu ý, vào những người làm công thời vụ 1 hay vung mã tấu chém đứt cổ những người phu đồn điền trong một trận ẩu đả vì mấy đồng peso ở khu ép mía. Những chuyện như vậy xảy ra như cơm bữa với những người phu đồn điền. Họ là những người ít được bảo vệ nhất trong đám chúng tôi.

1 Tiếng Tây Ban Nha: bracero.

“Đầu tiên là những người như Joël, rồi sẽ đến lượt những người như chúng ta,” Unèl quả quyết, với thái độ can đảm hơn những người khác, “trừ phi chúng ta tập hợp lại để bảo vệ lẫn nhau.”

Don Gilbert và Doña Sabine đã cho dựng một bức tường chạy dọc con đường và bao quanh căn villa rộng lớn của họ. Khi chúng tôi đi về phía cổng khuôn viên nhà họ, tôi nhìn thấy Félice đứng ở hiên nhà có mái che nằm giữa hai cầu thang đá uốn lượn dẫn lên cửa nhà Doña Sabine. Doña Sabine đứng trước mặt Félice, đưa tay ra hiệu cho chúng tôi.

Những người đi trước tôi quay đầu nhìn về phía Doña Sabine. Mỗi người sau đó tự chỉ lên ngực mình, ra dấu hỏi xem doña đang muốn cho gọi ai. Doña Sabine tiếp tục chỉ tay cho đến khi Unèl nhận ra là bà ta đang gọi anh.

Unèl bước ra khỏi đám đông và đi về phía cánh cổng bằng sắt uốn dẫn vào sân nhà Doña Sabine. Mười tay lính gác người Dominicana đứng vòng quanh cổng, sẵn sàng bảo vệ Doña Sabine nếu Unèl tỏ ra nguy hiểm. Bà ta xua tay ra hiệu cho họ lui lại và vẫy tay gọi Unèl đi theo mình và Félice. Họ băng qua những tán cây trong khu vườn của bà, với những bụi cây nở đầy hoa được cắt tỉa ngay hàng thẳng lối như những mái đầu húi cua của các cậu học trò.

Félice ngước nhìn về phía tôi và nở một nụ cười nhẹ khi tôi đi qua cổng, rồi sau đó lại đưa mắt cúi nhìn xuống những hoa văn mosaic màu hổ phách trên lối đi trong lúc theo gót Doña Sabine.

Doña Sabine từng là một vũ công nổi tiếng, công diễn khắp mọi nơi trên thế giới. Chồng bà là chủ một hãng rượu rum đã được năm đời trong gia đình ông. Công xưởng của ông lúc đầu nằm trên đất Haiti, sau đó chuyển giao sang đất Dominicana trong một cuộc trao đổi đất đai giữa hai chính phủ vài năm về trước. Bản thân Doña Sabine là một người đàn bà thấp bé và mảnh mai hơn mức bình thường. Nhìn từ đằng sau, bà trông yểu điệu còn hơn các cô thiếu nữ khác, nhưng mỗi bước đi của bà lại là một bước nhảy điêu luyện. Đôi bàn chân quý phái của bà nằm gọn trong chiếc dép bằng da bò mà tôi đoán là của chồng bà. Mỗi ngón tay bà đều đeo một chiếc nhẫn nặng trĩu trừ hai ngón trỏ. Dường như bà quyết định đeo tất cả nữ trang mình có để bảo vệ chúng ngay trên người mình thay vì giấu chúng đi trong một cái hòm.

Unèl theo gót bà và Félice đi lên những lối đi có mái che về phía ngôi nhà chính. Có lẽ bà có công việc gì đó cho anh ấy làm. Chồng của Doña Sabine, Don Gilbert, đang đứng dưới ánh mặt trời trong một chiếc áo mặc trong nhà màu be, chỉ huy một toán người làm đang chạy lăng xăng trong vườn. Khi ông ngẩng đầu lên và nhìn thấy Unèl, bà vợ ông thổi cho ông một cái hôn gió và ông đáp trả bằng một cái vẫy tay.

Tôi mơ hồ cảm nhận dưới những nụ cười và chiếc hôn của họ là một cảm giác bất an đang len lỏi khắp căn nhà, như thể một đợt càn quét nữa của quân Yanki sắp sửa xảy ra. Tôi chưa từng thấy Don Gilbert và Doña Sabine có đông người làm như vậy. Từng toán người với gương mặt lo âu thấp thỏm đi lại nhớn nhác quanh khu vườn. Trông dáng vẻ ai cũng mệt mỏi và tiều tụy. Một vài người băng bó quanh bả vai và phải dùng những mảnh quần áo rách làm dây đỡ để cố định cánh tay.

Trên đường quay trở về nhà Señora Valencia, tôi dừng ở ngôi trường dòng để thăm Cha Romain. Cha trẻ hơn đa số những vị cha xứ mà tôi từng gặp. Cha mặc một bộ áo thầy tu trong lúc chạy quanh sân với một con diều lớn hình tròn trong tay, một giáo cụ để dạy cho đám học trò về các định luật của ánh sáng và màu sắc, địa hình và phong cảnh, mặt đất và bầu trời, cũng như hướng di chuyển chính xác của gió ở ngay vị trí mà bọn trẻ đang đứng.

“Là con đấy à, Amabelle,” Cha nói, tay đưa chiếc diều cho một trong những cậu học trò lớn hơn, “người con gái đồng hương từ Cap Haitien với ta, thành phố với pháo đài hùng vĩ của Henry I.”

Cha Romain luôn nhấn mạnh việc chúng tôi có cùng nguồn cội, giống như Sebastien. Đa phần mọi người ở đây đều làm thế. Nó là cách mà họ duy trì sợi dây kết nối với cuộc đời trước kia của họ thông qua sự hiện diện của một người khác. Đôi khi, bạn có thể ngồi cả một buổi tối với những người như vậy chỉ để lắng nghe họ giãi bày tâm sự về cuộc đời họ, từ ngôi nhà nơi họ sinh ra cho tới ngọn đồi nơi họ muốn được chôn cất. Đó là cách họ được trở về nhà, với bạn là một nhân chứng hay một người nhắc nhở họ quay lại với thực tại khi bạn bắt đầu ngáp dài, viện cớ ra về, hoặc cắt ngang câu chuyện của họ một cách khéo léo bằng câu chuyện của chính bạn. Đây là cách họ để lại dấu vết lên trí nhớ của nhau. Trong trường hợp nếu bạn là người quay trở về trước, bạn có thể mang theo, nếu không phải là một lá thư hay quần áo đáng giá, thì chí ít là một thông điệp tới những người thân yêu của họ rằng họ vẫn còn đang sống trên cõi đời này.

Các cha xứ cũng không là ngoại lệ. Cha Romain, dù ông hết mực yêu thương và tận tụy với học trò, luôn đau đáu nhớ về người em gái và những người họ hàng thân thuộc ở phía bên kia biên giới. Trong những bài giảng đạo với những con chiên người Haiti ở thung lũng này, Cha thường xuyên nhắc nhở mọi người về những điểm chung kết nối họ với nhau: ngôn ngữ, món ăn, lịch sử, những cuộc hội hè, bài hát, truyện kể, và những lời cầu nguyện. Cha đặt trọn đức tin vào sức mạnh của ký ức và cách mà việc ghi nhớ – dù đôi khi làm ta đau đớn – có thể khiến ta trở nên mạnh mẽ hơn.

Lũ trẻ bu xung quanh Cha và nài nỉ ông tiếp tục bài giảng với chiếc diều. Cha ra hiệu cho học trò trật tự bằng cách chạm tay lên đầu từng em một. Sau khi đã xoa đầu từng đứa, ông đưa tay ra và nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi. Gỡ cặp kính mô phạm đeo trên mắt, Cha nhìn thẳng vào mắt tôi và ôn tồn nói, “Cha đang dở tay một chút, Amabelle.”

“Con có thể thấy điều đó, thưa Cha,” tôi đáp lời ông.

“Ta đã chuyển lời tới Kongo rồi,” Cha nói. “Con hãy nói với Sebastien giúp ta nữa. Cái chết của Joël khiến ta rất buồn phiền. Những việc như thế này xảy ra quá thường xuyên. Chúng ta phải chết một cách oan khuất khi còn quá trẻ. Cha của anh ấy sẽ cần những lời động viên an ủi từ tất cả chúng ta.”

“Cảm ơn Cha,” tôi nói, cảm nhận thấy Cha đã cho tôi tia hy vọng mà tôi cần.

“Cảm ơn con vì đã ghé thăm ta, Amabelle.”

Đám học trò của Cha kéo tay ông đi tiếp, tranh giành nhau quyền kiểm soát cuộn dây diều.

Trên đường đi lên đỉnh đồi về phía nhà Señora Valencia, tôi bắt gặp Beatriz, em gái của Bác sĩ Javier. Cô mặc một chiếc váy suông xếp ly màu xanh lá, vừa đi vừa quay chiếc ô cũng màu xanh trên đầu. Cơn gió ban mai luồn qua kẽ chân và tốc gấu váy cô bay lên quá đầu gối nhưng cô có vẻ không hề để tâm.

Beatriz đi vào phòng khách nơi Papi vẫn ngồi cạnh chiếc radio nghe ngóng tin tức từ Tây Ban Nha. Ông hí hoáy ghi chép vào cuốn sổ để mở trên đùi, ngẩng đầu lên lắng nghe, rồi lại cúi xuống viết những chữ nguệch ngoạc lên trang giấy, vừa viết vừa húng hắng ho khan.

Beatriz cúi xuống hôn lên má Papi, một cử chỉ ân cần mà cô dành riêng cho những người đàn ông lớn tuổi không có ý định hỏi cưới cô. Papi vẫn dán mắt vào cuốn sổ và tiếp tục viết. Beatriz ngồi xuống một chiếc ghế sofa đan từ sợi liễu gai đối diện với Papi. Cô hất bím tóc dài từ sau lưng ra trước vai và để đuôi tóc nằm lên chiếc ô đặt trên đùi. “Papi, độ này cháu không thấy bác tản bộ ngang qua nhà cháu nữa.” Cô đùa nghịch với bím tóc của mình trong lúc nói.

“Ta phải túc trực ở đây để trông chừng Valencia từ lúc nó bắt đầu chuyển dạ,” Papi nói.

“Giờ bọn trẻ đã chào đời rồi... ”

“Ta sẽ lại bắt đầu đi dạo ngang qua nhà cháu,” ông nói. Bác Juana chạy từ trong bếp ra để tiếp đón Beatriz.

“Cô đến thăm chúng tôi sớm thế này thật là quý hóa quá, Señorita Beatriz,” bác chào.

“Cảm ơn bác,” Beatriz đáp lời, tỏ vẻ khó chịu vì bác Juana đã cắt ngang cuộc trò chuyện giữa cô và Papi.

“Señora không ngủ được yên giấc tối qua vì hai đứa bé thay nhau thức giấc,” bác Juana thông báo. “Tính nết của hai đứa rồi sẽ khác nhau lắm đây.”

“Bác có mang trà lên cho ta chưa?” Papi ho như sặc nước.

“Tôi đang đun trà trên bếp, thưa ông,” bác Juana đáp. “Nó cần phải được đun sôi. Ông sẽ cần nó để trị dứt cơn ho này đấy.” Bác quay về phía Beatriz. “Cô có muốn dùng thử một tách cà phê loại ngon và nặng đô mà mấy cô em tôi đã gửi từ quê lên hôm qua không, thưa Señorita Beatriz?”

“Bất cứ cái gì làm bác hài lòng, Juana,” Beatriz đáp.

“Lại đây, Amabelle.” Bác Juana kéo tay tôi vào trong bếp nơi bác đang bận rộn chuẩn bị bữa sáng cho mọi người. Bác Luis đang ăn vội ăn vàng ở trong một góc bếp trước khi bắt đầu một ngày lao động.

“Cháu cầm lấy cái này.” Bác Juana dúi vào tay tôi một cái bát lớn với hai khúc củ cây ngọc giá luộc. “Cháu hãy ăn đi để lấy sức. Hôm nay sẽ là một ngày tất bật với chúng ta đấy.”

Trong lúc tôi ngồi ăn, bác sắp xếp ly tách lên một cái khay cho Papi và Beatriz.

“Cháu cứ từ tốn mà ăn, Amabelle,” bác ra lệnh.

Bác Luis chùi tay vào ống quần sau khi ăn xong, không quên đưa tay bóp mông bác Juana trước khi đi ra khỏi bếp.

“Ông đừng quên chỗ thịt cừu mà Señor Pico dặn ông mang qua nhà Doña Eva làm quà đấy nhé,” bác Juana nhắc nhở.

Khi tôi quay trở ra phòng khách, Papi đang cố xoay những nút tần số để bắt sóng radio còn Beatriz đang cúi người đứng bên cạnh ông. Bất chấp những cố gắng của Papi, chiếc radio vẫn nằm ì ra không một tiếng động. Cuối cùng, ông chấp nhận thất bại và tắt nó đi.

“Bác đang viết gì vậy?” Beatriz hỏi, ghé mắt nhìn vào cuốn sổ của Papi.

“Ta đang cố viết xuống những gì ta còn nhớ được về cuộc đời mình,” Papi nói và đóng cuốn sổ lại. Ông dọn chỗ để tôi đặt khay trà lên bàn rồi xé một mẩu bánh mì trên khay cho vào miệng.

“Papi, cháu có thể đọc những gì bác đã viết không?” Beatriz hỏi. “Ta chỉ muốn viết cho các cháu của ta đọc thôi,” Papi trả lời.

“Ta cảm thấy mình như một cánh chim đã bay qua hai dãy núi mà không hề nhìn xuống lòng thung lũng nằm giữa những ngọn núi. Ta không biết mình còn có thể nhớ được những gì trong vài năm tới. Thậm chí bây giờ có những chuyện mới xảy ra hôm qua thôi mà ta đã không thể nhớ được rồi.”

“Cháu hy vọng bác vẫn chưa quên hai đứa cháu của bác được sinh ra ngày hôm qua chứ?” Beatriz đùa, nhấc ly và đĩa lót khỏi chiếc khay. Hương vị món cà phê của bác Juana tràn ngập khắp căn phòng như mùi khói đốt gỗ tươi.

Tôi đặt khay xuống một cái bàn con bên cạnh radio và dợm quay bước trở lại bếp.

“Ở lại đây, Amabelle,” Papi yêu cầu. “Ta sẽ cần cô hâm nóng lại trà cho ta.”

“Bác đã trải qua một cuộc đời nhiều thăng trầm,” Beatriz nói với Papi.

“Cháu đã biết những gì về cuộc đời của ta?” Papi hớp một ngụm trà trong lúc đợi cô trả lời.

“Cháu biết qua những gì chị Valencia đã kể cho cháu,” cô đáp. “Valencia chỉ biết những gì ta kể với nó thôi. Trong mắt một đứa trẻ, một quả đồi trong tranh cũng có thể biến thành một ngọn núi nếu cha nó là người vẽ bức tranh đó.”

“Bác không thích làm một quân nhân trong quân đội Tây Ban Nha, có phải không?” Beatriz hỏi.

“Đó là chuyện bốn mươi năm về trước rồi,” Papi nói. “Tây Ban Nha lúc đó cũng đang đắm chìm trong một cuộc chiến ngớ ngẩn tới vô vị để tranh giành thuộc địa với Hoa Kỳ 1 . Ta rời bỏ những cuộc chiến đẫm máu ở quê nhà để đến đây và tham gia những trận chiến đẫm máu không kém ở El Caney và đồi San Juan 2 . Nhưng ngay cả khi chiến tranh không xảy ra, ta cũng vẫn sẽ rời bỏ quê hương mình.”

1 Tiếng Tây Ban Nha: Los Estados Unidos (Liên Bang Hoa Kỳ).

2 Hai trận chiến lớn trong cuộc chiến tranh giành lãnh thổ ở châu Mỹ giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha năm 1898. Các cuộc chiến xảy ra ở hai thành phố ở Cuba (El Caney và San Juan) như một phần kế hoạch của Quân đội Hoa Kỳ nhằm chiếm đóng thành phố Santiago de Cuba ở phía Nam Cuba, lúc đó đang nằm dưới quyền kiểm soát của quân lính Tây Ban Nha.

“Bác có thích cuộc sống ở đây không?” Beatriz hỏi.

“Ta lập gia đình ở đây. Ta đã nuôi dạy con gái mình ở đây và bây giờ là các cháu ta... ”

“Nhưng nơi này có thực sự làm bác vui không?”

“Sao cháu hỏi ta nhiều như vậy?”

“Cháu đọc trong tờ La Nación 1 rằng có cả những người đàn bà chiến đấu trong Lữ đoàn Quốc tế 2 của Tây Ban Nha,” Beatriz nói. Ngón tay cô không ngừng uốn bím tóc dài màu caramel.

1 Một tờ nhật báo của Argentina, được thành lập ngày 4 tháng Một năm 1870. Là tờ báo có tiếng nói nhất của phe bảo thủ ở Argentina lúc bấy giờ, tờ La Nación có một lượng độc giả khắp châu Mỹ La tinh cho đến những năm 1930. Tên tờ báo có nghĩa là “Tổ quốc“.

2 Tên tiếng Tây Ban Nha: Brigadas Internacionales; tiếng Anh: The International Brigades. Đây là một tổ chức gồm các lữ đoàn bán quân sự được thành lập bởi Đệ Tam Quốc tế (Quốc tế Cộng sản hay Comintern) nhằm viện trợ cho chính phủ Cộng sản “Frente Popular” ở Tây Ban Nha trong cuộc nội chiến giành chính quyền. Tổ chức này tồn tại được hai năm, từ 1936 đến 1938.

“Đó là những gì cháu mơ thấy mỗi đêm sao, những ảo tưởng về Lữ đoàn Quốc tế ư?” Papi bặm môi và lắc đầu tỏ ý không bằng lòng sâu sắc.

“Vậy bác có thích cuộc sống ở đây không?” Beatriz lặp lại câu hỏi như một phóng viên chuyên nghiệp.

“Ta có cần nói sự thật với cháu không?” Ông hỏi. “Tất nhiên rồi, thưa bác,” Beatriz trả lời.

“Ta có thích cách mọi thứ ở đây đang được vận hành và kiểm soát bởi quân đội không? Ta có thích việc họ tôn thờ những bộ quân phục và những tấm huân chương như những ngôi sao chói lọi trên ngực không? Ta có thích những thứ đó không?” Ông đưa mắt nhìn lên bức chân dung vĩ đại của Generalissimo do Señora Valencia vẽ.

“Vậy bác có thích những thứ đó không?” Beatriz kiên trì hỏi. “Không,” Papi thẳng thừng. “Ta không thích bất cứ thứ gì trong số chúng cả.”

“Khi còn trong quân đội, bác có giết ai không?” Beatriz hỏi tiếp. “Đây là chuyện giữa ta và phiên tòa lương tâm,” ông đáp.

“Vậy là bác có, đúng không?”

“Việc biết được ta đã nhúng tay vào những chuyện ác độc nào thì có ích gì cho cháu chứ?”

Beatriz hất bím tóc dài của mình về phía sau, suýt chút nữa thì quất nó vào mặt Papi. Ông lại thổ ra một tràng ho rũ ruột. Beatriz nhanh chóng tới bên cạnh và vỗ lưng cho ông.

“Cháu muốn biết ta đang viết gì cho các cháu của ta,” Papi nói tiếp sau khi đã hít thở lại bình thường. “Ta bắt đầu với nơi chôn nhau cắt rốn của ta, một cảng biển ở Valencia. Cha ta là một thợ làm bánh ở đó. Có những lần ông đã phát bánh cho những người hàng xóm mà không lấy một đồng nào. Ta là con trai độc nhất của ông, nhưng ông không bao giờ để ta ăn cho tới khi tất cả những người khác đã no bụng. Ông sống tới chín mươi tuổi chỉ để mất mạng trong cuộc chiến tranh tàn ác đó.”

Giống như tôi, Papi đã bị nhổ rễ khỏi quê hương bản xứ. Ông cảm thấy mình là một đứa trẻ mồ côi trong một tộc người cũng mồ côi. Có lẽ đây là lý do tại sao ông luôn tỏ ra tử tế hơn với những người chưa bao giờ được gọi phía bên này của hòn đảo 1 là nhà của mình.

1 Hai quốc gia Haiti và Dominicana cùng nằm chung trên một hòn đảo lớn. Haiti nằm về bên trái, còn Dominicana nằm bên phải.

Señora Valencia đang cho con trai bú khi tôi mang đồ ăn sáng tới cho chị. Chồng chị ra hiệu cho tôi vào khi anh trông thấy tôi ở cửa.

“Señorita Beatriz tới thăm và đang ở dưới nhà,” tôi thông báo với anh trong lúc đặt khay xuống.

Tôi nhặt khăn tã bẩn của bọn trẻ ở góc phòng và mang chúng xuống ngâm vào thùng nước mưa mà bác Juana để riêng ngoài sân cho việc giặt giũ.

Từ trên ngọn đồi, tôi có thể nhìn thấy một vài người phu đồn điền đang đi ra ruộng mía. Kongo dẫn đầu bọn họ, sát sau lưng là Sebastien. Mimi và Félice đi cùng với họ trên đường ra chợ để mua thực phẩm. Tôi vẫy tay chào họ, nhưng bác sĩ Javier mới là người vẫy tay chào lại tôi trong lúc ông trèo lên ngọn đồi. Ông đi tới chỗ tôi ngồi giặt quần áo trước khi đi vào trong nhà.

“Cô đã suy nghĩ về lời đề nghị của tôi chưa?” Ông nói tiếng Kreyòl như một người Haiti thực thụ, với một chút xíu âm điệu Dominicana. “Sắp tới, tôi sẽ quay trở lại trạm xá trong hai ngày,” ông thông báo. “Nếu cô muốn, cô có thể đi cùng tôi và một vài người khác. Có rất nhiều trẻ con ở đó, khoảng mười đứa trẻ mồ côi. Bản thân trạm xá cũng chỉ là một ngôi nhà nhỏ không hơn. Buổi tối sẽ có một vài người làm ngủ lại ở đó. Cô sẽ sống tạm ở đó trong thời gian đầu. Cô sẽ được trả lương, dù không nhiều nhặn gì. Các bà mẹ sẽ trả bằng đồ ăn. Một số sẽ muốn cô làm mẹ đỡ đầu cho con họ. Tôi là cha đỡ đầu cho hai mươi sáu đứa nhóc tất cả đấy.”

Với cái chết của Joël, tôi chưa có thời gian suy nghĩ nhiều về gợi ý này, về việc quay trở lại một nơi mà tôi chưa từng nhìn lại từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Tất cả những người phu đồn điền đã quẹo ở góc cuối con đường. Sebastien sắp sửa bắt đầu ngày làm việc đầu tiên của mùa thu hoạch mà anh hy vọng sẽ là cuối cùng của mình.

Anh ấy sẽ làm việc không ngừng nghỉ để dành dụm vài đồng peso với hy vọng thay đổi cuộc đời. Có lẽ cả tôi nữa cũng đang chờ đợi một sự giải thoát, trông ngóng một dấu hiệu nào đó mách bảo cho tôi rằng đã đến lúc tôi phải ra đi để kiếm tìm một cuộc đời mới, một cuộc đời thực sự thuộc về tôi. Có lẽ tôi đang hy vọng được nghe thấy một giọng nói gọi tên tôi từ bên kia con sông, hay một ai đó đến trước mặt tôi và nói, “Ta đã đến để đón con quay trở về.” Có lẽ đây chính là giọng nói của người đó trong hình hài ông bác sĩ. Có lẽ tôi nên nắm lấy cơ hội này. Nhưng tôi sẽ không đi trừ phi Sebastien cũng sẵn sàng đi với tôi.

“Javier, có phải anh đấy không?” Señor Pico cất tiếng gọi bác sĩ Javier từ trong phòng khách.

“Là tôi đây,” bác sĩ Javier trả lời. “Anh hãy vào nhà đi chứ.”

“Amabelle, vào đây giúp bác một tay nào,” bác Juana gọi với ra từ trong bếp. Tôi chà sạch tay trong thùng nước mưa rồi chạy tới chỗ bác.

“Bác phải đi chợ mua thức ăn cho bữa trưa,” bác nói. “Señor Pico cần người mang rượu rum và xì gà lên phòng khách. Bác đã chuẩn bị sẵn chúng trong khay rồi.”

Señor Pico và bác sĩ Javier đang ngồi ngoài hàng hiên nhìn ra vườn hoa lan rộng lớn của Papi khi tôi bước vào với khay đựng rượu rum và xì gà. Khu vườn luôn là niềm tự hào lớn của Papi. Ông đã trồng bốn mươi tám giống lan khác nhau ở đó, bao gồm cả một giống lan lai đặc biệt với những cánh hoa to bản, mịn như lông tơ, và sáng lên trong đêm tối như những ngọn đèn lồng Giáng sinh, loại hoa mà Señora Valencia luôn chưng ở bàn bên cạnh giường ngủ kể từ ngày chị và señor kết đôi tim lại, như chị vẫn thường nói.

“Anh đã trải qua đêm đầu tiên làm bố,” bác sĩ Javier nói với Señor Pico, “và vẫn còn sống sót!”

“Không ai ngủ được một giấc nào hết.” Señor Pico bật cười, châm điếu xì gà và hút một hơi dài. Anh đưa một điếu khác cho ông bác sĩ. “Đây có phải là tương lai của bọn tôi không, luôn luôn trong tình trạng thiếu ngủ?”

“Bọn trẻ sẽ lớn lên và mọi chuyện sẽ nhẹ nhàng hơn,” bác sĩ trả lời, cắn đầu mẩu ở đuôi điếu xì gà.