← Quay lại trang sách

- 7 -

Vào những buổi sáng, chúng tôi thường đi dạo để tinh thần sảng khoái qua những con đường gồ ghề phố Delancey tới phố Waldorf, nơi cụ già thường chiều chiều đi dạo với Julian Legree. Mỗi sáng tôi viết một cuốn sách mới trong lúc đi dạo từ phố Delancey tới Waldorf. Mỗi lề cuốn sách có ghi chữ: Đảo của loạn luân. Mỗi sáng dậy là tôi lại phải lau dọn những gì tôi thổ mửa ra đêm trước và sửa mép áo lại. Tới tiệm thợ may, vẻ mặt rầu rĩ, có lẽ để nhìn ra Tom Jordan đang ngồi ở phòng đợi chờ tẩy sạch những vết bẩn ở quần. Sau khi đã viết ba trăm sáu mươi chín trang về tính cách vô ích của việc chào nhau buổi sáng, tôi không còn có được sự lễ độ thông thường nữa. Sáng nay tôi vừa viết hết cuốn sách thứ hai mươi ba về gia phả, viết như cua bò, đến cái phết cũng trông không rõ bởi vì viết bằng bút hết mực. Tôi, con của bác phó may, sắp sửa nói «chào buổi sáng» với ông Mumford, người chuyên bán hàng len, dạ, đang mặc đồ lót đứng trước tấm gương. Mọi chi nhánh và lá cành của gia đình đang đu đưa trước mặt tôi: nổi bật lên làn sương mù màu đen của Elbe tôi thấy cái đảo loạn luân này đang nổi bồng bềnh. Trên đảo có những cây sơn chi kỳ lạ, tôi thường lấy hoa cài lên ve áo mỗi ngày. Tôi sắp sửa nói «chào buổi sáng» với Tom Jones. Câu nói đang run rẩy ở lưỡi tôi. Tôi thấy một cây to vươn mình ra khỏi đám sương mù đen, trong hốc cây có một người đàn bà ở Hambourg ngồi đó, nàng ngồi gọn khít vào ghế. Qua khe cửa tôi thấy bộ mặt xanh lè màu lá cây của nàng, đôi môi nàng mím chặt lại, lỗ mũi phập phồng. George khờ đang đi hết cửa này sang cửa khác cầm trong tay những tấm bưu thiếp, cánh tay hắn bị ngựa cắn lìa ra, con ngựa cũng đã chết và chôn rồi, tay áo rỗng bay dật dờ trong gió. Khi người ta đã giựt những tờ lịch ra trừ 6 tờ cuối cùng, George khờ bấm chuông, ria mép hắn còn tuyết đọng, hắn đứng ở bậc cửa, mũ cầm tay và «sủa lớn» «Chúc một lễ Giáng sinh vui vẻ». Đây là một cái cây kỳ quặc nhất mọc ra trong gia phả họ Elbe, vì cành nào cũng khô héo, lá màu trắng xóa. Đây là cái cây mỗi năm đều đều «sủa ra» câu «Chúc một lễ Giáng sinh vui vẻ». Mặc các tai ương và trăm ngàn thứ khổ ải: ung thư, thủy thũng, ăn trộm, gian xảo, tê liệt, sán xơ mít, nghễnh ngãng, thổ tả, đau màng óc, kinh phong, đau gan... Tôi sắp sửa nói «Chào buổi sáng». Tiếng đó run rẩy trên môi tôi. 23 cuốn sách viết về đời sống hằng ngày tả chân đến độ vô liêm sĩ, bìa sách được bọc bằng da dê tốt nhất, mỗi cuốn có một cái khóa và chìa khóa riêng. Đôi mắt vấy máu của Tom Jordan bệt ra trên mặt gương, đôi mắt rùng rùng như con ngựa chau mình lại đuổi ruồi. Anh chàng luôn luôn cởi quần hoặc mặc quần vào, luôn luôn gài nút cửa quần hoặc mở ra. Luôn luôn là có những vết dơ cần tẩy sạch, luôn luôn có vết mỡ trên quần áo. Dì Melia đang ngồi ở phòng lạnh, dưới bóng cây gia đình. Người mẹ đang tẩy sạch vết mửa tuần trước chưa tẩy hết. Ông cụ già đang liếc lưỡi dao cạo trên tấm da, nhưng người Do Thái đang từ chân cầu đi lên, ngày cứ ngắn lại, những chiếc dây kéo tàu đang hú ù ù và rọt rẹt như ếch nghiến răng, bến tàu ướt nhẹp những bánh kem. Mỗi trang sách viết trên không trông như mắt càng dầy lên, giọng văn của những trang đó làm cho bầu không khí thêm phần u uất man rợ. Mưa đêm như tiếng gầm của sấm sét, dìu tôi lên lối đi của khách bộ hành trên một xa lộ không biết là dẫn về đâu. Vang bên tai luôn luôn có tiếng nói thật trong sáng như lưỡi gươm trần bảo ta cứ phải tiến thẳng không được quay gót trở về, hoặc đứng yên một chỗ.

Từ dưới chân cầu, bọn người hạ tiện mỗi lúc mỗi đi lên thật đồng, giống như một căn bệnh sài cứ càng ngày càng làm lan rộng nỗi đau đớn, hay lây từ sông này tới sông khác suốt dọc dẫy phố XIV. Có dòng mủ cứ luân lưu một cách khó thấy suốt từ đại dương này tới đại dương khác, chia đôi hẳn thế giới tốt đẹp ra khỏi thế giới hạ tiện, thế giới của bọn Do Thái mà tôi sắp biết qua kinh nghiệm sống. Giữa dòng mủ này, từ con sông này tới con sông kia, có một bình hoa cắm đầy hoa sơn chi. Xa hơn nữa vào đệ tứ hoặc đệ tam nguyên đại, ở cái thời mà trâu bò không ăn cỏ là một thế giới đầy xảo quyệt, trừu tượng, dựng đứng lên như những vách đá, và giữa lòng thế giới đó có chôn vùi một ngọn lửa cách mạng. Mỗi sáng khi đi qua làn ranh giới, ve áo cài một đóa sơn chi và một cuốn sách mới viết trong không khí, mỗi sáng tôi phải nhảy qua một cái hồ đầy những chất thổ mửa để tới cái đảo loạn luân đẹp đẽ, mỗi ngày bức vách tường lại cao ngất lên, những nét cửa sổ chạy dài ra như chiếc đường ray, nét lóng lánh của chúng còn sáng hơn những ánh phát ra từ những sọ sói tóc. Mỗi sáng cái hố càng mở hoác miệng ra một cách ghê sợ hơn.

Có lẽ, tôi sắp nói «chào buổi sáng» với Tom, nhưng lời đó cứ thập thò trên môi. Cái buổi sáng mà tôi cứ bắt hụt hoài là buổi sáng gì vậy? Buổi sáng đó có tốt không, buổi sáng của mọi buổi sáng? Tôi đang mất khả năng phân biệt buổi sáng này ra khỏi buổi sáng kia. Trong cuốn sổ cái là thế giới của loài trâu đã biến mất thật nhanh; bên cạnh là những người thợ đang tán đinh hàn cái sườn của tòa nhà chọc trời. Những người Đông phương xảo quyệt đi đôi giầy nặng như chì, đang phác họa bản đồ thế giới ngày mai, một thế giới hoàn toàn làm bằng những sản phẩm, hàng hóa, hết thùng nọ chồng lên thùng kia y như nhà máy làm hộp giấy. Hôm nay ta còn dư thời giờ để dự đám táng của một cái chết mới nhất. Ngày mai có lẽ không đủ thời giờ vì kẻ chết sẽ bị xếp vào một xó và buồn rầu thay cho người nào nhỏ nước mắt xót thương. Đây là một buổi sáng thích hợp cho một cuộc cách mạng, nếu ta có súng máy thay cho pháo. Sáng nay sẽ là một buổi sáng rực rỡ huy hoàng nếu sáng qua không phải là một cuộc thất bại rõ rệt. Quá khứ qua mau, cái hố sâu càng rộng mở. Ngày mai sẽ qua đi nữa, cũng như hôm qua vì vó ngựa ngày qua đã chạy mất hút, và con người có đôi giầy nặng như chì làm sao đuổi kịp. Giữa cái tốt đẹp của buổi sớm tinh sương, có một dòng mủ xông ra mùi thối lợm của ngày hôm qua và làm độc cho ngày mai. Đây là một buổi sớm vô cùng hỗn độn, vì nó là chiếc dù rách thì chỉ một làn gió nhẹ cũng đủ làm nó rách bươm.

Cả đời tôi là một buổi sáng không tàn kéo dài ra mãi. Mỗi ngày tôi viết bằng ngòi viết kêu rột roạt. Mỗi ngày một thế giới mới lại được tạo dựng hoàn toàn biệt lập và hoàn bị, tôi đang ở giữa những chòm sao, giống như một vị thần rất khờ ngu về mình, chả biết làm gì ngoài việc ca hát và tạo ra những thế giới mới. Trong khi đó, những thế giới cũ tan vụn ra. Thế giới cũ giống như căn phòng sửa quần áo trong đó quần áo được ủi thật thẳng, các vết bẩn được tẩy sạch hết và khuy cúc được đơm lại đàng hoàng. Luôn luôn có sự đổi mới, sửa chữa hoài, một tay áo cần cắt ngắn đi, cho cổ áo thấp xuống, cúc áo đơm xít lại, thay một đáy quần mới. Nhưng không bao giờ có một bộ áo hoàn toàn mới mẻ, không bao giờ có sự sáng tạo. Có một buổi sáng của vũ trụ bắt đầu từ lúc ngày mới bừng lên, và phòng thử quần áo luôn đầy rẫy những đồ phải sửa chữa lại. Đời tôi cứ trôi mãi như vậy chả khác gì người thợ may làm việc về đêm. Suốt đêm tôi nghe tiếng bàn ủi xèo xèo trên vải ướt. Cái vỏ cứng của thế giới cũ bửa ra trên sàn nhà và mùi nó chua như dấm.

Những người ba tôi mến thương là những người yếu đuối và đáng yêu. Mỗi người trong bọn họ đi ra ngoài là y như những vì sao lấp lánh. Họ ra đi một cách yên tĩnh và thê thảm. Họ chẳng còn để lại vết tích gì ngoài những kỷ niệm của cái thời bừng sáng và vinh quang của họ. Giờ đây họ chảy ùa vào trong tôi như là con sông lớn đầy nhóc những vì sao rụng. Họ làm thành một dòng sông đen đang chảy xiết làm cho trục thế giới của tôi luôn ở tình trạng diễn biến. Vụt thoát ra ngoài cái vùng đen tối, vô biên, trải rộng ra của ban đêm là buổi sáng vô biên trong buổi tạo dựng. Mỗi buổi sáng con sông tràn bờ đê lại những tay áo, ve áo và tất cả cái vỏ của thế giới đã chết nằm rải rác dọc theo bờ biển, nơi tôi đang đứng nhìn đại dương của một buổi sáng đầu tiên sáng tạo.

Đứng trên bãi biển tôi thấy George khờ đang đứng dựa vào tường nhà tiệm lãnh tống táng. Anh chàng đang đội một mũ lưỡi trai kỳ cục, cổ cồn và không có cà vạt, anh ta ngồi trên chiếc ghế dài cạnh chiếc quan tài, không buồn cũng không vui. Anh chàng ngồi đó êm thắm như một thiên thần bước ra từ một bức họa của người Do Thái. Người trong quan tài, xác còn tươi, mặc một bộ quần áo nhuộm muối và hồ tiêu cũ của George. Hắn có một cổ cồn, đeo cà vạt và đồng hồ đeo tay bỏ trong túi áo gi-lê. George bê người đó ra, cởi áo ra và khi George thay quần áo người đó rồi thì đặt nằm trên nước đá. Không muốn lấy cái đồng hồ, anh ta để đồng hồ trên nước đá cạnh xác chết. Người đàn ông nằm trên nước đá có chiếc cổ cồn quấn quanh cổ. Trời sắp tối, khi George bước ra khỏi tiệm lãnh tống táng. Giờ anh ta đeo một cà vạt, mặc một bộ đồ mới. Anh ta đang dừng lại một tiệm tạp hóa mua một cuốn sách vui cười anh ta thấy đặt ở cửa tiệm. Đó là truyện của Joe Miller. Dì Melia cũng đứng ở đó chọn những các chúc mừng kiểu Valentine cho bà con. Dì mặc bộ đồng phục xám, tóc rẽ ngôi ở giữa. Dì viết rằng dì rất sung sướng với những người bạn mới quen, đồ ăn thì ngon. Dì muốn họ nhớ mãi món Fastnacht, họ có thể gửi món đó bằng đường bưu điện không? Dì nói rằng có một vài cây dã yên thảo rất đẹp đang mọc quanh cái thùng rác để ngoài nhà bếp lớn. Dì nói là Chủ nhật rồi dì đi dạo thật xa, dì gặp vô số nai, thỏ và đà điểu. Dì nói bây giờ dì đã khá lắm, nhưng viết chữ cứ xấu hoài. Ai nấy đều tử tế với dì, dì có nhiều việc phải làm. Dì muốn có món bánh Mardi Gras càng sớm càng tốt, gởi bằng đường hàng không càng hay hơn. Dì có hỏi ông Giám đốc làm cho dì ít bánh đó và mừng ngày sinh nhật của dì nhưng họ quên mất. Dì bảo gởi cho dì ít tờ báo, tạp chí vì dì muốn xem những mục rao vặt quảng cáo. Có một lần dì thấy một cái mũ ở tiệm Blomming Dale nhưng dì nghĩ là nó đã lỗi thời rồi. Họ có thể gởi cái mũ đó cùng với bánh Mardi Gras cho dì được không? Dì gởi lời cám ơn tất cả vì đã gởi các chúc mừng lễ Giáng sinh vừa qua. Dì vẫn còn nhớ những tấm các đó nhất là những tấm các có vì sao bằng bạc. Ai cũng cho rẳng các đó đẹp nhất. Dì nói dì sắp sửa đi ngủ và dì sẽ cầu nguyện cho tất cả những ai đối xử tốt với dì. Chiều trời đã nhọ mặt người, luôn vào cũng giờ đó, tôi đứng nhìn mặt gương biển cả. Trời xuống tuyết, không nhanh cũng không chậm, nhưng có một xác chết nằm trên nước đá, áo sơ-mi cổ cồn và nếu chỉ mình hắn cương dương vật được thì kể là một điều lạ... lạ quá! Trong hành lang tối đen dưới nhà, Tom Jordan đang đợi cụ già đi xuống. Anh ta mang theo hai cô bạn, một cô đang nịt chặt đôi vở lại. Tom đang giúp cô ta một tay. Cũng vào giờ đó, lúc chạng vạng, bà Lawson đi vào nghĩa trang để nhìn một lần nữa ngôi mộ đứa con trai thân yêu. Bà nói — Jack, cậu con trai yêu quí của bà mới ba mươi hai tuổi đầu đã chết trong lần giao banh đầu tiên bảy năm trước đây. Họ nói con bà bị bệnh tim, nhưng sự thật vì cậu đã ăn nằm với những cô gái điếm đầy bệnh hoa liễu, đến nỗi xác cậu đầy mủ hút ra thối um như phẩn. Bà Lawson xem như không muốn nhớ những chuyện đó. Bà chỉ biết lo sao mộ con bà luôn sáng bóng như gương, bà luôn mang sẵn một tấm da linh nai trong xắc để lau mộ con bà cho bóng, mỗi chiều.