- 5 -
Trong bữa cơm gia đình, vợ tôi rất khoái nghe chuyện anh ta nói. Tôi tránh không động cập tới chuyện sa sút của anh. Chỉ nói anh ta là một Nam tước, Nam tước von Eschenbach, một người bạn của gia đình Charlie Chaplin. Vợ tôi — một trong những người vợ đầu tiên của tôi — tỏ ra rất hãnh diện được ngồi cạnh một Nam tước. Vì nàng theo đạo Chính thống, nên nàng cũng rất hiểu biết, không khó chịu gì về những câu chuyện liều lĩnh của Nam tước cả. Nàng nói, những chuyện đó hay lắm chứ và có vẻ Tây phương lắm! Cuối cùng, rồi cũng đến lúc phải đưa tất cả ra ánh sáng. Tôi cố gỡ mối chuyện dần dần, khéo léo. Nhưng làm sao nói về thứ bệnh hoa liễu một cách khéo léo bây giờ. Tôi gọi là bệnh hay lây, bệnh kín! Nhưng tiếng «hay lây» làm vợ tôi phát rùng mình. Nàng nhìn vào cái ly chỗ anh ta đã kề môi uống, rồi khẩn khoản nhìn tôi như nói rằng «Tại sao anh mời một người như vậy để ngồi cùng bàn với vợ chồng mình?» Tôi thấy đã đến lúc cần đưa sự thật ra ánh sáng lập tức. «Ông Nam tước đây chỉ ở với vợ chồng mình chốc lát thôi. Ông ta thất nghiệp và cần tìm một chỗ nghĩ lưng tạm.» Thú thật tôi chưa bao giờ thấy thái độ của một người đàn bà nào lại thay đổi dễ sợ đến thế. Nàng nói « Anh bảo em phải làm việc đó sao? Thế còn con thì sao? Anh muốn tất cả chúng ta bị bệnh hoa liễu sao đây? Mình ông ta bị rồi không đủ sao? Anh còn muốn con cũng bị lây nữa. Hích...» Ông Nam tước tỏ ra vô cùng bối rối vì cái tin động trời đó. Ông ta muốn đi ngay lập tức, nhưng tôi bảo cứ bình tâm. Tôi đã quá quen với cái cảnh này rồi. Tuy nhiên, anh ta tức giận lắm, nghẹn ngào, không uống càfê được nữa. Tôi liền thọi vào lưng hắn, đến khi mặt hắn xanh như tầu lá. Đóa hoa hường ở ve áo rớt xuống đĩa ăn, trông cứ như cục máu anh ta vừa khạc ra. Tôi thấy quá xấu hổ vì vợ, tức điên lên thiếu điều bóp cổ nàng. Anh ta tức giận, ho khạc lung tung, tôi dẫn anh ta vào phòng tắm, bảo rửa mặt bằng nước lạnh. Vợ tôi theo hai chúng tôi vào phòng tắm, đứng trân trối nhìn anh ta rửa ráy. Khi anh ta rửa mặt xong, vợ tôi giật cái khăn tay, mở toang cửa sổ phòng tắm, vứt ra ngoài. Cử chỉ đó làm tôi sôi giận và bảo vợ tôi ra ngoài làm việc khác đi. Nhưng anh ta đã vội chen vào giữa chúng tôi «Thưa bà, bà có lòng tốt và Henry, ông bà đừng lo gì về điều đó cả. Tôi có mang theo kim tiêm và thuốc mỡ, tôi có cất trong cái hộp nhỏ dưới gầm chạn đó. Ông bà đừng đuổi tôi đi, tôi chả có chỗ nào nương tựa cả. Tôi là kẻ tuyệt vọng, cô độc. Trước kia anh chị tốt với tôi, sao giờ nỡ nhẫn tâm với tôi như vậy. Tôi có lỗi vì bị bệnh hoa liễu sao? Ai cũng có thể mắc bệnh được cả. Người mà. Anh chị sẽ biết là tôi sẽ trả ơn anh chị bội hậu. Tôi sẽ làm bất cứ công việc gì cho anh chị, như rửa chén, nấu ăn nữa...» Anh ta cứ lải nhải mãi như vậy, không lúc nào ngừng, sợ vợ tôi nói «không được». Sau khi nói một hồi, hứa hẹn đủ thứ, sau khi xin lỗi túi bụi, rồi quì xuống định hôn tay vợ tôi, vợ tôi giật tay lại. Anh ta ngồi bệt xuống bên nhà cầu, trong bộ đò soọc, chân đi ghệt, khóc như một đứa con nít. Thật là ghê gớm. Căn nhà tắm sạch sẽ, lát gạch men, cửa mở toang, ánh sáng ùa vào, rồi cái ông Nam tước chết tiệt này, trong bộ đồ soọc, đi ghệt ngắn, xương sống trệt đầy thuốc thủy ngân, tiếng khóc bật ra như tiếng xe lửa xuống dốc. Lúc đó, tôi chẳng biết phải làm gì. Cái cảnh một thằng đàn ông như vậy, ngồi khóc rưng rức trong nhà cầu, thật chịu không nổi. Lâu sau, tôi cũng quen đi. Lúc này, tôi mới thấy cái cảnh Rabelais phải thăm 250 con bệnh trong nhà thương một ngày nó thế nào.
Tuy nhiên, còn cái vấn đề khóc... Ít lâu nữa đứa con nhỏ của tôi cũng sẽ khóc chào đời, chắc chắn như vậy. Làm sao để dàn xếp đây. Tôi hy vọng có một phép lạ xảy ra và hy vọng dạ dầy vợ tôi cũng nổ tung ra như một trái dưa bở. Nàng vẫn chưa dằn được sầu khổ, nàng nằm dài trên giường, ôm cái bầu đã 6, 7 tháng, òa lên khóc nữa... Có thể lúc đó, tôi sẽ nằm ở một phòng khác, cầm một cuốn sách dầy cộm, đọc ngấu nghiến. Tiếng khóc của vợ tôi làm tôi lại sực nhớ ra tiếng khóc của Nam tước Carola, mặc quần soọc, đi ghệt ngắn, mép lật áo có viền, ve áo có gắn đóa hồng sậm màu. Tiếng khóc nức nở của vợ tôi như một giọng nhạc. Nàng đang khóc một chút để gây cảm tình và chả có một chút gì gọi là tình cảm trong nhà này cả, chỉ thấy sầu khổ thêm. Nàng càng khóc, tôi càng trở thành điếc. Tôi như lắng nghe thấy tiếng sóng vỗ ầm ầm, oàm oặp vào bờ biển vào một đêm hè tiếng muỗi vo ve làm chìm mất tiếng biển gầm. Tuy nhiên, sau khi vươn mình khỏi cảnh sụp đổ này, và khi xóm giềng không chịu nổi cảnh đó nữa, bỗng tôi nghe tiếng gõ cửa. Người mẹ già của nàng bước chậm chậm vào phòng ngủ của tôi, rươm rướm nước mắt, cụ nói tôi vào an ủi con gái cụ một chút. Tôi nói «Để mặc kệ nhà con. Khóc mãi rồi cũng thôi.» Nghe thấy vậy, vợ tôi thôi khóc một chút, nhưng nhảy chồm khỏi giường, tức giận, tóc nàng xõa xuống rối bù, mắt sưng mọng lên, nàng lại nấc lên và khóc rồi đấm thùm thụp vào người tôi, rủa xả tôi tới độ tôi nổi sùng lên và bật cười. Thấy vậy, nàng lại nhảy choi choi lên, như một người điên, khi đấm đã mỏi, tay đã buốt nàng hét lên «Đồ quỉ, đồ yêu!» rồi nàng bỏ đi như một con chó thấm mệt. Sau đó, tôi cố vỗ về nàng, nói nhẹ nhàng với nàng, xốc nàng vào giường, rồi ném cho nàng cái gối ôm. Thật rõ cơ khổ. Tôi chưa thấy người đàn bà nào hay rên rĩ và nói liên lẹo như vợ tôi cả. Nàng thường nói «Anh làm cho em tất cả những gì anh muốn đi!» Tôi muốn dựng nàng dậy, lôi nàng qua thăm vị mục sư, làm bất cứ cái gì rồi nàng lại vui lên như đứa trẻ hết giận hờn. Đó cũng tại cái bệnh trầm uất. Chúa phạt tôi, nếu tôi nói sai một lời. Vị mục sư thường hay nói vậy. (Chúa mà tôi thường nói trên đây, theo thánh Augustin là Đấng vô biên, ở khắp mọi nơi.)
Tuy nhiên, luôn luôn vui vẻ và tươi sáng! Nếu đó là thời tiền chiến, nếu hàn thử biểu xuống không độ, hoặc dưới không độ, nếu là ngày lễ Tạ ơn hoặc ngày Tết, hoặc Sinh nhật, hay bất cứ ngày lễ lạc nào, chúng tôi dễ dàng làm hòa với nhau, rồi lại tay trong tay đi phố cả gia đình, chúng tôi lại cùng với bao kẻ ngông cuồng khác ào ào xuống phố. Gia đình lại vui lên. Có một điều lạ là dù có bao nhiêu tai họa đe dọa gia đình, tôi vẫn vui như Tết. Vui bất kể gì cả, dù đã có nào là bệnh ung thư, sưng phù, thủy thũng, cứng gan, điên, ăn cắp vặt, ăn mày, kẻ gian, loạn luân, tê liệt, sán xơ mít, đẻ non, sinh ba, cuồng trí, nghiện rượu, gặp bao nhiêu người tù, thủy thủ, thợ may, thợ sửa đồng hò, bệnh hồng chẩn, ho gà, sưng màng óc, tai nghễnh ngẩng, thổ tả, nói lắp, những kẻ mơ màng, chủ bar... và cuối cùng là cả cậu George và dì Melia, nhà xác và nhà thương điên. Một chàng thủy thủ vui vẻ ngồi cạnh cái bàn đầy đồ ăn ngon, nào củ cải đỏ, rau dền xanh, thịt heo quay, gà rô-ti, bơ, nước sốt Đức và nước tương màu đen vị chua, rau cần tây, ngỗng nhồi, đậu Hòa Lan, cà rốt, bông cải màu trắng tuyệt đẹp, nước sốt táo, trái vải miền Smyrna, chuối to, bánh quế, bánh ngọt hiệu Streussel Küchen, kẹo sô-cô-la nhân hồ đào, đủ loại trái bồ đào, trái bơ, trái hạnh nhân, bồ đào hickory, lave nhẹ của Đức, bia hộp, rượu vang trắng và đỏ, sâm-banh, rượu porto, rượu mạnh, bơ nóng, phó mát, rượu nho bản xứ, rượu dâu, rượu lê, bánh tráng bằng gạo và bột sắn, hạt dẻ nướng, quít, ô-liu, chanh muối, trứng cá cavia màu đen và đỏ, cá thu nướng khói, bánh ngọt làm bằng tròng trắng và đường, sô-cô-la thanh và viên, bánh bông lan có hạt hạnh nhân, trứng thắng đường và kem, xì gà đen dài ngắn đủ cỡ, xì gà Bull Durham và Long Tom và meerschaums, lõi bắp và tăm xỉa răng, không có tăm xỉa răng làm bựa răng qua một đêm thối lên, khăn bàn dài cả thước, có thêu bốn góc, ngọn lửa than hồng và những chiếc cửa sổ thoát hơi, mọi sự ở đời đều có trước mặt bạn trừ mỗi chén nước rửa tay (sau khi ăn tráng miệng) là thiếu.
Thời tiết lạnh tới không độ và tên khờ George, một tay bị ngựa cắn, mặc những đồ thừa của người đã chết. Thời tiết zéro độ và dì Melia tìm những con chim dì cất trong mũ. Zéro, zéro và dây kéo tầu rít lên ở bến tầu, đá băng nổi lềnh bềnh, những cuộn khói quyện từ mũi tầu. Gió thổi 70 dậm giờ, hàng tấn hàng tấn tuyết rơi lả tả, mỗi bông tuyết như mang theo một con dao găm, những dòng tuyết nhỏ bám vào cửa kính như những đường xoắn ốc ngoài cửa sổ, gió gào lên, cửa kính rung động. Cậu Henry đang hát «Hoan hô đệ ngũ cộng hòa Đức.» Áo gi-lê của cậu phanh ra, dây đeo quần bỏ ra, thái dương hằn lên những đường gân xanh. Hoan hô đệ ngũ cộng hòa Đức.