← Quay lại trang sách

Chương 41

Thoạt nhìn, con sông Thảm Sát trông cũng giống như bất cứ con sông lớn nào ở miền Bắc Haiti. Vào một ngày họp chợ đông đúc, nó chỉ đơn thuần là một dòng chảy bên dưới một cây cầu bê tông, nơi những người đàn bà ngồi trên những hòn đá tảng bên bờ sông để giặt đập quần áo và nơi những con la, con bò dừng lại để uống nước.

Nước triều đang ở mức thấp so với một ngày tháng Mười. Thấp đến mức khi những người đàn bà giặt quần áo nhúng thùng xuống để lấy nước, họ múc lên nửa thùng đầy nước và nửa còn lại toàn phù sa màu nâu đỏ.

“Các bà đừng nhìn con sông lúc này mà tưởng nhầm nhé,” một bà nói trong lúc quăng một nắm cát đầy trở lại dòng nước. “Khi triều lên, nước có thể dâng lên sát thân cầu đấy.”

Trên cây cầu, những người lính trẻ với khuôn mặt non nớt búng ra sữa đi qua đi lại, canh gác sợi dây đánh dấu đường biên giới ngăn cách đất nước của chúng tôi với đất nước của họ. Họ mặc quân phục màu xanh thẫm, bồng súng trường trên vai, và nện bốt thình thịch lên thân cầu. Những người lính của chúng tôi thì ngồi tuốt phía sau cách xa cây cầu, trong căn nhà của cục kiểm soát nơi họ có thể canh chừng những người vượt biên tốt hơn.

Biên giới đã mất đi khá nhiều cây. Những lỗ hổng trên mặt đất vẫn còn há miệng, nơi những cái cây đã bị bứng lên và thay thế bởi những cột gỗ để chăng hàng rào kẽm gai. Dọc theo bờ tường dính dầy mảnh kim loại sắc nhọn là những biển cảnh báo mọi người không được bò xuống dưới hàng rào kẽm gai để vượt biên.

Một người đàn ông cao kều với cặp chân vòng kiềng và bộ râu bạc rối nùi bước tới phía sau tôi. Ông ta quấn quanh mình ba lớp vải rách bện rơm, bẩn thỉu hệt như bàn tay ông. Bù lại, khuôn mặt của ông sạch sẽ, thơm mùi va-ni và dầu dừa. Đôi mắt ông ánh lên sắc đỏ của trái sơ ri, một màu đỏ đậm và mềm mượt như nhung. Những người đàn bà giặt quần áo gọi ông ta là “Giáo sư” 1 và bấm nhau cười khùng khục lúc ông vòng tay ôm quanh eo tôi.

1 Tiếng Creole ở Haiti: Pwofese.

“Ông đang đi đâu thế hả ông Giáo sư?” Họ lần lượt hỏi ông, như đang ngân nga một bài vè.

“Cỏ không mọc nơi tôi đứng nữa,” ông giáo sư thì thầm vào tai tôi với một chất giọng mà tôi có thể nhận ra rằng ông chỉ dùng cho những lúc bông đùa thế này. “Tôi sẽ ra đi về phía bình minh.”

Trước khi tôi có thể vùng ra khỏi tay ông, ông giáo sư đặt một nụ hôn ẩm ướt lên môi tôi. Tôi lập tức chùi miệng, vục tay xuống sông múc nước súc miệng. Những người đàn bà ngồi giặt quần áo ngửa đầu ra sau, há hốc miệng lên trời mà cười vang.

“Đầu óc ông giáo sư không được bình thường kể từ sau vụ thảm sát,” một bà trong số họ nói. “Đừng chùi nó đi. Hãy để nụ hôn của ông ấy nằm lại trên môi bà. Bà không biết là nếu được một người điên hôn thì bà sẽ gặp may mắn à?”

Trong lúc ông giáo sư chạy về phía những bãi đất trống, tôi đi về phía một cậu bé mình trần đang ngồi bên bờ sông, hí hoáy tô vẽ lên một quyển sách hình. Có người đã mách với tôi rằng cậu ta có thể giúp tìm người đưa tôi qua bên kia sông. Ngồi xổm bên cạnh cậu, tôi nhúng chân xuống dòng nước. Nước sông sủi bọt lăn tăn, những bong bóng nước nhẹ nhàng đỡ gót chân tôi như đỡ thóp đầu mềm mại của một đứa bé.

“Cháu có biết ai có thể giúp bác vượt biên mà không cần giấy tờ không?” Tôi hỏi, mắt vẫn nhìn xuống nước. Cậu bé không nói gì cho đến lúc cậu viết xong cả một đoạn văn bằng thứ chữ loằng ngoằng gà vịt.

“Nếu bác muốn vượt biên không cần giấy phép, bác sẽ phải làm việc đó khi đêm xuống,” cậu thì thầm.

“Liệu bác có thể vượt biên tối nay được không?” “Có lẽ là được,” cậu trả lời.

Đêm hôm đó, tôi gặp một người thanh niên lái một chiếc xe jeep đen trên con đường phía trước cây cầu. Anh ta là cư dân duy nhất ở đây, và là chủ một quầy xổ số ở gần biên giới – ít nhất thì đây là những gì cậu bé nói cho tôi. Người lái xe đội một chiếc mũ lưỡi trai bằng vải bò và quấn một mảnh khăn rằn màu đỏ che kín từ chóp mũi xuống hết mặt.

Bước ra khỏi xe vào trong bóng tối, người lái xe chỉ cho tôi chỗ mà anh ta dành cho tôi phía sau xe, một khoảng trống nhỏ đằng sau băng ghế trước, được che phủ bởi một tấm chăn dày.

“Họ quen biết tôi ở cửa khẩu,” anh ta thì thầm bằng tiếng Kreyòl. “Họ sẽ không gây rắc rối cho tôi đâu.”

Tôi nhét mình vào chỗ trống chật hẹp đó, cố gắng chịu đựng những cơn đau đang nhói lên dọc theo bắp chân. Cúi đầu xuống thấp, tôi chìa tay ra đưa cho người lái xe chỗ tiền công mà anh ta và cậu bé đã thỏa thuận với nhau. Anh ta sập cửa xe và chúng tôi bắt đầu lên đường.

Chúng tôi dừng lại một vài phút ở cửa khẩu biên giới thứ nhất. Người lái xe dừng lại ở căn nhà của cục kiểm soát biên giới Haiti để đưa tiền hối lộ cho những người gác đêm.

Chúng tôi tiếp tục đi đến một cửa khẩu nữa của quân lính Dominicana nằm trên cầu. Khi nghe thấy những giọng nói, tôi nhấc tấm chăn và ngỏng đầu lên tìm cách nhìn qua cửa kính xe.

“Nằm yên xuống,” người lái xe ra lệnh.

Bất chấp lời cảnh báo của anh ta, tôi vẫn hấp háy mắt ở mép dưới của tấm kính. Những người lính gác biên giới đang xin lỗi vì bắt người lái xe chờ lâu và vội vàng mở cửa cho anh ta đi qua.

“Hẹn gặp lại các anh tối mai,” người lái xe nói trong lúc đưa tiền cho đám lính gác.

Tôi ngủ thiếp đi trên chặng đường đi qua những chốt canh gác quân đội trên đường dẫn tới Alegría. Giấc ngủ luôn là một niềm an ủi với tôi trong gần hai chục năm qua. Đó là lúc cơ thể tôi đến gần nhất với việc tan biến vào hư không.

Mặt trời đã lên cao khi tôi mở mắt thức dậy. Chiếc xe đang lao nhanh trên một con đường đất, hai bên là hai bức tường tím sẫm của những thân mía. Người lái xe đã cởi tấm khăn rằn đỏ ra, nhưng vẫn giữ chiếc mũ lưỡi trai kéo xuống che khuất một bên mặt. Anh ta đang quan sát tôi qua tấm kính chiếu hậu, và tôi cũng dò xét lại đôi mắt của anh ta. Chúng rất sâu và nằm cách xa nhau, ánh lên những tia màu hổ phách vẩn đục.

Khi anh ta nhìn thấy tôi đang nhìn lại, anh ta bỏ mũ lưỡi trai xuống và quay đi. Anh ta còn khá trẻ, trẻ hơn Sebastien khi anh ấy biến mất. Tóc anh tết thành những đuôi sam dài, che phủ lòa xòa qua tai.

“Vậy là bây giờ,” tôi hỏi bằng tiếng Kreyòl, “tôi mới được nhìn thấy mặt cậu à?”

“Tôi đang giúp bà làm một việc vô cùng liều lĩnh,” anh ta đáp. Anh ta có một giọng nói lớn và hào sảng. “Ngay cả khi Generalissimo đã chết, vùng đất này vẫn chưa hoàn toàn ổn định. Khắp nơi trong thủ đô đang diễn ra những cuộc biểu tình và đảo chính. Tôi đồ rằng một cuộc xâm lược nữa của bọn Yanki sắp sửa diễn ra.”

Những cánh đồng mía kéo dài thêm một quãng nữa, với những thân mía san sát nhau như một đám đông đi dự lễ hội diễu hành. Anh ta dừng chiếc xe jeep ở giữa một quãng đồng vắng và ra hiệu cho tôi lên ngồi ở ghế trước bên cạnh anh ta. Lúc tôi trèo vào khoang lái, anh ta biến mất sau những bụi mía, sau đó vừa đi ra vừa đưa tay kéo thắt lưng quần.

“Tại sao bà lại muốn làm chuyến vượt biên này?” Anh ta hỏi, quành xe trở lại lên con đường đất.

“Anh có chắc anh biết đường tới Alegría chứ?” Tôi hỏi lại.

“Tôi sẽ gặp bà ở quảng trường của thị trấn đó chiều nay để đưa bà quay trở lại,” anh ta đáp.

“Còn anh? Buổi sáng nay anh định làm gì?” “Tôi sẽ không ở Alegría,” anh ta trả lời.

Chúng tôi đi ra khỏi ruộng mía và leo lên một con đường trải nhựa dẫn tới một công viên nằm bên cạnh một tòa nhà hành chính sơn vàng.

“Đây, chúng ta đã tới mảnh đất hạnh phúc của bà rồi đấy.” Anh ta dừng xe trước một bụi hoa giấy với những bông vàng và trắng xen kẽ, che phủ những băng ghế gỗ trước lối vào quảng trường. “Hãy chờ tôi ở đây chiều nay. Cố gắng đừng tới sớm quá, nếu không bà sẽ bị nhầm tưởng là một bà ăn xin đấy.”

Anh ta leo lên chiếc xe và phóng xuống một đại lộ thênh thang, đưa một tay ra ngoài để vẫy chào tôi cho đến khi chiếc xe biến mất sau một khúc quanh.

Con đường chính dẫn lên và tẽ nhánh ra thành vô số con phố nhỏ với những vỉa hè rợp bóng cọ. Alegría giờ đã thành một thị trấn khép kín. Những khu nhà đồn điền san sát, bao quanh bởi tường cao lởm chởm những mảnh sắt và kính vỡ dọc theo bờ rào. Những cây phượng vĩ tỏa bóng phía trên những bức tường. Gần cổng ra vào của các ngôi nhà, những ông già gác cổng ngồi thu lu trên những chiếc ghế mây. Mỗi ngôi nhà giờ đây là một pháo đài, và mỗi người lạ mặt là một kẻ xâm nhập.

Trong lúc đi qua đi lại trên những con phố lát đá đông đúc, dưới bóng của những bờ tường này, tôi cảm giác như mình đang lạc vào một chốn xa lạ. Đầu óc tôi chỉ còn nhận ra một vài điểm quen thuộc: ba cây gạo đại thụ, thân cây già nua to lớn, cùng hàng cây hạnh nhân. Nhưng có lẽ chúng là những cây mới trồng, hoặc đây có thể là một con đường cây hạnh nhân hoàn toàn khác.

Tôi dừng lại nghỉ chân và ngắm nhìn đường phố với lũ trẻ và cha mẹ chúng trên đường đến trường, các cô hầu gái trên đường ra chợ mua thực phẩm, vài người bán rong đang chào mời những người gác cổng, và các ông chồng trên đường đi làm trong những chiếc ô tô với kính sau có màn che. Mọi thứ đã trở nên hoàn toàn lạ lẫm. Công viên nơi người tài xế thả tôi xuống có lẽ từng là nhà thờ của Cha Vargas và Cha Romain. Những khu nhà máy mía đường trước kia dường như đã bốc hơi. Và sau gần nửa ngày lang thang, do quá kiêu hãnh (hay quá sợ hãi) để hỏi đường, tôi vẫn không thể tìm được vị trí của con suối hay thác nước.

Tôi không biết gì về cuộc sống hiện giờ của Señora Valencia, ngoại trừ một vài điều tôi nghe được từ một người đàn bà đã từng nhờ tôi may váy. Bà ta thường xuyên qua lại biên giới để đánh hàng buôn bán. Bà kể với tôi rằng señora và chồng chị ấy vẫn còn sống. Chồng chị giờ đã trở thành một quan chức nhà nước. Anh dành phần lớn thời gian ở thủ đô, nhưng chị vẫn còn sống ở Alegría cùng với con gái. Dù vẫn kết hôn trên danh nghĩa, señora và chồng chị đều có cuộc sống riêng của mình như trước kia. Trong mọi trường hợp, nếu tôi không thể tìm được nơi tôi cần đến, tôi quyết định sẽ kiểm chứng lời hứa của señora rằng chị sẽ ở lại Alegría, gần bên mộ của mẹ và con trai chị, ràng buộc với nơi chôn nhau cắt rốn và mồ mả tổ tiên giống như tôi.

Sau khi gõ cửa nhầm hơn hai chục căn nhà, cuối cùng tôi cũng tìm thấy ngôi nhà mà mọi người nói là nơi Señora Valencia hiện đang sinh sống. Một cánh cổng lớn bằng sắt uốn đã được dựng lên nơi từng là nhà của bác Juana và bác Luis. Một đoạn đường lát đá cho xe hơi ngoằn ngoèo chạy lên phía cổng, băng qua một khu vườn rải sỏi về phía hàng hiên sơn màu hồng.

Một cô bé con trong bộ đồng phục học sinh màu nâu chạy về phía cổng ngay khi vừa trông thấy tôi đứng đó.

“Bà có phải là bà bán trứng không?” cô bé hỏi. “Bà bán trứng ư?”

“Mami của cháu dặn cháu phải trông chừng xem lúc nào bà bán trứng đến.”

“Mami của cháu tên là gì?” “Là Mami ạ.”

“Còn bà bán trứng là ai thế?”

“Là bà đấy.” Cô bé cười, để lộ hàm răng khuyết bốn chiếc răng cửa, hai cái ở hàm trên và hai cái ở hàm dưới. Lúc một cậu bé lớn tuổi hơn chạy đến nơi thì cô bé đã tháo then cài và mở cửa cho tôi rồi. Cậu ta định chạy tới để ngăn cô bé lại, nhưng tôi đã kịp lách vào bên trong khu vườn.

“Bà ấy là bà bán trứng đấy,” cô bé nói và ngước mắt lên cười với cậu. Cậu xoa đầu cô bé rồi quay qua nhìn tôi từ đầu tới chân xem tôi có cầm theo giỏ trứng nào không.

“Cháu cho bác hỏi Señora Valencia còn sống ở đây không?” Tôi hỏi. “Tên bác là Amabelle Désir.”

Sau từng ấy năm trôi qua, tôi ngạc nhiên rằng phát âm tiếng Tây Ban Nha của mình vẫn không quá tệ.

Cậu thanh niên trẻ cựa quậy một cách bồn chồn, nhún chân hết bên này qua bên kia. Có thêm bốn người nữa quan sát chúng tôi: ba người làm vườn và một cô hầu gái đang ôm trước ngực một tấm chăn đã gập phẳng phiu. Cậu ta cúi đầu, liếc mắt nhìn những người kia cầu cứu.

“Bác đã biết señora từ rất lâu rồi, trước khi bác rời đi,” tôi cố gắng trấn an cậu ta.

“Họ đang sống trong một ngôi nhà mới rồi.”

“Cháu sẽ chỉ đường cho bà.” Bé gái tót ra khỏi cửa trước khi ai đó kịp ngăn cô lại. Cậu thanh niên lập cập chạy theo sau cô.

Ngôi nhà mới chỉ cách ngôi nhà cũ vài cây số, trong một khu vực khép kín hơn. Bạn phải đi hết một khu vườn ổi mới tới được cổng nhà. Đó là một khu đồn điền bát ngát, tạo nên bởi bốn căn nhà thông với nhau bằng những lối đi có mái che. Bên ngoài có một khoảnh sân đón nắng bên cạnh một khu vườn rộng lớn. Tôi chạm ngón tay vào một trong những trái tim bằng sắt hàn lên tấm lưới trên cánh cổng và ngó vào nhìn những dãy ghế mây nằm chen giữa những thân phượng trong khu vườn. Trong vườn có rất nhiều phong lan, với chủng loại nhiều gấp đôi so với vườn lan trước kia của Papi.

Cô bé con vừa rung cửa vừa nghịch giỡn cho đến lúc một cô gái bước ra một trong các hiên nhà trước và ngó xuống phía cổng. Cô ta có một khuôn mặt nùng nục thịt với hai lúm đồng tiền sâu, một bờ vai rộng, và thân người đẫy đà. Cô mặc một bộ váy cho người làm màu vàng cát và quấn trên đầu một mảnh khăn cùng màu. Cô cất tiếng gọi một người phục dịch khác. Nhưng khi người đó không tới, cô đành đích thân đi xuống chỗ chúng tôi với cây phủi bụi trong tay.

“Bà cần gì thế?” Cô ta hỏi nhanh bằng thứ tiếng Tây Ban Nha pha âm điệu Kreyòl. Quai hàm cô trễ xuống mệt mỏi, tạo thành một đường vòng cung sầu muộn ăn khớp với toàn bộ khuôn mặt cô. Giọng nói của cô ta hết the thé lại khàn khàn, như thể cô sợ mình sẽ hết hơi để nói bất cứ lúc nào. Cô gật đầu chào cô bé con và cậu thanh niên trẻ, rồi tiếp tục dán mắt vào con đường sau lưng chúng tôi, dường như trông đợi rằng có ai đó đang ẩn nấp chờ thời cơ để nhào qua cửa tóm lấy cô ta. Khi cô nghển cổ lên, tôi nhìn thấy những vết sẹo nằm trên quanh xương quai xanh của cô do dây thừng cứa vào. Chúng còn sâu và rõ nét hơn những vết sẹo tôi thấy trên cổ người đàn bà ở trạm xá, như những luống cày trên ruộng.

“Tôi muốn đến gặp bà chủ của cô, Señora Valencia,” tôi đáp. “Tại sao?” cô ta hỏi tiếp, ngừng một chút để thở. “Bà cần gì ở bà ấy?”

“Tên tôi là Amabelle Désir,” tôi nói. “Bà ấy chắc sẽ muốn gặp tôi.”

“Các cháu hãy đi về đi,” cô quay qua nói với cô bé và cậu thanh niên.

Cậu thanh niên dắt tay cô bé và bỏ đi. Cô hầu gái đi ngược lại con đường về phía hiên nhà một cách hớt hải, điệu bộ của những người luôn sợ sẽ làm phật ý chủ của mình bất cứ lúc nào trong ngày. Làm người ở cho người khác, bạn luôn luôn phải chạy tới hay chạy khỏi chỗ chủ của mình.

Khi cô ta quay lại mở khóa cổng cho tôi, cô ta gần như hết hơi và tỏ ra khó chịu thấy rõ. Cô đưa tay ra hiệu cho tôi đi theo mình trên con đường, băng qua một khu vườn trải sỏi dưới những tán cây ổi.

Trong khi theo chân cô hầu gái đi qua những hành lang dài hun hút trong ngôi nhà, một cảm giác hân hoan bất chợt ùa đến với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy mừng rằng mình đã tới đây, vui sướng rằng tôi sắp được gặp lại señora lần nữa.

Căn nhà thoáng mát và rộng rãi với những cơn gió mơn man thổi vào từ những ban công mở rộng. Mọi thứ trong nhà sạch sẽ và bóng loáng, từ tay vịn hành lang cắt vát bằng đồng đến cây đèn chùm cổ kính treo trên trần nhà. Cô hầu gái dẫn tôi đi qua bếp trên đường đi ra phòng khách. Ở giữa phòng bếp là một chiếc bàn nấu ăn lát đá cẩm thạch. Tôi chà tay lên mặt bàn lúc tôi đi ngang qua để phủi sạch bụi và mồ hôi bám trên lòng bàn tay. Bề mặt bàn mát lạnh, tạo cảm giác dễ chịu như nước chảy trong con suối trước kia vào buổi bình minh.

Phòng khách nằm ở vị trí trung tâm của căn nhà. Những mái vòm chia cách nó thành nhiều phần, với bốn cây quạt trần và những cầu thang với tay vịn sắt dẫn lên phần phía trên của ngôi nhà. Bức tường được che phủ bởi những bức hình của señora và gia đình chị. Tôi bước chậm lại để ngắm nhìn chúng, cố gắng thu thập càng nhiều thông tin càng tốt trước khi gặp chị để tránh hỏi chị những câu hỏi vô ý gây tổn thương về những thành viên đã mất hay những người đã không còn được coi là một phần của gia đình chị nữa. Tất cả các bức ảnh chồng chị đều được chụp lúc anh mặc quân phục. Trên ngực áo anh, những tấm huân chương đã to ra và nhiều hơn. Thời gian đã khiến anh trở nên to béo, và làm dịu bớt vẻ mặt cau có thời trẻ. Từ những khung ảnh thường qua các khung ảnh mạ vàng, anh dần dần già đi thành một ông lão.

Rosalinda cũng có một cơ số ảnh trên tường, từ bức ảnh của một cô bé nhỏ con và cao hơn đám bạn trong bộ đồng phục học sinh hao hao một chiếc tạp dề, đến bức ảnh của một cô thiếu nữ đứng tạo dáng như một hoa hậu cùng ba mươi cô gái cùng tuổi trong buổi lễ trưởng thành năm mười lăm tuổi 1 , với mái tóc đen quăn và dày dài tới ngang vai, và cuối cùng là bức hình chụp cô trong bộ váy cưới tựa người vào vòng tay của một chàng trai mặc quân phục giống như cha cô, trong tay anh cầm một thanh kiếm giơ cao.

1 Tiếng Tây Ban Nha: quinceañera. Đây là buổi lễ dành riêng cho các cô thiếu nữ ở các quốc gia có ảnh hưởng của văn hóa thuộc địa Tây Ban Nha. Buổi lễ trưởng thành này đánh dấu rằng các cô không còn là trẻ con nữa, và chính thức được giới thiệu trước gia đình và cộng đồng như một thiếu nữ.

Tôi có thể nhìn thấy nét của cả bố và mẹ cô trong những bức ảnh chụp Rosalinda. Cô vẫn giữ nước da màu đồng và chiều cao của cha. Tuy vậy, cô thừa hưởng nụ cười thông thái và suy tư của ông ngoại cô, Papi, kèm theo đường hằn suy nghĩ chạy ngang trán.

Tuy nhiên, tấm hình lớn nhất trong căn phòng là một bức tranh vẽ một bé trai với nước da trắng bóc, đôi mắt tinh anh, và nụ cười tươi. Cậu được quấn trong một chiếc áo mặc trong lễ Rửa tội màu trắng ngà viền đăng ten, đầu đội một cái mũ trẻ em cùng màu với dây nơ viền quanh cặp má phúng phính ửng hồng màu bông súng.

Señora Valencia đang ngồi ngắm nhìn bức chân dung trong lúc cô hầu và tôi đứng đợi chị quay lưng lại.

Cuối cùng chị cũng đứng lên khỏi ghế. Chị mặc một chiếc áo caftan in họa tiết hoa dâm bụt, vạt áo dài xuống tận mắt cá chân. Thân người chị hiện lên gầy gò dưới lớp áo, đến độ gần như hốc hác. Chị dùng cái ghế làm điểm tựa trước khi bước về phía chúng tôi. Mái tóc chị điểm một vài sợi bạc. Chị vấn tóc theo kiểu cũ như Doña Eva, thắt mái tóc dày xoắn lọn thành hai bím nằm gọn ở hai bên mặt.

Khi đã đứng trước mặt tôi, chị dí sát mặt vào gần mặt tôi như để kiểm tra, rồi xoay gót quay trở lại ghế ngồi. Tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ trong lúc chị ngồi xuống và nhấp cạn tách cà phê, như thể tôi đã hoàn toàn biến mất trong đầu chị. Cô hầu gái kéo khuỷu tay tôi, ra hiệu cho tôi đã đến lúc phải đi.

Cuối cùng señora cũng lên tiếng. “Bà thật độc ác khi tới đây dưới danh nghĩa của Amabelle, thưa bà.” Giống như cô hầu gái, giọng nói không ra hơi của chị có phần dè dặt như đang lo sợ điều gì. Vẫn quay lưng về phía tôi, chị đặt tách cà phê xuống cái bàn trước mặt. “Bà nghĩ tôi là ai chứ? Tôi đã nghe rất nhiều người kể lại rằng họ đã chứng kiến cô ấy bị giết ở La Romana, cùng với những người đang trốn trong một ngôi nhà ở gần biển. Pico cũng quả quyết với tôi rằng cô ấy đã bị giết.”

Việc chị không nhận ra tôi khiến tôi cảm thấy mình đã quay trở về Alegría chỉ để phát hiện ra rằng nó chưa từng tồn tại. Nhưng đồng thời, dù không hề cố ý, chị đã cho tôi niềm hy vọng rằng có khi nào tất cả những người đã nói rằng Mimi và Sebastien đã chết cũng đều nhầm lẫn.

Cô hầu gái mang một bộ mặt ngơ ngác trống rỗng, giống như mặt của tôi thời tôi còn ở vị trí của cô ta. Cô ta gật đầu với tôi một cách nhẫn nhịn, nhưng cả hai chúng tôi đều biết cô ta có thể sẽ phải mời tôi đi ra ngoài bất cứ lúc nào bà chủ của cô yêu cầu.

Tôi tự hỏi không biết tất cả những người lính gác đang nấp ở đâu trong ngôi nhà. Với địa vị của chồng chị, hẳn ngôi nhà phải được bảo vệ nghiêm ngặt chứ? Có lẽ những tên lính sẽ ập vào đây ngay giây phút này để áp giải tôi ra biên giới cũng nên.

Tôi đã trở nên già nua và to béo đến thế hay sao? Khuôn mặt tôi đã thay đổi nhiều như vậy ư? Làm sao chị ấy có thể không nhận ra giọng nói của tôi chứ? Cũng giống như chị, giọng nói của tôi đã chậm đi và trở nên hấp tấp hơn với tuổi tác nhưng nó vẫn là của tôi cơ mà? “Em đã ở đó với chị – trong ngôi nhà cũ phía cuối đường – trong phòng ngủ của chị lúc các con chị ra đời,” tôi nhắc nhở señora. “Chị không nói cho ai biết về những cơn đau đẻ cho đến lúc bọn trẻ sắp sinh ra vì chị tin tưởng rằng người mẹ quá cố của chị sẽ che chở chị. Con trai Rafael của chị, Rafi, được đặt theo tên của Generalissimo, là đứa sinh ra trước. Con gái chị sinh ra với một cái màng bao quanh mặt. Chị đặt tên con bé là Rosalinda Teresa theo như tên của mẹ chị.”

Phải mất một lúc sau señora mới quay lại lần nữa. Tôi cảm giác mình phải tiếp tục nói cho chị nghe. “Bức chân dung chị vẽ Generalissimo ở đâu rồi? Nó từng nằm trong phòng khách của ngôi nhà cũ ở cuối đường phải không? Juana và Luis giờ đang ở đâu? Có phải bác Juana đã quay về sống với các chị em nữ tu của bác ấy không?”

“Chúng tôi đã tìm thấy Amabelle ở đâu?” Chị hỏi, giọng nói đã bớt phần chắc chắn.

Bây giờ, chúng tôi như đang ở trong một cuộc đấu trí, và tôi biết mình phải thắng. Chị ấy phải nhận ra tôi là ai.

“Cha chị đã nhìn thấy em ngồi bên bờ sông Thảm Sát,” tôi trả lời, “Cha chị đã nhờ một trong những đứa trẻ sống ven sông hỏi em bằng tiếng Kreyòl, rằng em thuộc về ai. Em đã trả lời rằng em thuộc về chính bản thân em.”

Tôi có thể nhìn thấy vẻ ngượng ngùng và hối hận trong dáng điệu của chị trong lúc chị bước về phía tôi. Sự bẽ bàng lỡ cỡ đến từ sự chối bỏ lúc đầu của chị, kèm theo việc tôi trở về quá muộn, khiến cho chúng tôi không thể ôm chầm lấy nhau và khóc những giọt nước mắt đoàn tụ.

Chị tiến thêm vài bước nữa về chỗ tôi, sau đó giật lùi lại như thể tôi là một sinh vật nguy hiểm không được đụng vào. Với một cái phẩy tay luống cuống khiến cho xương ống tay chị nhô lên, chị ra hiệu cho tôi chọn một trong những cái ghế mây trong phòng và đứng chờ tôi ngồi xuống.

“Sylvie, cô hãy để chúng tôi nói chuyện riêng.” Chị phẩy tay thêm một lần nữa, ra hiệu cho cô hầu gái rời khỏi phòng.

Tôi cũng muốn bỏ đi ngay giây phút đó, nhưng tôi quyết định ngồi xuống và ở lại. Một phần nhỏ trong tôi hài lòng vì đã chiến thắng và lôi kéo được sự chú ý của chị.

“Bọn chị không còn nhiều người làm nữa,” chị nói sau khi Sylvie đã đi khuất. “Còn rất ít người trung thành ở lại sau nhiều năm trôi qua.”

Chị nhìn xuống hai bàn tay chị. Chúng mềm mại, hoàn hảo, và không tỳ vết. Tôi cũng nhìn xuống bàn tay chai sạn của mình, đầy những vết cắt của dao kéo và kim may. Tại sao tôi chưa từng mơ về chị? Tôi băn khoăn suy nghĩ. (Những giấc mơ của tôi đôi khi là cách để níu giữ cũng như từ bỏ hy vọng.) Có phải bởi vì tôi chưa bao giờ thực sự yêu thương señora không? Tất cả những gì tôi muốn bây giờ là chị hãy nói cho tôi biết vị trí của thác nước đó ở đâu. Điều gì đã xảy ra với ngọn thác và con suối? Không lẽ nào chúng lại biến mất được. Một vài ước mơ nghe thật ngốc nghếch khi ta thổ lộ chúng ra, nhưng đây là lý do tôi đã quay trở lại nơi này, để đến thăm một ngọn thác.

“Amabelle, xin em hãy thứ lỗi cho chị vì đã không nhận ra em.” Chị luôn mang một nụ cười khó khăn trên mặt, như thể chị đang suy nghĩ về quá nhiều thứ và không tài nào tìm được từ ngữ chính xác để diễn đạt chúng. “Chúng ta đều đã đổi thay quá nhiều.”

“Em hiểu,” tôi trả lời, cảm giác như một bóng ma từ quá khứ đã quay trở lại trú ẩn dưới lớp da trên cơ thể.

“Hiện giờ em đang sống ở đâu? Ở đây hay là Haiti?” “Em đang ở Haiti.”

“Chị vẫn còn vẽ đấy. Em có thấy bức tranh chị vẽ Rafi không?” Chị chỉ tay về phía tấm chân dung của cậu bé trong bộ đồ rửa tội.

Sau đó chị thông báo với tôi, “Rosalinda đã kết hôn rồi.”

Tôi cảm giác như chị đang đại diện cho ai khác để nói chuyện với tôi. Có lẽ một thành viên già hơn của gia đình chị, một doña với khuôn mặt và giọng nói giống như chị, đã đến ngồi tâm sự với tôi trong lúc tôi chờ để được gặp Valencia.

Khi chị còn trẻ, tôi có thể dễ dàng đoán biết suy nghĩ của chị. Nhưng lúc này đây, tôi không có một ý niệm nào về những gì đang diễn ra trong đầu chị.

“Chị có đẻ thêm đứa nào nữa không?” Tôi hỏi.

“Chị chỉ có hai đứa mà em đã biết rồi thôi,” chị đáp. “Chị không thể sinh thêm con cái được nữa. Còn em thì sao? Em đã có chồng con hay cháu chắt gì chưa, Amabelle?”

“Em không có.”

“Sau khi em bỏ đi, chị bị băng huyết trong vài ngày. Có lẽ chị đã sơ sẩy trong thời gian ở cữ ngay sau khi mới sinh bọn trẻ. Javier là bác sĩ duy nhất mà chị tin tưởng, và có lẽ ông ấy đã giúp được chị nếu ông ấy không biến mất. Ngay cả những mối quan hệ của Doña Eva cũng không giúp bà ấy tìm lại được con trai. Pico nói rằng anh ấy đã làm tất cả những gì có thể để tìm Javier nhưng không đi đến đâu. Một vài người đơn giản là đã biến mất vĩnh viễn.”

Chị gọi Sylvie vào phòng. Cô hầu gái ba chân bốn cẳng chạy vào trong phòng khách. Ánh mắt của Sylvie đảo vòng quanh căn phòng để tránh nhìn vào señora. Làm tôi tớ cho người khác, bạn luôn bị rà soát ngay khi vừa đặt chân vào phòng, như thể ông chủ bà chủ của bạn đang chực chờ cơ hội để bắt được một món đồ quý giá của họ trong tay bạn.

Sylvie đứng trước một cây cột chống ở giữa phòng và kiên nhẫn đợi lệnh. Cô nhanh chóng bị bỏ ở đó, chìm vào quên lãng.

“Papi qua đời trước khi Rosalinda kết hôn,” señora giải thích, chỉ tay về phía tấm ảnh cưới của Rosalinda. “Rosalinda muốn kết hôn sớm lúc còn trẻ. Giờ con bé đang theo học trường y cùng với chồng tại thủ đô. Bọn chúng có một cuộc sống ổn định. Tuy nhiên, với những cuộc bạo động và biểu tình gần đây trong thành phố, chúng có thể sẽ quay về nhà cùng với bố chúng cuối tuần này.”

“Còn Señor Pico thì thế nào rồi chị?” Tôi cảm thấy đây là lúc hỏi chị về chồng chị.

Chị khép tay lại trên đùi và chần chứ trước khi trả lời tôi. “Đây là một khoảng thời gian bất ổn định của đất nước bọn chị,” chị đáp.

“Chị đã chuyển nhà lúc nào thế?” Tôi hỏi tiếp.

“Hẳn mọi thứ bây giờ trông rất khác lạ với em,” chị nói. “Pico đã mua lại ngôi nhà này từ gia đình một viên đại tá đã chết. Bọn họ đều đang sống ở Nueva York 1 , trên miền Bắc Mỹ, giống như Doña Eva và Beatriz.” Chị thở dài một tiếng, rồi ngân nga một bài hát ngắn ngủi với giai điệu sôi nổi – “Yo tiro la cuchara. Yo tiro el tenedor. Yo tiro to’ los platos y me voy pa’ Nueva York.” Đó là một bài đồng dao về nỗi buồn viễn xứ, trong những cuộc du hành tha hương nửa mừng nửa tủi để đến với bến bờ Nueva York. “Ta bán cái thìa của ta. Ta bán cái nĩa của ta. Ta bán hết chỗ dĩa này rồi ta đến với Nueva York.”

1 Tiếng Tây Ban Nha, chỉ thành phố New York ở Hoa Kỳ.

“Khi bọn chị chuyển nhà,” giọng nói của chị đã hơi dịu xuống, “Juana và Luis đã quay về sống với gia đình của họ. Bọn họ đã quá già và không thể tiếp tục làm việc được nữa. Chị muốn giữ hai người ấy lại, nhưng bọn họ muốn được trở về quê hương.”

Chị cúi người về phía trước và nắm tay tôi thật chặt. Những ngón tay chị siết chặt quanh các đốt ngón tay tôi như thể chị muốn hằn những dấu vân tay của mình lên từng lóng xương của tôi vậy.

“Amabelle, chị vẫn tiếp tục sống ở đây,” chị nói, giọng pha chút khẩn khoản. “Nếu chị từ bỏ đất nước này thì chị cũng từ bỏ chính bản thân mình. Và chị sẽ phải bỏ xứ này mà đi nếu chị dám chống đối chồng chị. Chị cũng không bao giờ dám chất vấn hay đặt câu hỏi gì cả. Em biết đấy, không tin tưởng Pico cũng đồng nghĩa với việc chống đối lại anh ấy.”

“Em hiểu,” tôi đáp.

“Em thật sự hiểu cho chị ư?” Khuôn mặt chị sáng bừng lên với một tia hy vọng mà tôi nghĩ mình không còn có thể mang lại cho chị được nữa. “Trong lúc El Corte (1) diễn ra, mặc dù chị bị mất nhiều máu đến tưởng chết được, chị đã giấu rất nhiều người bọn em trong nhà chị,” chị thì thầm với tôi. El Corte – đợt cắt tỉa – là một từ có vẻ dễ dàng để nói. Giống như phía bên này con sông, rất nhiều người gọi cuộc thảm sát đó là kout kouto, một nhát đâm, giống như một vết thương từ một con dao vậy. “Chị đã giấu một đứa bé và bây giờ

(1) Cách những người Dominicana gọi cuộc thảm sát Cây mùi tây.

nó đang học trường y cùng với Rosalinda và chồng con bé. Chị đã giấu Sylvie và hai gia đình nữa trong căn phòng cũ của em. Chị cũng giấu cả một số người làm của Doña Sabine nữa trước khi bà ấy cùng chồng quay về Haiti. Chị đã làm tất cả những gì có thể trong hoàn cảnh của chị lúc đó.”

Chị đang trông đợi tôi nói điều gì chứ? Tôi chẳng có cái huân chương nào để trao tặng cho công lao của chị cả. Nếu thực sự chúng tồn tại, tôi cũng không biết chỉ cho chị tới chỗ nào để nhận chúng.

“Em hiểu,” tôi đáp lời chị.

“Chị giấu tất cả bọn họ vì chị đã không thể giấu được em, Amabelle. Lúc ấy, chị tưởng rằng em đã bị giết, nên tất cả những gì chị làm đều là vì em.”

“Em không nhìn thấy dấu vết gì của khu nhà máy của Don Carlos. Có phải những người ở đó đã bị giết hết không?” Tôi không muốn phải cảm thấy mắc nợ señora.

“Tất cả những người làm trong khu nhà máy của Don Carlos đều sống sót.” Câu trả lời của chị đã xác nhận nghi ngờ của tôi, rằng nếu đêm hôm đó tôi không hẹn Sebastien rời khỏi nhà máy và đi tới nhà thờ, thì có lẽ anh và Mimi đã thoát chết. “Bây giờ ở vùng này không còn những nhà máy nhỏ kiểu đó nữa,” chị nói thêm, “chỉ còn những khu nhà đồn điền như nhà chị thôi.”

Có khi nào con suối đó đã cạn khô rồi không? Có lẽ khi người ta bắt đầu xây nhà quanh đây, họ đã khai thác hết đá và cát để làm vữa, đồng thời chặn dòng nước lại để làm thủy điện chăng?

“Amabelle, Pico lúc đó chỉ tuân theo mệnh lệnh được giao phó cho anh ấy mà thôi,” chị thả tay tôi ra và tiếp tục phân trần. “Chị đã suy nghĩ rất nhiều về điều này trong suốt những năm qua. Anh ấy nhận được lệnh đi bắt giam những người đang âm mưu đảo chính Generalissimo ở nhà thờ tối hôm ấy, rồi sau đó bị chặn đường bởi những người đi cùng với cậu thanh niên Unèl, người đã từng xây lại nhà vệ sinh cho chúng ta.”

Chị ngồi im lặng một lúc lâu, như thể Unèl đã hiện hồn về trước mặt chị và chị đang nhìn anh qua cặp mắt rơm rớm nước.

“Chúng ta đã trải qua một thời kỳ đầy rẫy những cuộc thảm sát.” Chị thở hắt ra. “Trước khi Papi mất, tất cả những gì ông làm là ngồi nghe radio nói về những vụ thảm sát khác nhau trên toàn thế giới. Việc chúng ta vẫn đang ngồi đây và chờ đợi cái chết đến một cách tự nhiên quả thực là một điều kỳ diệu.”

Trong suốt quãng thời gian sống cùng một nhà, tôi và chị lúc thì là bạn bè, lúc thì lại như những người xa lạ. Nhưng vào lúc này đây, chúng tôi chẳng còn quen thân cũng không xa cách. Chúng tôi chỉ là hai người gặp nhau qua đường, và đang chào hỏi nhau một cách thái quá và vô nghĩa. Và tôi muốn chấm dứt cuộc trao đổi này ở đây.

“Em muốn biết chuyện gì đã xảy ra với con suối,” tôi nói. “Em đang nói đến con suối nào?” Chị hỏi lại.

“Con suối bắt nguồn từ ngọn thác sau nhà máy.”

“Người ta đã xây dựng rất nhiều nhà cửa ở đó rồi,” chị nói, “nhưng những ngôi nhà chưa hoàn toàn thế chỗ mọi thứ. Quanh khu đó vẫn còn rất nhiều thác nước. Nếu em muốn, chị có thể đưa em tới ngọn thác gần nhất còn lại.”

Đỗ đằng sau ngôi nhà chính là một chiếc xe ô tô to với hai màu xanh trắng và bên trong sơn màu vàng. Sylvie trèo lên băng ghế sau trước tiên, sau đó đến lượt tôi ngồi xuống ghế trước bên cạnh señora. Tôi thoáng thấy señora che miệng ngăn sự sửng sốt khi chị nhận ra một bên chân tôi trông ngắn hơn chân còn lại vì những vết thương cũ.

Một người đàn ông chạy ra từ một trong những ngôi nhà nhỏ hơn khi chị nổ máy để khởi động xe.

“Señora, bà chuẩn bị đi ra ngoài sao?” Ông hỏi, dựa tay vào thành xe.

“Ta sẽ không đi lâu đâu,” chị nói.

“Tôi có cần đi với bà không?” Ông ta hỏi tiếp. “Xin hãy mở cổng cho bọn ta,” bà yêu cầu.

Người đàn ông nhanh chóng đi ra cổng, vừa đi vừa cài lại hai cúc áo dưới. Mặc dù ông ta chạy hết sức có thể, chiếc ô tô của señora vẫn đi đến cổng trước ông. Chị dừng xe lại và đợi ông ấy mở cổng cho chị.

“Đây là xe của con gái chị,” chị nói trong lúc lái xe qua cánh cổng đã mở. “Amabelle, Rosalinda của chúng ta đã lớn lên thật xinh đẹp. Con bé là cả cuộc đời đối với chị. Hai mẹ con chị rất thân nhau. Nếu trước kia Mami sống lâu hơn thì hẳn bà và chị cũng thân thiết với nhau như vậy. Chiếc xe này là quà cưới từ bố con bé. Nó dạy chị lái xe để chị có thể tự mình đi đây đi đó khi chị muốn. Chồng chị thậm chí còn không biết là chị biết lái xe ô tô, phải vậy không Sylvie?”

“Đúng là vậy đấy, thưa Señora,” Sylvie ngoan ngoãn trả lời. Señora lái xe với tốc độ gần như của người đi bộ. Chị đi qua những con phố mà tôi vừa cuốc bộ qua trước đó, rồi quẹo gấp ở một khúc cua. Con đường trước mặt dẫn chúng tôi đi xa khỏi những ngôi nhà rộng lớn và đi về phía những cánh đồng. Nơi này trước kia từng là những ruộng mía thì bây giờ đã chuyển thành những cánh đồng trồng lúa mì và ngô, với những ngọn núi hùng vĩ phía xa. Chúng tôi lái xe ngang qua những căn biệt thự đồng quê và những nông trại nhỏ nơi đám trẻ con chạy ùa ra để đuổi theo chiếc xe. Một lúc sau, chiếc xe tăng tốc và băng qua một con đường hẹp ngoằn ngoèo giữa một ruộng ngô, rồi đột ngột lên dốc và đi về phía một thác nước. Chúng tôi càng đi về gần đầu ngọn thác thì nó càng trở nên rộng lớn.

Señora đột ngột phanh gấp khiến Sylvie bắn người về phía trước và va cằm vào ghế của tôi. Chúng tôi đang đậu xe trên một mỏm đá dựng đứng phía trên thác nước, ngắm nhìn dòng nước tuôn trào qua bờ đá và chảy xuống một hồ nước bọt tung lên trắng xóa bên dưới. Thác nước này cao hơn và hồ nước bên dưới sâu hơn so với thác nước trong trí nhớ của tôi. Có lẽ thời gian đã xóa đi những ký ức của tôi về tỷ lệ thực tế của ngọn thác, hoặc đây có thể là một thác nước hoàn toàn khác.

Chúng tôi ngồi đó và ngắm nhìn dòng nước chuyển màu từ trắng trong suốt sang màu nâu đỏ phù sa.

“Thác nước hôm nay chảy mạnh quá. Có lẽ vừa có mưa ở trên đỉnh núi,” chị nhận xét. “Chị hiểu tại sao em lại lặn lội đường xa tới đây để nhìn ngọn thác này. Hồi chúng ta còn nhỏ, em luôn bị thu hút bởi nước, Amabelle ạ. Từ sông suối đến hồ rồi đến những thác nước. Em còn nhớ chứ?”

Tôi vẫn nhớ.

“Mỗi khi không thấy em, chị luôn biết chính xác phải tìm em ở đâu. Thường thì em sẽ ngồi bên một con suối nào đó, ngắm nghía hình bóng của mình dưới nước. Chị không nhớ mình đã đi đến bao nhiêu con suối, con sông, và thác nước để tìm em rồi.”

Chúng tôi ngắm nhìn hồ nước cho đến khi nó trở thành hình ảnh phản chiếu sống động của bầu trời. Mặt trời bắt đầu xuống núi. Sylvie liên tục hắng giọng, như muốn ra hiệu rằng đã đến lúc chúng tôi phải quay trở về. Khi cả hai chúng tôi không ai động đậy, gương mặt lo âu của cô càng trở nên nhăn nhó hơn. Cô chùi hai bàn tay mướt mồ hôi lên đùi và cố gắng điều chỉnh hơi thở phì phò trong họng.

“Có chuyện gì thế, Sylvie?” Señora quay lại hỏi. “Cô cảm thấy bệnh hả?”

Những giọt mồ hôi lấm tấm trên bờ môi đã ngả sang màu thịt tái của Sylvie. Trong một phút ngắn ngủi, gương mặt của cô làm tôi nhớ tới Félice, người tình của Joël, với cái bớt màu củ dền ở chỗ đáng ra là bộ ria mép của một người đàn ông.

“Con có một câu hỏi,” Sylvie nói, giọng cô lên xuống thất thường, dường như ngoài tầm kiểm soát của cô. “Bà cho phép con hỏi một câu chứ ạ?”

Señora mở một ngăn trong xe ô tô, lấy ra một chiếc khăn mùi xoa, và đưa nó cho Sylvie để lau mặt.

“Câu hỏi của cô là gì, Sylvie?” Chị hỏi. “Làm ơn hãy bình tĩnh lại.”

Sylvie hít từng hơi thật dài và sâu trong khi dùng khăn mùi xoa của señora để lau mồ hôi đang túa ra trên môi.

“Tại sao lại là mùi tây?” Sylvie hỏi. “Cái gì cơ?” Señora hỏi lại.

“Tại sao họ lại chọn mùi tây?”

Vì lý do nào đó, tôi đã không nhận ra rằng Sylvie còn rất trẻ. Cô có lẽ vẫn còn là một đứa bé khi señora cứu thoát cô khỏi cuộc thảm sát.

Señora nhướng mày lên ngạc nhiên rồi quay qua nhìn tôi. Chị cố gắng mỉm cười, nhưng không thể che giấu vẻ bối rối gượng gạo đang loang ra trên mặt. “Amabelle, em có biết rằng Sylvie và chị chưa bao giờ nói chuyện về những điều này không?”

Sylvie gục mặt xuống và lắc đầu tới lui.

“Có rất nhiều giai thoại. Đây chỉ là một trong số chúng mà thôi,” señora nói, quay mặt nhìn lại về phía thác nước. “Ta đã nghe kể rằng khi Generalissimo còn trẻ, ông ta từng canh gác cho một đồn điền mía. Một ngày nọ, một trong những người phu Haiti của ông ta bỏ trốn sang một cánh đồng lân cận nơi họ trồng rất nhiều thứ, bao gồm cả lúa mì và mùi tây. Để tránh khỏi tầm mắt của Generalissimo, người phu Haiti đó đã bò trong ruộng để lẩn trốn. Sau khi Generalissimo đã quá mệt với việc đuổi bắt anh ta, ông ta liền ra điều kiện với người đàn ông Haiti nọ, ‘Nếu ngươi nói cho ta biết ngươi đang ở đâu, ta sẽ để ngươi được sống. Nhưng nếu ngươi bắt ta phải tìm ngươi, ta sẽ lấy mạng ngươi.’ Người đàn ông đó hẳn không tin lời Generalissimo, nên anh ta tiếp tục bò đi. Nhưng anh ta chắc vẫn hy vọng bằng cách nào đó Generalissimo sẽ giữ lời, nên quyết định hô tên của những loại cây được trồng trong những thửa ruộng mà anh ta bò ngang qua. Khi đến ruộng lúa mì, anh ta hô lên ‘twigo’ thay vì ‘trigo’ 1 . Và trong ruộng mùi tây thì anh ta hô ‘pewegil’ thay vì ‘perejil’. Generalissimo lúc đó đã phát hiện ra anh ta ở đâu và có thể bắn chết anh ta ngay trên ruộng mùi tây. Nhưng ông ta đã không làm vậy, bởi vì ông chợt nhận ra một điều: Những người Haiti các cô không uốn chữ ‘r’ hay phát âm chữ ‘j’ giống như người Dominicana bọn ta. Lúc đó, Generalissimo đã kêu lên đắc thắng ‘Chừng nào vẫn còn những bụi mùi tây bên cạnh, thì lũ các ngươi sẽ không bao giờ trốn thoát được đâu.’ Trên hòn đảo này, chúng ta chỉ cần đi xa một chút là sẽ gặp những người nói một ngôn ngữ khác. Từ ngữ của họ sẽ hé lộ rằng họ thuộc về phía bên nào.”

1 Tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là lúa mì.

Chị kết thúc câu chuyện một cách chóng vánh. Sylvie vẫn đang lắc đầu, có vẻ như không hài lòng với lời giải thích của señora. Có lẽ sẽ không câu chuyện nào có thể giải thích cuộc thảm sát đó một cách thỏa đáng. Chính tôi cũng không biết câu chuyện mà señora vừa kể có đúng sự thật hay không. Nhưng giống như señora đã nói, có rất nhiều giai thoại dị bản khác nhau. Và câu chuyện của tôi chỉ là một trong số chúng.

“Em hãy nghỉ lại nhà chị tối nay, Amabelle,” señora ngỏ lời. Sylvie ngẩng đầu dậy và quẹt nước mắt. “Cháu vẫn luôn mong rằng mình sẽ tìm được một lời giải thích, thưa bà,” cô nói với tôi.

“Em phải trở về quảng trường bây giờ,” tôi nói. Tôi không muốn người lái xe bỏ đi và để tôi ở lại.

“Amabelle, em không thể nán lại lâu hơn sao?” Señora hỏi. “Em không thể ở lại thêm được nữa,” tôi đáp. “Có người đang đợi để đưa em quay về.”

Chị lái thật nhanh về quảng trường, nơi người lái xe đang đứng đợi tôi. Trong lúc anh ta vẫy tay ra hiệu cho tôi nhanh chân lên, chúng tôi ngồi im lặng trong chiếc xe của con gái señora.

“Em sẽ quay lại chứ, Amabelle?” Señora hỏi tôi lần cuối.

Tôi không muốn từ biệt chị với một lời nói dối. Trong một tích tắc sau cái bắt tay gượng gạo, chị hôn lên má trái của tôi thật nhanh. Tôi mở cửa xe và bước ra ngoài.

“Amabelle, em thật tử tế vì đã tới thăm chị,” señora nói. “Hai người hãy đi trong bình an, Sylvie, Señora,” tôi đáp. Người tài xế trẻ đưa tay đỡ tôi ngồi lên chiếc xe jeep. Señora bước ra khỏi xe, tựa người vào cửa xe, và vẫy tay chào tôi. Sylvie đứng túc trực bên cạnh và nhìn señora với một ánh mắt xa xôi. Ẩn chứa trong ánh nhìn của cô là cả một sự khao khát mà tôi hiểu quá rõ vì ký ức về nó gần như đã hằn sâu lên khuôn mặt của tôi suốt thời niên thiếu: tôi sẽ gánh chịu mọi cực nhọc, chịu đựng mọi khổ nhục, làm bất cứ thứ gì, thậm chí cho dù phải đi cắm mặt xuống đất đến hết đời, nếu một ngày nào đó số phận mỉm cười với tôi và quyết định trả công cho những năm tháng lao động cực nhọc của tôi bằng một cơ hội, dù nhỏ nhoi đến thế nào, để có được một cuộc đời an nhàn bằng một phần nhỏ nhoi cuộc sống của señora thôi cũng được.

Hãy đi trong bình an nhé, Señora.

Người tài xế phóng nhanh trên đường trở lại biên giới. Anh ta có một cuộc hẹn ở đó và muốn về tới nơi trước khi trời sáng. Tôi biết đường đi tắt để tránh chạy qua các chốt kiểm tra của quân đội, anh ta nói với tôi.

Tôi nhắm mắt nghĩ ngợi trong suốt cuộc hành trình. Tôi vẫn có thể nghe trong đầu mình tiếng thác nước đổ ầm ào và cảm nhận những tia nước bắn lên mặt mình, mặc dù tôi không hề bước ra khỏi xe. Tôi đã không tìm thấy Sebastien. Anh đã ở lại bên trong thác nước, thay vì bước ra và hiện lên trước mặt tôi.

Một hồi lâu sau, người tài xế trẻ vỗ lên vai tôi và hỏi, “Này, bà còn sống không đấy? Bà không được chết đâu nhé. Nếu bà chết thì tôi sẽ gặp rắc rối to đấy.”

Tôi có thể ngửi thấy mùi bia Presidente và mùi thuốc lá nhai trong hơi thở của anh ta. Vẫn không mở mắt, tôi trả lời, “Không con trai ạ, ta vẫn chưa chết đâu.”

“Sao bà lại ngủ nhiều như vậy?” Anh ta hỏi tiếp. Tôi nhận ra anh ta đang muốn trò chuyện, hay chí ít là được nghe tiếng ai đó để giữ mình tỉnh táo và vững vàng tay lái. “Bà không gặp được những người mà bà đến để tìm sao?”

Chúng tôi tiếp tục lái xe trong im lặng thêm một lúc nữa cho đến khi ngón tay anh ta lại vỗ lên vai tôi lần nữa.

“Bây giờ đã là nửa đêm rồi,” anh ta thông báo. “Bà có thể mở mắt ra và không phải nhìn mọi thứ xung quanh nữa.”

“Chúng ta còn cách biên giới xa không?” Tôi hỏi. “Cũng không còn xa nữa,” anh ta đáp.

“Công việc của cậu là gì?” Tôi nhắm mắt lại lần nữa. “Tôi chắc là cậu có những công việc khác ngoài bán vé số chứ hả?”

“Tôi giúp đưa những người phu tới La Romana để làm việc trong các đồn điền mía,” anh trả lời.

“Tại sao cậu lại muốn làm công việc này?” Tôi hỏi.

“Những người bên đây cần người thu hoạch mía và những thứ khác cho họ,” anh đáp, “trong khi những người ở nước chúng ta thì đang khốn đốn vì không có việc làm.”

“Cậu có biết về cuộc thảm sát nhiều năm về trước không?” Tôi hỏi.

“Mẹ tôi đã chạy trốn nó cùng với tôi khi tôi mới còn quấn tã,”

anh trả lời. “Cha tôi đã bỏ mạng trong cuộc chém giết đó.” “Vậy là cậu đã sống sót qua cuộc thảm sát đó?”

“Nếu đó là cách bà muốn nói.”

Chúng tôi không nói gì thêm nữa cho tới khi đi đến cây cầu. Những người lính gác thậm chí còn không thèm liếc nhìn tôi khi chiếc xe lái qua cánh cổng. Tôi cố gắng trong tuyệt vọng để nhìn thấy con sông, thậm chí chỉ là một mảnh trăng soi trên bóng nước hay một hình bóng phản chiếu của bầu trời đêm.

Tôi đề nghị người tài xế cho tôi xuống xe trước khi chúng tôi đi tới cục kiểm soát biên giới Haiti và con đường cái. Anh ta dừng xe và tắt đèn pha. “Bà muốn tôi để bà ở đây ư? Tôi không thể làm vậy được,” anh nói. “Tôi biết đây là thời điểm trong năm mà vụ kout kouto xảy ra. Nếu bà muốn dừng lại để cầu nguyện và thắp một ngọn nến thì tôi có thể đợi bà, nhưng đừng nấn ná lâu quá vì tôi có một cuộc hẹn rất quan trọng đang chờ.”

“Tôi muốn cậu để tôi lại đây,” tôi nói. “Bà định ở đây làm gì?”

“Người đàn ông của tôi sẽ đến đón tôi,” tôi nói dối. “Ông ấy sẽ có mặt ở trước cục kiểm soát sớm thôi. Và trong trường hợp ông ấy không đến, những người lính gác sẽ để cho bà già này ngủ trước thềm nhà. Vả lại bình minh cũng sắp lên rồi.”

Có lẽ giả vờ tin những lời tôi nói làm cho tâm can anh ta bớt cắn rứt. Hơn nữa, anh ta đang trong cơn vội vã nên cũng không muốn đôi co với tôi thêm. Có thể chính anh ta cũng sợ hãi những bóng ma lẩn khuất ở đây. Tôi vẫn được nghe kể những câu chuyện về những người bơi trên sông tìm thấy một đống xương trắng như bọt biển, hay cả một bộ xương đang mủn dần đi theo thời gian vì bị chôn vùi quá lâu dưới lòng sông.

“Bà chắc chắn rằng bà muốn ở lại đây hết đêm nay chứ?” Người lái xe hỏi lần cuối.

“Ta chắc chắn,” tôi khẳng định lần cuối.

Anh ta nhổ một nắm thuốc lá nhai ra khỏi khóe miệng trong khi cân nhắc nên làm gì. “Bà quả là một bà già điên khùng đấy,” anh ta thốt lên.

Sau khi anh ta lái xe đi, tôi lần bước xuống bờ sông, cố gắng để không vấp ngã. Trong những đêm mà bóng tối dày đặc bao trùm như đêm nay, trừ phi bạn ngồi gần con sông, bạn sẽ nghĩ rằng nó đã bị bóng đêm nuốt chửng. Và khi đó, bạn có thể tưởng tượng trong giây lát rằng tất cả bọn họ – cha mẹ tôi, Wilner, Odette, và hàng ngàn người đã nằm lại nơi đây – đều được đón nhận cái chết theo cách tự nhiên, những cái chết bình thản, đong đầy những phút giây ưu tư suy niệm, những khoảng lặng nuối tiếc, một cái chết mà trong đó ta có thời gian để suy nghĩ về những gì ta để lại sau lưng và những điều tốt đẹp hơn đang chờ đợi ta phía trước.

Vào cái ngày cha mẹ tôi chết đuối, tôi chỉ biết ngồi nhìn gương mặt họ trồi lên chìm xuống trên đầu sóng nước. Cả hai người đều đang cố gắng gửi cho tôi một thông điệp hay tín hiệu nào đó, nhưng dòng nước chảy xiết đã không cho phép họ. Trước khi bà chìm xuống, mẹ tôi giơ hai tay bà lên cao, cao hơn cả chóp đầu cơn sóng. Cử chỉ đó của bà đầy tuyệt vọng, đến nỗi tôi không hiểu rằng bà đang muốn tôi nhảy xuống nước cùng với bà hay muốn tôi tránh xa khỏi con sông cuộn lũ.

Tôi đã tưởng rằng, nếu tôi được sống lại giây phút đó nhiều lần, câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng hơn, rằng liệu cha mẹ tôi đã muốn tất cả chúng tôi cùng chết với nhau hay họ muốn tôi phải tiếp tục sống, cho dù tôi chỉ có một mình. Tôi cũng từng nghĩ rằng, nếu tôi đến với con sông vào đúng ngày và đúng thời điểm, thì mặt sông sẽ trả lời câu hỏi đó cho tôi, hay gợi nhớ cho tôi một ký ức rõ ràng hơn về những gì đã xảy ra. Nhưng tự nhiên không lưu giữ những ký ức. Và sớm thôi, tôi cũng sẽ không còn giữ được chúng nữa.

Tôi nghe thấy tiếng của thứ gì trồi lên khỏi mặt nước, thứ tiếng động giống như khi người ta sảy những hạt thóc lên xuống trên cái nia để tách vỏ trấu ra khỏi gạo. Một bóng đen trườn lên khỏi mé sông trước mặt tôi, một bóng ma đang toét miệng cười. Hai gò má của nó bám đầy phù sa, còn hai mắt nó đỏ rực lên như hai hòn lửa.

Đó là ông giáo sư trong ba lớp quần áo bện rơm ướt nhẹp mà tôi gặp hồi sáng. Nước sông chảy xuống ròng ròng dưới chân ông trong lúc ông đứng lặng và nhìn tôi với ánh mắt vô hồn. Hít từng ngụm đầy hơi đêm, và có lẽ cả một chút cát bụi đáy sông, qua lỗ mũi phì phò, ông gãi bộ râu xồm xoàm của mình, rồi quay đầu đi men theo bờ sông. Đôi xăng đan bằng xốp của ông loẹt quẹt dấp dính giữa bãi cát và gót chân.

Tôi nhắm mắt lại và cố gắng hình dung nỗi buồn dâng lên như một màn sương dày đặc trong đầu ông. Liệu một ngày nào đó, dòng sông và cuộc thảm sát có trả lại cho ông sự minh mẫn như cách chúng đã từng cướp nó đi không?

Tôi muốn lên tiếng gọi ông, nhưng tôi muốn dùng tên thật của ông chứ không phải những cái tên biệt danh như Pwofese hay “lão khùng” mà ông đã bị gán cho. Tôi muốn nhờ ông ta, làm ơn, hãy nhẹ nhàng bế tôi lên và đặt tôi vào trong lòng sông, trong hang động của Sebastien, trong tiếng cười của cha tôi, trong dòng đời vô tận của mẹ tôi. Nhưng ông đã đi mất rồi, lặn sâu vào trong đêm tối.

Tôi cởi váy ra, gấp nó lại ngay ngắn, và đặt nó lên một hòn đá tảng lớn bên bờ sông. Trần truồng, tôi hòa mình vào làn nước.

Nước khá ấm áp so với một ngày tháng Mười. Dòng sông đang ở mức nông, nông đến độ tôi có thể nằm ngả lưng ra mà nước chỉ ngập lên đến nửa vai. Nước sông xâm xấp, vỗ về tôi một cách vụng về trong lúc những hòn đá cuội kỳ cọ lưng tôi.

Tôi ngả vào vòng tay êm ái dịu dàng của những giấc mơ để trấn áp nỗi sợ về những vụ sạt lở đất và những vũng máu rỉ ra từ dưới đáy sông, nơi những linh hồn người chết khóc than và nhỏ những giọt nước mắt xuống nước sông cuồn cuộn chảy.

Ông giáo sư quay lại nhìn tôi nằm đó, vỗ về trong làn nước và đập tay như một đứa bé nằm trong chậu tắm. Ông quay đầu và tiếp tục bước đi. Đôi xăng đan của ông lệt xệt như hai con chim lớn đang vẫy đôi cánh sũng nước để rỉa lông chứ không phải để bay đi.

Ông ấy, cũng như tôi, đang tìm kiếm ánh bình minh.