Mùa Xuân Đen
CĂN nhà tôi ở suốt trong những năm quan trọng nhất trong đời chỉ có độc ba phòng. Một phòng, ông ngoại tôi qua đời ở đó. Lúc đám táng, mẹ tồi buồn khổlắm, thiếu điều là mẹ tôi lăn xả vào kéo xác ông ngoại tôi ra khỏi quan tài. Ông ngoại đã quá vãng trông vẻ buồn cười, trông như cũng đang khóc với nước mắt của cô con gái và đang khóc cho chính đám táng của mình.
Ở một phòng khác, dì tôi đã hạ sinh hai anh em sinh đôi. Dì tôi người nhỏ thó như con cá rô ron, khi nghe được tin dì sinh đôi, tôi tự hỏi: Sao lại sinh đôi? Mà sao không sinh ba? Sinh bốn? Tại sao chỉ có hai thôi? Dì tôi người ốm nhom nhách, da bọc xương, căn phòng lại quá bé nhỏ. Tường quét vôi màu xanh lá cây và góc phòng có một lavabo bằng sắt bẩn thỉu. Tuy nhiên, đó lại là căn phòng duy nhất trong nhà có thể sản xuất ra những đứa trẻ sinh đôi, sinh ba hay những đứa con khờ khờ. Phòng thứ ba, gọi là phòng nhưng thật sự là một góc nhà nơi đó nào tôi bị lên sởi, đậu mùa, nào ban cua, yết hầu và v.v... tất cả những bệnh tật đáng yêu của tuổi thơ làm cho thời gian như dài thêm ra và trở thành một niềm hạnh phúc tối đa, bất diệt cùng những cảnh hấp hối gần thần Chết. Hóa công quan phòng đã dành cho tôi một chiếc cửa sổ ngay trên đầu giường, có chấn song để tôi có thể bám chặt vào đó. Mồ hôi dính quyện vào đó dầy lên như da cóc. Tuy nhiên thời gian lại trôi qua như một dòng sông và mầm sống cứ vươn lên tựa như lúc nào cũng là mùa xuân và nhiệt đới, bàn tay cứ u lên như những miếng thịt bò phi-lê làm bít-tết, chân nặng trịch hơn chì, có khi lại nhẹ bỗng hơn tuyết. Đôi khi ở đó tôi có cảm tưởng như chân và tay tôi xa cách nhau như một đại dương thời gian hoặc bởi chiều dài rộng của ánh sáng, những cục bướu nhỏ sột soạt như cát trong óc, móng tay móng chân mục nát một cách tự do thoải mái y như cảnh hoang tàn của Athènes. Trong phòng này tôi chẳng nghe thấy gì ngoài những lời nói ngu si, mê muội, khi mỗi lần có một bệnh mới xuất hiện, ba mẹ tôi lo sốt vó cả lên, (Bạn thử nghĩ xem, hồi còn bé tí, nếu tôi dẫn bạn đến bồn rửa chén rồi nói: bé có thích uống nước bằng ly nữa không, lúc ấy bạn trả lời không và tôi đã ném mạnh cái ly vào bồn rửa chén). Cô Sonowska thường nhón gót đi nhẹ vào phòng tôi, (Đại tướng Smerdiakow lại nói: đi nhón gót một cách nhẹ nhàng), cô là gái chưa chồng, chả biết bao nhiêu tuổi nữa, nhưng tôi thấy cô thường mặc chiếc áo màu xanh lá cây sậm. Khi đi vào cô mang theo cả cái mùi bơ cũ — bộ phận kín của cô hôi rình xông qua lớp áo của cô — nhưng có điều là cô Sonowska thường mang theo bao đựng đồ kỷ niệm ở Jerusalem: nào là những đinh sắt đã đâm thủng chân tay Chúa, to đến độ lỗ đinh còn mãi ở chân tay Chúa. Đến sau đoàn viễn chinh Thập Tự Quân là thần Chết đen đủi, đến sau Kha Luân Bố là bệnh hoa liễu, đến sau cô Sonowska là bệnh sưng hoành cách mạc.
Bệnh sưng hoành cách mạc! Cứ tưởng tượng giới này bị bệnh đó thì sẽ ra sao. Chả còn chỗ nào để mà tham khảo ý kiến về bệnh nữa, chả còn đâu là khí thế con người nữa. Thượng Đế có nhẽ cũng bị chứng sốt rét thương hàn. Chả có gì là tuyệt đối ở đời cả, chỉ là những năm đồi tệ không tiến bộ được chút nào cả. Khi tôi nghĩ tới những thế kỷ mà cả Âu châu bị Tử thần đen đúa ngự trị, tôi mới thấy cuộc đời thật xiết bao tốt đẹp, nếu như chúng ta được xếp đặt đúng vị trí con người của ta. Nhảy múa và sốt nóng lạnh giữa cảnh băng hoại đó! Âu châu sẽ chẳng bao giờ lại múa nhảy một cách ngất ngư như vậy nữa. Và bệnh hoa liễu! Ghê tởm quá! Nó xuất hiện ở Âu châu và ở lì đó như ngôi sao mai treo lơ lửng ở chân trời rìa trái đất.
Năm 1927, tôi có lần ngồi ở quán Bronx lắng nghe một người đang đọc cuốn nhật ký của dân làng bẹp. Ông ta vừa đọc lên là đã cười hô hố một mình. Hai cảnh bề ngoài thật khác biệt nhau: một bên là một người đang nằm dưới cái chao đèn, tinh thần căng thẳng đến nỗi chân anh ta thò ra ngoài cửa sổ mà đâu có hay biết còn nửa thân người thì nằm trong cảnh ngất ngây; còn một bên là một người, cũng chính người đó đang ngồi ở quán Bronx cười ngặt nghẹo một mình vì hắn chả hiểu mô tê gì cả.
Chà, mặt trời vĩ đại của thần Hoa liễu đang xuống. Mức nhìn rõ, rất kém: tiên đoán cho quán Bronx, cho Mỹ châu và toàn thế giới. Mức nhìn kém, kèm theo là những trận bão cười. Chả có ngôi sao mới nào xuất hiện trên nền trời cả. Đại họa!... Chỉ là đại họa!
Tôi đang nghĩ tới cái thời Chúa Cứu thế lại tái lâm, lúc đó con người sẽ chiến đấu và sát hại cho Chúa được vinh quang cũng như bây giờ và muôn đời mãi về sau con người đang chiến đấu cho cái ăn và cái mặc. Tôi đang nghĩ tới cái thời chả ai thiết làm việc nữa, và sách vở giữ một địa vị quan trọng thực sự trong đời sống, khi đó có lẽ chả còn cuốn sách nào, ngoài một cuốn sách vĩ đại: cuốn Thánh Kinh. Theo tôi nghĩ thì sách là người và sách của tôi là con người thực của tôi: một con người lộn xộn, cẩu thả, vô ưu, khỏe mạnh, dâm dật, hay om sòm la lối, trầm tư, tỉ mỉ quá, trực tính quá. Tôi đang nghĩ rằng vào một tuổi nào đó sắp tới đây, tôi chẳng bị ai dòm ngó nữa. Rồi tiểu sử tôi tới lúc đó sẽ trở thành một cái gì quan trọng và vết tích tồi để lại trên trái đất sẽ có một ý nghĩa lớn lao.Tôi không thể quên rằng tôi đang làm lịch sử, một lịch sử bên lề cuộc đời giống y như một mụn nhọt sẽ ăn tươi nuốt sống, hết cái lịch sử vô nghĩa khác. Tôi nhìn vào tôi không phải như nhìn vào một cuốn sách, một đĩa hát, một tài liệu nhưng như nhìn vào cả cái lịch sử của thời đại chúng ta, một lịch sử của tất cả mọi thời đại.
Nếu như ở Mỹ tôi không được sung sướng, nếu tôi khao khát được thêm một phòng để ở nữa, một cuộc phiêu lưu nữa, một tự do phát biểu tư tưởng nữa là bởi tôi cần những thứ đó. Tôi ghi ơn Mỹ quốc vì đã giúp tôi thể hiện được những nhu cầu của tôi. Tôi có thể phục vụ lý tưởng của tôi ở Mỹ. Giờ thì tôi chẳng có nhu cầu gì nữa, tôi là con người không quá khứ lẫn vị lai. Tôi hiện đang sống, có thế thôi. Tôi chẳng quan tâm đến điều bạn thích hay không thích. Bạn có tin hay không tin điều tôi nói cũng chẳng hề gì. Lúc nào tôi cũng là vậy, dù lúc này bạn có bỏ rơi tôi ngay đi nữa. Tôi không phải là một cái bình xịt nước thành bụi để bạn xịt ra một làn mây mỏng hy vọng. Tôi thấy Mỹ châu đang gieo rắc tai họa. Tôi thấy Mỹ châu đang như một lời nguyền rủa đen tối lên thế giới. Tôi thấy một đêm dài đang xuống và những nấm độc đang làm độc cho thế giới và làm nó héo úa ngay từ gốc rễ. Vì thế tôi sốt sắng viết ra cuốn sách này như lời tiên báo về chung cuộc có thể là ngày mai hoặc trong vòng 300 năm nữa đây. Cũng vì thế, thỉnh thoảng tôi có những tư tưởng vụt nảy sinh và tôi bó buộc phải khơi lại ngọn lửa không những bằng nguyên những niềm hy vọng mà bằng cả những sự thất vọng ê chề, bởi lẽ tôi tin rằng không ai có thể nói những điều đó thay cho tôi được. Tôi do dự, ngập ngừng tìm cách diễn tả tư tưởng, thật là một thứ ngô ngọng ma quái. Tôi bị hoa mắt vì sự sụp đổ kinh hoàng của giới.
Chiều nào cũng vậy, sau khi ăn xong, tôi đổ những đồ ăn thừa xuống cho gà ăn. Khi cho ăn xong, tay cầm chiếc giỏ rỗng. Dừng lại chỗ cửa sổ cầu thang nhìn nhà thờ Sacré-Coeur ngất cao trên đồi Montmartre. Và mỗi chiều khi đem đồ ăn thừa xuống, tôi tưởng mình như đứng trên ngọn đồi cao trong một mầu trắng rực rỡ. Không phải nhà thờ Sacré-Coeur đã gợi hứng cho tôi và tôi cũng chẳng nghĩ về Chúa Kitô. Có một cái gì còn lý thú hơn Chúa Kitô, có một cái gì còn vĩ đại hơn nhà thờ Sacré-Coeur, tôi nghĩ tới một cái gì còn vượt ra cả Thượng Đế Tối Cao đó là chính con người tôi. Tôi là con người. Hình như như vậy là quá đủ cho tôi rồi.
Tôi là một con người của Thượng Đế và là một con người của quỉ sứ. Tôi phải có bổn phận với cả hai. Không có cái gì là vĩnh cửu, không có cái gì là tuyệt đối. Trước mắt tôi là hình ảnh của xác thịt, là thần tam vị của dương vật và hai dịch hoàn. Ở bên phải là thần ngôi cha, ở bên trái chỗ hơi thấp hơn là thần ngôi con, ở giữa và trên hết cả là thần thánh linh. Tôi không bao giờ quên được rằng vị thần tam vị này không phải do con người tạo dựng nên, rằng nó luôn luôn bị cảnh biến dịch. Nhưng bao lâu chúng ta ra khỏi lòng mẹ có đủ tay chân, bao lâu còn có những vì sao lấp lánh trên đầu, ta còn được vui sướng đến điên lên giữa lòng cuộc đời, bao lâu còn có cỏ dưới gót chân ta đi, ta còn quyền có một niềm tin tưởng cháy sáng trong tim, thì bấy lâu thân xác này còn dùng để ca lên những bài ca ngất ngây và huýt sáo êm ấm.
Hôm nay là ngày thứ Ba hoặc thứ Tư gì đó của mùa Xuân, tôi đang ngồi ở Công trường Clichy dưới ánh nắng chan hòa. Hôm nay còn ngồi đây dưới ánh mặt trời, tôi xin nói với bạn là chả cần gì chửi đời là chó má, đời có đúng hay sai, xấu hay tốt cũng thây kệ. Đời là thế, vậy là đủ rồi. Đời là cái đời là, và tôi là cái tôi là. Tôi nói như vậy, nhưng không phải giống như một Phật Thích Ca đang ngồi tĩnh tọa tham thiền, nhưng nói một cách bình thản, không có gì là vui, chả có gì là phải suy nghĩ lao lung, cũng chẳng cần phải có sự yên lặng nội tâm. Cái này ở ngoài cái kia, và cái này ở trong tay tôi, tất cả những cái này, tất cả mọi sự, đó là kết quả của những sức mạnh không cắt nghĩa nổi. Một đống hỗn mang, hồng hoang, trật tự của nó chả ai hiểu nổi. Vượt ra ngoài sự hiểu biết của trần nhân.
Giống như một kẻ lang thang trong lúc xế tà hay vào lúc bình minh, vào những giờ thật lạ lùng, như không bao giờ có ở trần gian, cảm thấy mình là kẻ cô độc, duy nhất ở trần đời, bỗng tôi cảm thấy mình yếu đuối tới độ khi tôi hòa mình với lũ đông tôi thấy mình không còn là một người nữa, nhưng là như hạt bụi, một bãi nước miếng. Tôi thấy mình là kẻ cô độc trong không gian bao la, bị cái hoang vắng lạnh người vây phủ, một thứ vật có hai chân đi giữa những căn nhà chọc trời, phố xá hoang vu, mọi người đã trốn đi hết, tôi, một mình đi bộ hát vang và điều khiển thế giới. Tôi không cần nhìn vào ngực để thấy tâm hồn mình phồng lên tràn ngập với tiếng ca hát vang lừng. Nếu nói rằng tôi vừa rời đám đông vì mọi người đã chết hết cả trừ một mình tôi đi bộ một mình trên đường phố hoang vắng, tự đồng hóa với Thượng Đế. Tôi biết như vậy là nói láo. Cái chết hiển nhiên là vẫn trước mắt tôi. Nhưng cái chết của toàn thể vũ trụ, cái chết cứ luôn tiếp diễn, cái chết từ ngoài vào trong, cái chết đi từ chân lên đầu tôi để tiêu hóa con người tôi, cái chết luôn luôn đi trước tôi nửa bước là một cái gì hiển nhiên quá. Vũ trụ là tấm gương phản chiếu chính con người tôi, vũ trụ đang chết cũng như tôi đang chết, một ngàn năm nữa tôi sẽ sống hơn là tôi sống hiện trong lúc này; và cái vũ trụ này trong đó tôi đang dần chết hiện đang sống mạnh mẽ mặc dầu đã chết từ ngàn năm về trước đây. Khi vạn vật đã sống trọn vẹn cuộc sống của mình thì chả có gì gọi là chết chóc, hối tiếc, cũng chẳng có một thời xuân huyễn hoặc, mỗi lúc ta sống lại mở ra một chân trời bao la rộng rãi hơn, và không có chuyện gì kể là trốn sống, trừ việc sống trọn vẹn kiếp sống.
Những kẻ mơ màng sống chẳng khác gì thân xác họ đã bị trói ghì vào chiếc ghế điện. Tưởng tượng ra một thế giới mới tức là sống cái thế giới đó hằng ngày mỗi tư tưởng, mỗi liếc nhìn, mỗi bước đi, mỗi ước mơ, mỗi hành động tiêu diệt và sáng tạo đều mới nhưng, cái chết vẫn luôn luôn bước trước ta một bước. Phỉ nhổ vào quá khứ chưa đủ, ta phải hành động như thể là quá khứ đã chết, và tương lai không bao giờ thực hiện được. Cứ tưởng tượng mỗi bước tiến lên phía tiến cuối cùng và cùng bước đó, vũ trụ này sẽ chết theo ta luôn. Chúng ta hiện đang sống trên trái đất này như không bao giờ có cùng, quá khứ không bao giờ kết thúc, tương lai không bao giờ bắt đầu, hiện tại không bao giờ chấm dứt. Cái vũ trụ, không bao giờ có này ta đang cầm trong tay, ta nhìn thật kỹ, nhưng thật ra nó chẳng phải của chúng ta. Chúng ta là một cái gì không bao lâu nữa sẽ kết thúc, không bao giờ có một hình dạng để nhận định ra, là tất cả nhưng không phải là toàn thể, cái thành phần có nhỏ hơn cái toàn phần bao nhiêu thì một toán học gia siêu đẳng cũng không thể biết nổi.