← Quay lại trang sách

- 9 -

Dẫu sao, cứ vào buổi chiều, khi tôi đi lên đi xuống đường hầm thì cái khốn nạn đó cứ cứng đơ ra đến độ rách cả quần. Đám đông càng ngày càng đông. Bầu trời rực sáng với những ánh đèn quảng cáo, món nào cũng bảo đảm tuyệt hảo tăng sức khỏe, bền bỉ, ngon tuyệt, êm như ru, chống mưa, không thể bị phá hủy, mới nhất, không thể thiếu trong cuộc sống... nào ai có biết đâu rằng đời sống đã không thể chịu đựng được từ lâu vì làm gì có đời sống cơ chứ! Đúng giờ đó, cụ Henschke rời tiệm may tới câu lạc bộ chơi bài bên kia phố. Đó là một việc vặt cụ phải làm tới hai giờ sáng. Việc chả nhiều nhặn gì — chỉ việc cầm mũ, áo của những khách trưởng giả treo lên mắc, bưng đồ uống, đổ những gạt tàn thuốc lá, cho quẹt vào hộp quẹt cho đầy. Thật ra đó là một công việc vui vui vì phải để ý từng tí một. Khoảng nửa đêm, thì sửa soạn đồ uống cho những người trưởng giả đó, nếu họ muốn. Dĩ nhiên cũng phải dọn ống nhổ và chậu rửa mặt. Nhưng thường những người trưởng giả không xài những thứ đó. Luôn luôn phải tiếp thêm bơ và bánh ngọt để nhấp nháp, đôi khi cả những chén hạt mít rượu Porto. Thỉnh thoảng có cả thịt nguội. Dân trưởng giả chính hiệu thường hút những loại xì gà tốt nhất. Và thật ra đó là một công việc hết sức thích thú.

Tới giờ cơm chiều. Đa số các tiệm may đều đóng cửa. Có một số rất ít chủ tiệm không biết làm gì trong giờ rảnh rỗi đành giở lại những chồng sổ cũ để qua thời giờ trong khi chờ khách hàng tới lấy đồ. Họ cắp tay sau lưng đi đi lại lại. Mọi người đều đã đi cả, ngoại trừ ông chủ tiệm, có khi ông thợ cắt và thợ sửa quần áo. Ông chủ miên man nghĩ không biết là ngân phiếu có đến đúng lúc không để trả tiền phố ông lẩm nhẩm «tại sao... ông đó... ừ phải... tại sao lại chắc rằng... vâng... tôi nghĩ rằng có lẽ cao hơn một chút thì hay hơn... vâng, vâng, bác nói đúng đấy ạ... Vâng, chúng tôi sẽ sửa bộ đồ đó lại trong vài hôm nữa là xong... vâng vâng... Ông Ất ông Giáp... gì đó vâng vâng vâng... đồ may xong rồi chưa ủi, còn treo trên mắc. Chốt cửa đã sẵn sàng để trên bàn. Chỉ còn đèn ở phòng thử là còn cháy. Bỗng tiếng chuông điện thoại reo lên. Ông cụ già bên kia đầu dây nói, cụ không thể đợi lâu được nữa phải đưa ngay bộ áo dạ cho cụ, bộ có nút mới cụ mới lựa chọn tuần rồi. Người thợ cắt chụp mũ lên đầu khoác áo mantô (manteau) vào rồi chạy bay xuống cầu thang để dự một cuộc họp của người Do Thái ở Bronx. Còn lại một mình ông chủ tiệm may để đóng cửa tiệm và tắt tất cả những ngọn đèn nào quên chưa tắt. Rồi chính ông chủ tiệm cũng đích thân mang bộ đồ ông cụ mới gọi điện thoại mang tới, ông không nệ hà gì vì chính ông cũng muốn dàn xếp vài công chuyện vì không ai khôn khéo hơn. Không ai trông có vẻ giầu sang bằng ông chủ tiệm đi giao đồ cho ông Ất Giáp gì đó... Vui vẻ hợp thời trang, đôi giầy bóng láng, tóc gội sạch, găng tay thơm phức, râu mép tỉa khéo... Chỉ khi bắt đầu ngồi ăn cơm chiều ông mới thấy lo lo, không biết ngày mai có hàng làm không, ngân phiếu có đến không. Có khi tới 10 giờ ông đã đi ngủ vì thấy buồn ngủ, nhưng khi đặt lưng xuống lại thao thức không ngủ được.

Đi bộ trên cầu Brooklyn... Phải chăng thế giới này, cái cảnh kẻ đi người lại chen chúc, những bin-đinh sáng trưng ánh điện, đàn ông, đàn bà đi lướt qua? Tôi nhìn đôi môi họ mấp máy, đôi môi những người đàn ông, đàn bà đi qua tôi. Họ đang nói gì vậy — có một số người nói hăng hái lắm. Tôi đại ghét những người có vẻ mặt nghiêm nghị quá, trong khi tôi là thằng tồi hơn ai hết. Một đời sống. Sống có một đời: nhưng có hàng triệu hàng triệu lối sống. Tôi chả có gì để nói về đời tư tôi cả, chả có gì cả. Có lẽ tôi đã không có lòng can đảm. Tôi phải trở lại gặp Jane để dẫn cô đi phố với tôi và đến gặp ông Thorndike để đái vào mặt ông ta. Có lẽ tôi phải đứng ở Công viên Times đái một phát. Có lẽ tôi phải cầm khẩu súng sáu bắn tưới vào lũ đông, ông già đang hướng dẫn cuộc đời cho Reilles, người bạn nối khố của cụ. Tôi đi đi lại lại, mặt xanh mét vì giận dữ và ganh ghét. Khi tôi trở lại thì thấy bà già đang khóc như muốn vỡ tim. Tôi ghét cái lối khóc như vậy lắm. Kẻ thì trộm cắp của tôi, kẻ thì phạt tôi. Làm sao tôi có thể đi sâu vào tâm hồn bà, an ủi bà và điều tôi muốn hơn cả là làm sao bóp nát tim bà? Đi dọc theo đường Bowery... và một bãi cỏ xanh đẹp vào lúc đó. Ma cô, đầu bếp, bọn ăn mày, ăn xin, chiêu đãi viên, kẻ cướp dân Tẫu, bọn lưu dân Ý, bọn bợm nhậu. Ai nấy đều bù đầu đi tìm xem có cái gì cho vào lỗ miệng và một chỗ ngả lưng. Đi nữa, đi mãi và đi mãi. Năm nay tôi hai mốt tuổi, nước da trắng, sinh trưởng ở Nữu Ước, người to lớn, thông minh có thừa, giống tốt, không có tật xấu v.v... chả phạm một tội hình nào cả, trừ một tội bị sinh ra ở đây thôi.

Xưa kia, mọi người trong gia đình tôi đều phải làm việc bằng chân tay cả. Tôi là thằng con hoang, mồm miệng đỡ chân tay giỏi, tâm hồn bẩn vô cùng. Một cái rác bồng bềnh trong lũ đông; cả đời chỉ thấy may với vá, may đi may lại, may tái may hồi. Tối đến thì bật đèn lên, tắt đèn đi, tắt tắt, mở mở. Đôi khi đó là một sợi cao su, đôi khi là một miếng kẹo cao su. Có cái buồn là chẳng ai biết nỗi buồn hằn lên mặt tôi. Ngày ngày, người ta cứ lướt lướt qua nhau, mà chẳng ai nhận ra nhau cả. Đèn rung rinh nhẹ như những chiếc kim điện. Nguyên tử đang lao đầu vào ánh sáng và sức nóng. Một đám cháy đang tiếp tục bên dưới thủy tinh và không có gì bị cháy cả. Người ta vật gẫy xương mình, làm vỡ óc ra để sáng chế một cái máy mà đứa bé nít cũng sử dụng được. Nếu tôi thấy một đứa trẻ nào làm vỡ chiếc máy này, tôi sẽ đưa thêm cho nó cái búa và bảo đập nát đi! Đập nát đi!

Đập nát đi! Đập nát đi! Đó là điều tôi muốn nói. Ông già đang đi dạo trên chiếc xe ngựa bốn bánh. Một người bạn nối khố ngồi bên cụ và một lít quít-ky đeo ở lưng quần. Ngón tay tôi đang vẫy ra hiệu. 20 tuổi đầu rồi mà mỗi ngày mỗi tồi tệ đi, thật nghẹn ngào. Trong 20 năm trường chả thấy ai là kẻ chờ đợi tôi, chào đón tôi một cách đầm ấm. Những bạn thân giờ đây mỗi đứa mỗi phương xẻ nghé tan đàn. Quanh tôi chỉ thấy cảnh sắt đá, vô tình vây phủ, vỉa hè ngày càng trở nên cứng rắn hơn. Thế giới mới ăn gặm tồi tàn tạ. Chả bao lâu nữa, tôi cũng chẳng còn được cái tên nữa.

Có một lần tôi nghĩ rằng ở tiệm may này có dành riêng cho tôi những điều lạ lùng. Dẫu tôi không xây được lâu đài trong không, một lâu đài thuần bằng nước tiều trắng cao ngất vượt mọi bin-đinh cao nhất, giữa những vật khả giác và bất khả giác, như đặt tôi vào một thế giới của âm thanh mọi vật cứ theo nhau sụp đổ, nhưng trong thế giới đó, tôi có thể tránh được mọi phiền nhiễu, cao cả, linh thiêng, hết sức linh thiêng. Chính tôi, thằng con của bác phó may đã nghĩ tưởng ra chuyện đó. Tôi chỉ là một cái hạt của một cây vĩ đại vô cùng. Trong cái vỏ mong manh của cái hạt đó, tôi nghe được cả những rung chuyển tế vi nhất của Trái đất. Tôi là một phần của thân cây vĩ đại, một phần của quá khứ, với đỉnh cao và đường nét, và kiêu kỳ, kiêu căng. Khi rớt bịch xuống đất, và khi đã bị vùi nông một nấm, tôi nhớ ra tôi là ai, ở đâu mà đến. Giờ tôi đã bị lạc hướng, lạc mất rồi, bạn có nghe thấy không. Tôi đang gào thét, tru tréo. Bạn có nghe thấy không? Hãy tắt đèn đi. Đập nát những bóng điện đi! Giờ đây nghe tôi không? Bạn nói: anh nói to lên! To lên! Lạy Chúa Ki-tô, Chúa nghe tôi không. Ngài có đùa giỡn với tôi không đó! Ngài có câm, điếc, mù hay không? Tôi có phải lộn đầu xuống đất không?

Được! Tôi đang sửa soạn nhảy múa cho bạn coi. Anh em ơi, tôi là con quay, hãy để nó quay mãi, quay tít, không bao giờ ngừng. Hãy thí cho nó một đôi quần nỉ đặc biệt khi bạn đang dự cuộc vui. Và đừng quên nhé, chớ để tôi mặc quần trái. Bạn có nghe thấy tôi nói không? Nào chúng ta đi! Luôn luôn vui vẻ và tươi sáng!