← Quay lại trang sách

- 4 -

Một người trong bọn họ là bá tước Carola von Eschenbach. Chàng kiếm được một số tiền mọn ở Hồ ly vọng, rồi được tôn lên như một ngôi vương bá ở đó. Rồi đến cái thời vương bá bị ném trứng thối, thật là buồn cười. Và phải nói cho vương tước đó biết cái mặt trái của triều thiên. Lúc đó đầu ngài như đầu tử thần, mũi quăn quăn hách dịch, bước đi trông dễ giận, eo lưng mặc áo nịt, gầy nhom và hay cưỡng dâm như Martin Luther, khắc khổ, hay quạu, cuồng tín, mắt nhìn trơ tráo, khờ ngu như giai cấp Junker. Trước khi tới Hồ ly vọng, anh ta chỉ là một tên người Đức vô danh, bán lave ở Frankford. Cũng chẳng vương tước gì. Nhưng sau đó, khi anh ta bị đời quật lên, hạ xuống, khi cái răng cửa bị gẫy và bắn sâu vào cuống họng, một chiếc cổ chai vỡ đã rạch nát mặt thành vết sẹo sâu rồi sau đó khi anh ta học được cách phải đeo cà vạt đỏ ra sao, khuơ chiếc can thế nào, tỉa râu mép ngắn lên như Chaplin, thì anh ta trở thành một nhân vật. Rồi anh ta đeo kiếng một mắt lên, tự xưng là Nam tước Carola von Eschenbach. Tất cả chắc hẳn sẽ diễn tiến tốt đẹp, nếu như anh ta không si mê một nữ diễn viên phụ tóc bạch kim bị bệnh hoa liễu đầy mình. Thế là đời anh ta tịch!

Có một hôm, anh ta mặc quần soọc, đi ghệt ngắn lên thang máy, ve áo gài một bông hồng đỏ chói, kiếng một mắt dán vào mắt. Trông anh ta có vẻ vui vẻ, khoái hoạt, anh rút một tấm cạc in chữ rất nhỏ và đẹp ra. Tấm cạc in một chiếc áo nhà binh — theo như anh ta nói thì áo loại đó đã có trong gia phả suốt từ 900 năm nay. Anh ta gọi đó là «bảo vật của gia đình», ông cụ già rất hài lòng thấy trong số khách hàng của mình có cả Nam tước, đặc biệt lại trả tiền mặt. Mỗi lần thấy bá tước ào ào đi vào tiệm thật là vui, hai tay bá tước dắt hai con hầu, mỗi lần mỗi đôi khác nhau. Vui hơn nữa là khi ông ta bảo mấy con hầu đó vào phòng thử giúp ông cởi quần, ông cắt nghĩa đó là tục lệ Âu châu. Dần dà, ông ta làm quen được với tất cả những khách hàng quen, hay dán mũi vào cửa tiệm để nhìn xem có gì lạ không. Ông ta chỉ cho họ cách thức ông hoàng Crown đi đứng làm sao, nằm ngồi thế nào, mỉm cười ra sao. Một hôm ông ta mang theo một cây sáo và thổi bài Loreli. Có lúc ông ta đeo đôi găng bằng da heo còn lởm chởm lông đến tiệm. Mỗi ngày đeo một huy hiệu mới ở ve áo, luôn luôn vui vẻ, khoái hoạt, hay pha trò. Ông ta quả là một kho tiếu lâm, có một vài câu chuyện hoàn toàn mới. Đúng là con người chịu chơi.

Một hôm, gọi riêng tôi ra, ông ta hỏi vay tôi có đúng mười xu thôi để trả tiền gởi xe. Ông ta nói không biết có đủ tiền trả tiền may quần áo ở tiệm không, nhưng hy vọng tìm được một chân ở rạp chiếu bóng nhỏ Đại lộ IX, chuyên chơi piano. Trước khi cho tôi biết vậy, ông ta khóc. Chúng tôi đang ở phòng thử áo, may quá xong rồi! Tôi cho anh mượn chiếc mùi soa để chùi nước mắt. Anh nói, chán quá rồi không muốn đóng kịch mãi nữa. Anh ta sẽ đến thăm chúng tôi hàng ngày vì ở đây thân mật, ấm cúng, ghế ngồi tiện nghi. Anh ta hỏi tôi có thể bao một bữa cơm trưa không, đã ba ngày anh chỉ nhấm nháp càfê và bánh ngọt thôi. Tôi dẫn anh ta tới một tiệm ăn Đức ở Đại lộ III vừa là tiệm bánh, vừa là tiệm ăn. Không khí ở đây làm anh xuống tinh thần mạnh. Anh ta không biết nói chuyện gì ngoài chuyện dĩ vãng ngày xưa, rất xa xưa, tiền chiến. Anh ta nói có lần muốn làm họa sĩ, rồi đột nhiên thế chiến xảy ra. Tôi nghe anh thật chăm chú, khi cơm rồi, tôi đề nghị mời anh bữa chiều nữa và có thể là tôi sẽ giữ anh ta lại với chúng tôi. Anh tỏ vẻ rất cảm động và hứa chắc bảy giờ sẽ tới. Đúng nhé! Tốt lắm!