← Quay lại trang sách

Chương 22

Lễ Rửa tội của Rosalinda chỉ diễn ra sau khi thời gian ở cữ của Señora Valencia chấm dứt. Vào ngày lễ Rửa tội, những băng ghế trong nhà thờ chật ních những bà mẹ, ông bố, mẹ đỡ đầu, bà cô, và ông chú. Họ đã mang con cháu họ tới để Cha Vargas thực hiện một lễ Rửa tội tập thể. Rất nhiều đứa trẻ đã sáu bảy tuổi được đi rửa tội lại để Generalissimo có thể trở thành cha đỡ đầu chính thức của chúng, dù ông ta không hề có mặt.

Señor Pico chen lên để mở đường cho vợ anh bế con gái vượt qua đám đông lố nhố bên ngoài để tới hàng ghế đầu, thường được dành cho những gia đình quyền quý hơn.

Señora Valencia mặc một chiếc váy màu kem nhạt và quấn trên đầu một chiếc khăn viền bằng loại đăng ten nhập từ Valencia, giống như tấm khăn trải bàn chị đã dùng để chôn cất con trai mình. Theo sau lưng chị là Papi, Bác sĩ Javier, và Beatriz.

Tôi đứng nhìn từ đằng xa trong lúc Cha Vargas rót nước thánh lên đầu Rosalinda và chào đón con bé vào Nhà thờ Công giáo Linh thiêng.

Sau buổi lễ Rửa tội, tôi nhường chỗ của mình cho gia đình một cậu thiếu niên chuẩn bị được cải tên thành Rafael để tôn vinh Generalissimo.

Bên ngoài nhà thờ, những người nông dân trong thung lũng đang đợi đến lượt để vào quỳ trước thánh đường. Một vài đứa nhóc nghịch ngợm đang đuổi bắt một con dê con xung quanh nhà thờ, bỏ ngoài tai những lời dọa nạt của mẹ chúng. Nào là chúng sẽ bị bỏ đói cho đến hết đời, sẽ không được ăn kẹo, hay thậm chí sẽ không được ai yêu thương nữa. Nhưng lũ trẻ, với bụi cuộn mù lên như một tấm thảm bay dưới gót chân, thì sẵn sàng bất chấp việc có thể mất đi những thứ mà người ta chỉ tước khỏi chúng sau khi trò chơi đuổi bắt kết thúc.

Lúc chị đi ra khỏi nhà thờ, Señora Valencia bế Rosalinda lên trước mặt tôi để nhận một nụ hôn rửa tội.

“Amabelle, lần cuối em gặp nó, con bé còn là một người Moor 1 ,”

1 Từ “moor” (tiếng Ý và Tây Ban Nha: moro, tiếng Pháp: maure, tiếng Bồ Đào Nha: mouro) ban đầu dùng để chỉ tộc người Berber sinh sống ở Tây Lybia, nhưng sau đó được hiểu rộng ra để chỉ người theo Hồi giáo bắt đầu từ thời Trung cổ. Trong Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, cũng như các quốc gia từng là thuộc địa của hai đế chế này, từ “moor” có thể có nghĩa miệt thị, để ám chỉ những người da đen, da màu, hay những người man di mọi rợ không theo đạo Thiên Chúa.

chị nói một cách tự hào. “Giờ thì nó đã là một cô bé Công giáo rồi.” Tôi cúi xuống và áp môi lên má Rosalinda. Trán con bé vẫn còn ướt nước thánh mà cha xứ đã vẩy lên. Señor Pico sốt ruột kéo tay vợ mạnh đến nỗi chị suýt nữa đánh rơi đứa bé. Giật mình vì động tác bất thình lình đó, Rosalinda thức giấc và bắt đầu khóc trong khi tất cả mọi người chui vào ô tô để quay về nhà.

Bác Juana đã nấu một bữa tiệc thịnh soạn ăn mừng lễ Rửa tội của Rosalinda. Chúng tôi dành cả buổi chiều để phục vụ những người hàng xóm tới thăm và cả những người nông dân trong thung lũng tụ tập bên ngoài ngôi nhà, phần vì hiếu kỳ phần vì đói ăn.

Buổi liên hoan chỉ chững lại khi ai đó nhắc đến Rafi. Có vẻ như cái bóng của thằng bé sẽ bám theo em gái nó tới hết đời.

Buổi tối hôm đó sau bữa tiệc, Kongo tới tìm tôi. Ông mặc bộ áo vàng và quần đen mà Sebastien đã đưa để ông mặc cho con trai lúc chôn cất. Chúng vừa với người ông như thể được may đo sẵn.

“Ta đến để tìm Amabelle,” ông nói qua khe cửa. Rờ những ngón tay dọc theo hàng rào bao quanh hiên nhà, ông đứng trong bóng tối và lắng nghe tiếng kêu ì oạp của lũ ếch cây.

“Dạ, cháu mời ông vào,” tôi trả lời.

Ông dán mắt vào chồng gỗ tuyết tùng mà Papi chất đằng sau khu nhà vệ sinh. “Cô hãy cho ta đứng đây một lát,” ông nói. “Nhà này có nhiều gỗ thật. Ta đã đi qua bao nhiêu vùng trồng mía trên khắp đất nước này, và chẳng nơi nào có đủ gỗ để dùng hết. Ta đã từng thấy người ta phải dỡ cửa nhà ra để đóng quan tài cho người chết.”

Ông thò tay qua cửa và chìa cho tôi một chiếc mặt nạ đàn ông làm bằng giấy bồi.

“Ta mang thứ này tới làm lễ vật cho cô,” ông nói. “Ta hy vọng cô sẽ nhận nó.”

Tôi đón lấy chiếc mặt nạ từ tay ông. Khuôn mặt của người đàn ông này mang dáng dấp của Kongo hơn chục năm về trước. Trán anh ta rộng và dồ, với hai gò má vun cao trên hõm xương quai hàm. Miệng anh hé mở, nằm đâu đó giữa nụ cười và tiếng thét. Đây là khuôn mặt của con trai ông khi chết.

Tôi dẫn ông tới chiếc chiếu nơi tôi vừa định ngả lưng. Ông ngồi xuống, cầm chiếc vỏ ốc của tôi lên và thổi một giai điệu vui tươi ngắn ngủi, thứ âm nhạc của những lễ hội diễu hành.

“Ông có đói không ạ?” Tôi hỏi ông.

Ông ngáp như một cách ra hiệu không lời rằng mình đang đói. Tôi đi lấy gói cơm thừa từ buổi tiệc mà tôi đã để dành cho Sebastien, tháo ba lớp lá chuối bọc, và dùng một chiếc thìa gỗ xới cơm cho ông.

“Khi còn ở quê nhà, ta kiếm ăn bằng nghề làm mặt nạ cho những lễ hội diễu hành,” ông nói trong lúc ăn. “Ta là người thợ làm mặt nạ duy nhất trong cả thị trấn. Tất cả những gì ta cần là một nắm bột và ít giấy là đủ để làm ra những chiếc mặt nạ thế này. Ta có một người đàn bà chung sống với ta trong ba mươi năm, người mẹ của con trai ta. Bà ấy rất thích mặt nạ, thật sự rất mê chúng. Ta càng làm ra nhiều mặt nạ thì bà ấy dường như càng yêu ta nhiều hơn.”

Tôi đưa cho ông một bầu nước đầy. Ông ngửa cổ và uống cạn. “Ở tuổi này, trí nhớ của ta không còn đủ minh mẫn nữa,” ông nói tiếp. “Có thể là ta đã biết cô từ khi cô còn nhỏ. Có thể cô là một đứa trong đám trẻ đã từng chạy trốn khi thấy ta và bà ấy đeo mặt nạ đi xuống đường để mở màn buổi diễu hành. Có thể cô đã từng leo lên cây cột mỡ trong sân nhà ta để lấy được tiền ở trên đỉnh cột. Ta luôn tổ chức một buổi liên hoan lớn cho lũ trẻ con trong buổi diễu hành. Dĩ nhiên là ta chẳng thể nào nhớ hết tên bọn chúng.”

“Cháu có thể biết tên thật của ông không?” Tôi hỏi. “Cái tên của ông trước khi ông tới đây ấy?” Đây là một câu hỏi mà tôi bỗng dưng muốn biết. Tôi đã hy vọng rằng, trong cơn hồi tưởng ký ức, ông cũng sẽ muốn chia sẻ điều này với tôi.

“Có những thứ không đáng để cho chúng ta ghi nhớ,” ông đáp, “như cặn dầu ở đáy bấc đèn vậy.” Ông bắt đầu thở mạnh hơn như thể dạ dày ông đang làm quen với việc được chứa đầy thức ăn.

“Sau khi người đàn bà của ta mất, ta ngưng làm mặt nạ và chuyển qua làm mộc. Nhưng ta thật sự không giỏi làm thứ gì cả ngoài mặt nạ. Tuy nhiên, ta vẫn không thể quay trở lại làm mặt nạ khi không có bà ấy bên cạnh. Ta bán hết đất đai rồi đốt tiền vào những thứ mà ta nghĩ có thể giúp ta quên đi, chủ yếu là rượu mạnh và những cuộc vui với những con người ham vui vì ta không thể chịu được cảm giác cô đơn khi buồn. Và thế là ta chẳng còn gì cả trong vòng chưa đầy một cái dậm chân. Joël và ta đã quen với việc lao động cùng nhau. Cả nó và ta chắc đã trở thành ăn mày nếu bọn ta không đến đây. Nhưng thôi, ta đến gặp cô tối nay không phải để ăn và kể chuyện. Ta tới vì Sebastien nhờ ta.”

“Có chuyện gì đã xảy ra với Sebastien ư?” Tôi hỏi. Vì buổi lễ Rửa tội mà cả ngày hôm nay tôi không thể đi gặp Sebastien. “Sebastien vẫn ổn, thật đấy,” ông đáp. “Sau việc xảy ra ở khe núi, cậu ấy đã quyết định rằng cậu ấy không muốn lãng phí thêm thời gian nữa. Cậu ấy nhờ ta đến hỏi cô rằng liệu cô sẽ chấp nhận lời hẹn ước với cậu ấy và giữ mình chỉ cho cậu ấy mà thôi. Khi một chàng trai trẻ muốn tính chuyện trăm năm với một cô gái, theo phong tục thì cậu ấy phải nhờ cha mẹ tới thưa chuyện với gia đình cô ấy. Vì cha mẹ cô đã mất còn mẹ của cậu ấy thì không thể có mặt ở đây, ta là người đại diện cho cậu ấy tới dạm hỏi cô.”

Tôi nhìn xuống chiếc mặt nạ trong tay mình. Tâm trí tôi quay lại đêm mà Joël chết và giây phút ngắn ngủi khi tôi tưởng rằng Sebastien là người đã bị ô tô của Señor Pico đâm phải. Ông già hết nhìn tôi rồi lại nhìn chiếc mặt nạ.

“Ta đã luôn mong con trai ta sẽ tìm được một người như cô,” ông nói, “một cô gái tốt.”

“Joël đã từng có một cô gái tốt,” tôi đính chính.

“Cô đang nói tới cô ả với cái bớt màu đen bự chảng dưới mũi ư? Ta không muốn con ta cưới cô ta.”

“Cô ấy muốn cưới con trai ông,” tôi giải thích. “Cho tới bây giờ, cô ấy vẫn muốn nhận được lời chúc phúc của ông.”

“Chúc phúc ư? Để làm gì? Con trai ta bây giờ chỉ còn là một ký ức mà thôi. Cô ả với cái bớt to bự dưới mũi, cô ta còn trẻ và việc hoài niệm thì chẳng giúp người ta duy trì tuổi trẻ. Sớm muộn cô ta cũng sẽ tìm cho mình một người đàn ông khác, và con trai ta sẽ biến mất khỏi tâm trí cô ta thôi.”

“Cô ấy vẫn đang rất buồn phiền,” tôi đỡ lời.

“Ta hy vọng Sebastien sẽ để cô giữ chiếc mặt nạ,” ông nói tiếp. “Ông có chắc là ông không muốn giữ nó cho mình không?”

Tôi hỏi.

“Ta đã làm rất nhiều,” ông đáp, “cho tất cả những ai vẫn sẽ giữ hình ảnh con trai ta trong tim ngay cả sau khi ta chết đi. Nếu có thể, ta sẽ đeo chúng quanh cổ như một chuỗi bùa, thật đấy. Ta đưa cái mặt nạ này cho cô vì cô có một chỗ an toàn để cất giữ nó.”

“Cháu rất vui được nhận nó,” tôi nói, “mặc dù ‘vui’ thì có vẻ không phải từ phù hợp.”

“Ta mừng là đã đưa nó cho cô,” ông đáp, “mặc dù dùng từ ‘mừng’ thì cũng không hợp lắm.”

“Cảm ơn ông vì đã tin tưởng trao cho cháu một vật quý giá như thế,” tôi nói.

“Con trai ta mới là thứ quý giá với ta,” ông đáp. “Cái mặt nạ này chỉ là một vật gợi nhớ đáng buồn về nó thôi.”

Khi ông đứng dậy ra về, tôi chỉnh lại cổ áo ông cho thẳng thớm và phủi một vài hạt cơm còn dính trên cúc cổ.

“Giờ trông ông bảnh bao hơn rồi.” tôi nhận xét.

“Sebastien đã để lại cho ta bộ quần áo này,” ông nói. “Ta đã tém lại vài li để có thể mặc vừa chúng.”

“Cháu vui vì ông là người đã thay mặt Sebastien đến chuyển lời cho cháu,” tôi nói.

“Ta không hay có cơ hội được làm những việc thế này,” ông đáp. “Ta cũng có một việc khác muốn hỏi cô khi đến đây tối nay.”

“Xin ông hãy nói cho cháu biết.”

“Don Ignacio, ông chủ nhà cô, không hỏi gì thêm về việc đến gặp ta, đúng không?”

Với cái chết của Rafi, Papi có vẻ như đã quên mất Kongo và Joël.

“Ta không lấy làm ngạc nhiên,” ông nói tiếp, “rằng con trai ta đã biến mất khỏi suy nghĩ của ông ta.”

Sau khi Kongo ra về, tôi vội vã đi gặp Sebastien. Tôi không đi theo hướng hẻm núi mà đi xuống một con đường đất uốn lượn theo khúc sông, một cung đường lạnh lẽo hơn về đêm.

Đêm hôm nay tối hơn bình thường, nhưng tôi đã quá quen với con đường này đến độ dẫu có nhắm mắt vẫn có thể đi được. Tôi men theo con suối, lắng nghe tiếng những con ếch cây và lũ ve sầu râm ran vọng lại từ xa.

Khi đã đi được một quãng khá xa, tai tôi chợt nghe thấy tiếng những cành cây gãy và tiếng những bước chân bì bõm lội qua vũng bùn phía sau lưng. Ban đầu chúng còn là những tiếng động loáng thoáng, sau đó càng lúc càng tăng nhịp và dồn dập hơn. Một toán người đang tiến tới gần tôi, bước chân của họ lên xuống cùng một nhịp.

Trong lúc tìm cách lánh khỏi đường cái, tôi cố gắng trườn mình xuống sông nhưng lại ngã dập mông đánh bùm xuống nước.

Bầu trời đêm hiện lên trong trẻo hơn trên mặt nước. Tôi thò tay xuống đáy sông, lần mò kiếm một hòn đá hay thứ gì để tự vệ. Quay về phía con đường đất, tôi không nhìn thấy ai ở đó. Có lẽ nỗi sợ trong đầu tôi đã tạo ra tất cả những tiếng động đó.

“Ai đang ở dưới sông đó?” Giọng một người đàn ông hỏi vọng ra từ đằng sau một thân cây. Anh ta nói với tôi bằng tiếng Kreyòl.

Tôi dùng gót chân làm điểm tựa, ngả người với tay ra sau, và nắm được một hòn đá dưới đáy sông. Ba người đàn ông đang đứng trên con đường đắp ngang qua sông, trong tay mỗi người lăm lăm một cây mã tấu. Lưỡi dao ánh lên phản chiếu mặt nước lấp loáng.

“Giờ này là giờ để ngủ, không phải để bơi,” người đàn ông nói tiếp.

Bây giờ tôi có thể nhìn rõ mặt bọn họ. Họ là những người thợ khắc đá sống trong những căn nhà gần con đường dẫn ra bờ sông. Tôi bước lên từ dưới sông, rùng mình khi khí lạnh ban đêm thấm vào da thịt. Trong số những người đàn ông đó có Unèl, người đã từng xây lại khu nhà vệ sinh trong sân nhà Señora Valencia. Unèl đưa cho tôi một cái chăn mà anh cuộn lại và giữ đằng sau lưng.

“Cô đi đâu lúc đêm hôm khuya khoắt thế này hả Amabelle?” Anh hỏi.

“Tôi đi đến gặp Sebastien,” tôi đáp.

“Cô không nghe người ta đang kháo nhau tin gì à?” Anh hỏi tiếp. “Có chuyện gì thế?”

“Chuyện những người như chúng ta đang bị giết ấy.”

“Đó chỉ là tin đồn từ sau khi Joël chết mà thôi,” tôi gạt đi.

“Cô nên bảo Sebastien đến chỗ cô nếu cậu ta muốn gặp cô vào ban đêm,” anh khuyên bảo.

Tôi quay lưng đi tiếp trên con đường men theo mé sông. Unèl chạy lên để bắt kịp tôi trong khi những người khác đi phía sau.

“Đi lại một mình trong thời gian này không an toàn chút nào đâu,” Unèl lên tiếng răn đe.

“Cảm ơn anh vì đã quan tâm,” tôi đáp lời.

“Bọn tôi muốn bảo vệ mọi người,” Unèl tiếp. “Sau khi Joël bị giết, chúng tôi đã lập một đội tuần tra ban đêm. Nếu bọn chúng tới, chúng ta sẽ sẵn sàng đáp trả.”

“Tôi sẽ quay về,” một người khác nói vọng lên từ sau lưng tôi. “Tôi sẽ không đợi đến lúc những lời đồn đại đó trở thành cảnh đầu rơi máu chảy đâu, tôi sẽ quay trở lại Haiti. Tôi sẽ không đi con đường lộ nơi những tên lính sẽ đứng gác, mà sẽ đi vòng qua những ngọn núi. Tôi sẽ cuốn gói rời đi ngay thứ Bảy tuần này. Tôi đã sẵn sàng để bỏ lại tất cả những thứ này sau lưng rồi. Cám ơn Alegría vì đã cho tôi một quãng đời vui vẻ, nhưng đã đến lúc chúng ta phải nói lời từ biệt rồi.”

“Tôi sẽ ở lại và chiến đấu,” Unèl nói một cách cương nghị. “Tôi là một người lao động chân chính; tôi có quyền được ở đây. Cả đội tuần tra sẽ ở lại để chiến đấu và giúp đỡ những người khác nữa.”

“Anh làm tất cả những việc này chỉ vì Joël đã bị giết ư?” Tôi hỏi Unèl.

Giọng nói có phần lạnh lùng của tôi hẳn đã khiến anh giật mình, vì nó khiến Unèl khựng lại và nhìn tôi chằm chằm trước khi cất bước đi theo những đồng đội đã vượt lên trước và để anh lại phía sau. Không phải tôi đã trở nên thờ ơ với cái chết của Joël, nhưng tôi không thể hiểu lý do tại sao Unèl và những người khác lại cho rằng cái chết của anh ấy là một điềm báo cho tất cả chúng tôi. Liệu có đúng rằng Señor Pico đã cố tình đâm chết Joël, để quét sạch những người Haiti khỏi phía bên này hòn đảo?

“Tôi sẽ hỏi cô một lần nữa. Cô đã nghe người ta nói gì chưa?” Unèl lặp lại.

“Tôi đã nghe họ nói quá nhiều rồi,” tôi đáp.

Khi chúng tôi tới khu nhà máy, tôi trả cái chăn lại cho Unèl. Anh cuộn nó lại, cột dây xung quanh, rồi lẳng nó ra sau vai.

“Nhờ cô ta mà tối nay tôi sẽ có một cái chăn ướt để đắp,” Unèl cằn nhằn với Sebastien trong lúc bắt tay anh. “Sẵn tiện tôi sẽ đi nhắc nhở những người khác phải cảnh giác,” Unèl nói. “Thời thế đã thay đổi rồi. Chúng ta phải tự bảo vệ lẫn nhau.”

Unèl và đội tuần tra đi một vòng tới tất cả các túp lều, cảnh báo mọi người rằng họ cần phải cẩn thận và không được đi lại một mình trong đêm tối. Anh chiêu mộ được thêm vài người tuần tra trong đám phu cắt mía, những người hứa sẽ đi tuần cùng anh quanh thung lũng vào đêm tới. Những người còn lại thì đùa rằng chỉ có một ả đàn bà mới có thể khiến họ ra khỏi giường và đi khắp thung lũng trong đêm, nhất là sau một ngày lao động cật lực trên ruộng mía.

Tôi đi vội vào phòng Sebastien trong bộ váy áo sũng nước. Có vẻ như Yves và Sebastien vừa sắp sửa tắt đèn đi ngủ. “Anh tưởng Kongo vẫn còn ở chỗ em,” Sebastien nói.

Yves đứng dậy, gãi cái đầu húi cua rồi đi ra ngoài. Tôi cởi quần áo ngoài ra nhưng vẫn giữ lớp váy lót bên trong. Sebastien đi ra ngoài để hong khô váy áo cho tôi. Khi anh quay lại, chúng tôi cùng nằm xuống trên chiếu của anh. Anh đắp lên người chúng tôi một tấm chăn bằng vải bố cắt từ những bao gạo cũ. Tôi có thể cảm thấy những cái nhọt trên cẳng chân anh dưới lớp lô hội trơn trượt trong lúc anh cất tiếng gọi Yves quay trở vào phòng.

“Anh có nghe họ nói gì chưa?” Tôi hỏi Sebastien.

“Unèl có bảo anh về một chỉ đạo nào đó từ Generalissimo.” “Đúng, chuyện đó đó.”

“Anh không biết nghĩ thế nào về tin đó,” Sebastien đáp. “Anh nghe rất nhiều người nói về nó, nhưng anh không biết nó có thật hay không.”

“Bọn tôi đang nói chuyện về cô ngay trước khi cô bước vào,” Yves chêm vào lúc anh nằm xuống tấm chiếu ở bên kia phòng. “Cô có cảm thấy nóng tai không?” 1

1 Một câu thành ngữ chỉ cảm giác của một người khi có ai đó đang nói về họ trong lúc họ vắng mặt. Cách biểu đạt này giống như ở Việt Nam khi ta nói rằng khi mình máy mắt thì tức là có người đang nhắc đến mình.

“Các anh nói về chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

“Yves nói rằng anh nên bán chỗ gỗ đó đi,” Sebastien nói. “Những thanh gỗ của Papi ư?”

“Chúng ta có thể bán chúng,” Yves nói, vặn cổ răng rắc và xoay cái yết hầu to bự về phía chúng tôi. “Tôi biết một người đang tìm mua gỗ tốt đã được xử lý để đóng bàn ghế.”

“Anh không muốn giữ số gỗ đó nữa,” Sebastien nói. Mặc dù anh không đả động tới những tin đồn, tôi có thể thấy rằng chúng đang làm xáo trộn tâm trí anh như đã làm với những người khác. “Chúng ta chẳng có lý do gì để dùng chúng nữa nên anh muốn trả chúng về chỗ cũ.”

“Cậu không có cửa trả lại chúng nữa đâu.” Yves nói rồi đưa tay giật một vài sợi xi-đan ở mép chiếu nơi anh nằm.

“Vậy thì chỗ gỗ đó từ giờ là của cậu,” Sebastien đáp. “Tôi giao chúng cho cậu. Cậu muốn làm gì với chúng thì làm.”

Yves cuộn tròn người và quay lưng lại phía chúng tôi. “Cậu không có cửa trả lại chúng đâu,” anh lặp lại bằng giọng nói đang dần chìm vào giấc ngủ.

“Anh đã nhờ Kongo đến nói chuyện cùng em,” tôi thì thầm với Sebastien.

“Có vô số gã quanh đây đã muốn thề ước với em từ lâu lắm rồi,” anh nói.

“Chúng ta nên đến nhờ Cha Romain ban phước chứ?” Tôi hỏi mà đầu óc trở nên nôn nóng về việc được hẹn ước với Sebastien một cách danh chính ngôn thuận. “Em biết anh không thích các cha xứ và lễ nghi, nhưng Cha Romain là bạn của chúng ta.”

Một thanh củi được dùng để chống đỡ phiến gỗ mỏng mà Sebastien dùng làm cửa sổ. Nó cất tiếng kêu cọt kẹt tựa như sắp rớt. Sebastien đứng dậy và cố định thanh củi để không khí ban đêm có thể tỏa vào làm dịu mát căn phòng.

“Anh và em có thể sẽ không sống chung nhà cho tới hết mùa thu hoạch này,” anh đáp. “Anh không muốn mang em tới đây, và anh cũng không muốn sống chen chúc trong phòng em trên ngọn đồi của những người đó. Liệu em có thể đợi anh thêm một thời gian nữa không?”

“Tôi có thể đợi mà!” Yves hét tướng lên trong lúc ngủ. “Cậu có thể đợi cái gì hả?” Sebastien bật cười hỏi lại.

Chúng tôi lại gần ngồi bên chiếu của Yves. Mắt anh mở trừng trừng nhìn lên tường, tròng mắt anh phủ một lớp màng mờ đục, như đôi mắt của những người bị mù do giun chỉ 1 .

1 Tiếng Anh: river blindness (bệnh mù do những con sông). Chứng bệnh mù mắt này do một loại giun chỉ sống ký sinh trong mắt người. Trứng giun lây lan qua một loại ruồi đen sống ở gần sông, nên căn bệnh này mới có cái tên “bệnh mù do những con sông”.

Sebastien vẫy tay trước mặt bạn mình. Yves không hề chớp mắt. “Em hãy hỏi cậu ấy xem cậu ấy đang thấy thế nào,” Sebastien gợi ý.

“Anh có ổn không, Yves?” Tôi hỏi.

“Ai đang hỏi đó?” Yves trả lời trong lúc vẫn đang ngủ.

“Anh đã biết cậu ấy từ hồi bọn anh còn mặc quần tà lỏn,” Sebastien nói trong lúc đi về chiếu nằm. “Anh đã sống trong căn phòng này với cậu ấy trong bao nhiêu năm, nhưng chưa một lần nào anh nghe cậu ấy nói mớ trong lúc ngủ, mà lại còn mở mắt trừng trừng như thế. Việc này mới chỉ bắt đầu từ sau cái chết của Joël.”

Yves và Sebastien đều lầm bầm suốt đêm trong giấc ngủ, như thể hai người họ đang mơ cùng một giấc.

“Papa, đừng chết vì đĩa thức ăn đó,” Yves nói mớ lúc mặt trời gần lên. Anh quay lưng lại và nằm ngửa ra, mặt dán chặt lên trần phòng bẩn thỉu. Giọng nói anh rành rọt mà xa cách, tựa như đang đọc thuộc lòng một bài học trên trường tới lần thứ một trăm. “Papa, đừng chết vì đĩa thức ăn đó. Xin cha hãy để con mang nó đi.”

Sebastien trở mình và lầm bầm trong cơn ác mộng của chính anh.

“Cậu ta vẫn đang nói mớ à?” anh ngồi dậy và hỏi.

“Về việc cha anh ấy chết vì một đĩa thức ăn nào đó,” tôi đáp. “Mẹ anh ấy thường kể rằng cha anh ấy đã chết vì một đĩa thức ăn,” Sebastien nói với giọng mệt mỏi. “Ông ấy từng bị bỏ đói trong một nhà tù của lũ Yanki, chỉ được ăn bánh mì và uống nước lã trong ba mươi ngày. Khi ông ấy được thả ra, việc đầu tiên mà mẹ Yves làm là nấu cho ông ấy tất cả những món mà ông ấy đã mơ được ăn lúc ở trong tù. Cha cậu ấy ăn cho đến lúc gục mặt xuống đĩa thức ăn và chết ngay tại chỗ.”

Tiếng gà gáy cuối cùng cũng đánh thức Yves. Anh bật dậy, vơ vội quần áo đi làm để ra sông tắm trước những người khác.

“Tối qua anh có gặp ác mộng không?” Tôi hỏi Yves.

“Cô cần biết để làm gì thế?” anh hỏi lại, yết hầu anh giật lên giật xuống như muốn phóng ra khỏi họng. “Cô muốn biết giấc mơ của tôi để chơi đánh đề ở quầy của Mercedes hử?”

“Suốt đêm qua bọn tôi không ngủ được,” Sebastien đáp. “Cậu cứ quàng quạc như một con vẹt lên cơn cả đêm ấy.”

Khi hầu hết những người phu đã ra sông tắm, Sebastien và tôi đi tới một căn lều dùng để làm bếp. Nó được đắp bằng bùn đất trộn với phên liếp, nằm kế bên hàng rào gỗ phân cách khu nhà máy với con đường đất. Anh dùng hai viên đá đánh lửa và nhóm một đống củi thông để đun nước pha cà phê.

Chúng tôi ngồi dưới tán cây keo đậu che phủ căn lều. Trong lúc ngắm nhìn anh nhấp từng ngụm cà phê qua khóe miệng, tôi nở một nụ cười trong vô thức.

Với một số người, tình yêu được định nghĩa bằng một chiếc nhẫn trong lễ nhà thờ, hay những đứa con chung. Với tôi, nó đơn giản chỉ là một nụ cười ngây ngô không giấu giếm, nằm nép vào một góc trên gương mặt. Dần dần, khi anh bắt gặp nụ cười của tôi giữa những ngụm cà phê, anh nhoẻn miệng cười lại với tôi. Gương mặt chúng tôi lúc đó giống hệt nhau, cùng nhuốm vẻ ngượng ngập và ngại ngùng trước cái nhìn đầy men say đắm đuối chúng tôi dành cho nhau, bối rối trước khuôn mặt đang chuyển màu nâu thẫm vì thẹn thùng của người đối diện. Đôi mắt anh luống cuống nhìn ngó mọi thứ xung quanh, những hòn than hồng và muội than dưới ấm cà phê, những viên cuội ấn mình vừa vặn vào trong đất, và những đám cỏ khô héo đã chết từ lâu do bị dẫm đạp lên quá nhiều. Khi cơn gió ban mai hất ngược cổ áo sờn rách và xanh màu cỏ của anh lên, anh miết nó xuống với bàn tay nhằng nhịt sẹo. Mắt anh nhìn ngược nhìn xuôi những đường nét quen thuộc trên các ngón tay, chỉ dừng lại trong giây lát khi mắt chúng tôi gặp nhau. Trong giây phút ấy, chúng tôi trao nhau một nụ cười thoáng qua, như để giãi bày tất cả những điều mà tôi và anh không thể bộc bạch vì vẫn còn những ruộng mía đáng nguyền rủa, vụ mùa thu hoạch đáng sợ, và tương lai bất định đang chờ đợi phía trước.