← Quay lại trang sách

- 7 -

Đêm nào cũng thế, khi tôi đi về phía quán cafê La Fourche, tôi như phải so gươm với một ai đó. Đêm nào tôi cũng như bị lột da và búa rìu quật tới tấp. Tôi về nhà, rũ lũ chấy rận khỏi quần áo và rửa máu bê bết trên người. Tôi đánh một giấc, ngáy thật to. Đó là cái mặt phải của tôi. Giữ cho thân thể êm ả và tâm hồn trong trắng.

Căn nhà tôi đang ở rụm xuống. Buồng nào cũng trống hoác. Nhà tôi chẳng khác nào một người xương giơ ra hết vì bị lột da. Giấy dán tường rách tả tơi, giường không mền, bồn rửa mặt không có. Mỗi đêm trước khi vào nhà, tôi đứng lặng nhìn cảnh đó. Cảnh ghê tởm này ám ảnh tôi. Cuối cùng tại sao tôi không ghê tởm một chút thôi nhỉ? Mỗi người là một viện bảo tàng chứa những gì ghê tởm của nòi giống mình. Mỗi người thêm vào khu triển lãm mới cho viện bảo tàng. Cũng thế, mỗi đêm đứng trước căn nhà dột nát, tôi cố gắng để nắm được ý nghĩa của nó. Cảnh bên trong căn nhà càng phơi bày ra tôi lại càng thương căn nhà tôi ở. Tôi thương nó, dù có chiếc bồn tiểu cũ nằm dưới gậm giường, chả ai dùng tới nữa.

Ở Hoa Kỳ, tôi đã sống trong nhiều căn nhà, nhưng nhớ là chưa thấy căn nào như vậy. Tôi phải nhớ rõ những gì đã xảy ra cho tôi và tôi đi phố cùng với những cái đó. Có lần tôi thuê chiếc xe ngựa cũ đi xuống Đại lộ IV. Lúc ấy vào xế trưa mùa thu, tôi đang đi qua những phố phường trong tỉnh tôi ở. Đàn ông đàn bà đang đi dạo trên lề đường: những con vật kỳ lạ, nửa người nửa ngợm. Đi đi lại lại trên đường phố, nửa điên nửa dại, răng thì trắng hếu, mắt láo liên. Đàn bà mặc quần áo thật đẹp, bà nào, cô ấy cười thật tươi. Đàn ông thỉnh thoảng nhếch mép cười, cứ như thế họ đang đi vào hòm để gặp Chúa Cứu Thế. Mỉm cười như vậy suốt đời với cái nhìn láo liên, điên khờ, đi tiểu một cách ngang nhiên vào cống rãnh. Tôi cầm khẩu súng và khi tới con đường số 40, tôi nhả đạn. Chả ai để ý tới cả. Tôi bắn họ ngã ra bên phải, bên trái, nhưng lũ đông cũng chẳng thưa đi. Người sống đạp lên người chết mà đi, miệng vẫn cười tươi khoe bộ răng trắng ởn. Chính nụ cười trắng hếu này làm tôi nhớ đời tôi thấy lại cảnh tượng đó trong giấc ngủ. Khi tôi giơ tay ra để van xin nụ cười của George bay lơ lửng trên những nải chuối treo ở tiệm trái cây. Hoa Kỳ mỉm cười trên cảnh nghèo khổ. Điều đó đâu có đáng mỉm cười và tại sao mình lại mỉm cười khi đi lang thang trên chiếc xe thổ mộ. Cười lên, và thế giới sẽ cười với bạn. Cười lên bên cạnh người hấp hối để người ra đi yên lòng hơn. Cười lên. Chẳng bao giờ tắt lịm trên môi cả!

Vào một trưa thứ Năm, khi tôi đang đứng đối diện một người Âu châu xấu xí trong xe điện ngầm. Mặt hắn còn vương lại một vẻ đẹp đã bị tàn phá, như thể trái đất và hắn đã cùng dự vào cuộc dâu bể của vạn vật. Lịch sử của nòi giống họ đã in hằn trên khuôn mặt họ, da họ chẳng khác giấy giá thú ghi lại tất cả những diễn biến của nền văn minh. Những cuộc di cư hận thù, chém giết, chiến tranh của Âu châu: Tất cả đều để lại vết tích trên mặt họ. Họ không mỉm cười, mặt họ đã được sửa soạn kỹ rồi, những gì đã viết tên họ đều kết thành ngôn ngữ của giống nòi, tính tình, lịch sử. Tôi thấy trên mặt họ chiếc bản đồ Âu châu sặc sỡ, rách bươm. Một bản đồ có những đường dọc kẻ ngang vẽ đường xe lửa, đường tàu biển và đường hàng không, với những biên giới quốc gia, và những thành kiến không bao giờ xóa bỏ được. Chính những chỗ lồi lõm, vòng vèo, những lỗ trống lớn chỉ thị biển cả và những đại hồ, những đường gẫy chỉ thị các đảo, tất cả những chỗ trống lơ lửng có vẻ thần thoại lại là những bán đảo, tất cả những vết hằn và soi mòn chỉ thị những cuộc tranh chấp tiếp diễn mãi không ngừng, giữa con người và thực tại. Tôi vô cùng cảm kích khi nhìn vào chiếc bản đồ này, nhìn vào cái lục địa mênh mông còn hơn ta tưởng, và trong thực tế đó không phải là lục địa nhưng chỉ là một phần của địa cầu mà nước đã cắt chia ra. Nếu không có chút kiến thức gì về địa lý, ta chẳng hiểu thế nào là cảnh bể dâu mà lục địa Âu châu đã từng hứng chịu với những mạng lưới sông ngòi, đại hồ và những vùng biển nay không còn nữa. Ta có thể thoáng nhìn thấy những cố gắng vĩ đại con người đã kinh qua bao nhiêu thời kỳ, và ta thấy đó không phải là những cố gắng luống công, vô ích. Hiện nay ta còn nhận ra sự thay đổi ghê gớm về khí hậu tiếp theo việc đất nổi lên. Nếu với con mắt nhà họa địa đồ, khi nhìn vào tấm bản đồ này, ta có thể tưởng tượng ra được cái cảnh 50 hoặc 100.000 năm sau sẽ thay đổi thế nào.

Cứ thế, khi nhìn vào biển cả và đất liền tạo thành cái lục địa cho loài người, tôi thấy cái cảnh đổi thay kỳ lạ, quái gở, hết cái nọ đến cái kia, chứng kiến sự chiến đấu anh dũng của con người, tôi có thể vạch ra theo con đường quanh co dài dặc của sông ngòi sự mất sức mạnh, niềm tin, lòng can đảm, sự duyên dáng và làm cho tâm hồn dần dà mòn hao vì sầu khổ. Tôi có thể thấy rằng những biển cả được các biên giới tự nhiên giới hạn lại, trông chúng vẻ nặng nề và mong manh như những dợn sóng thay đổi bất kỳ. Tôi có thể cảm thấy chỗ nào thì thời tiết thay đổi, chỗ nào là vùng phì nhiêu bây giờ nhưng mai sau sẽ khô cằn sỏi đá, và chỗ khác sỏi đá bây giờ nhưng mai sau lại nở hoa. Tôi tin chắc rằng với một bách phân nào đó, huyền thoại là một sự thật, và rồi con người sẽ tìm ra được những dây liên lạc thực sự đầy tình người, rằng những lỗi lầm quá khứ sẽ được sáng tỏ ra, và sự hờn giận cũng như những sự lầm lẫn là những điều ta cần xóa bỏ đi. Là người, nên ta có đầy đủ mọi yếu tố đã cấu thành trái đất, ta mang chúng đi khắp nơi với ta, cùng với sự thay đổi về địa chất và khí hậu. Trước mắt ta, bản đồ Âu châu đang thay đổi, không ai sẽ biết rằng tân lục địa sẽ bắt đầu ở đâu và kết thúc ở đâu.

Tôi đứng giữa cảnh thay đổi vĩ đại, quên cả tiếng mẹ đẻ và cũng không nói thứ tiếng mới. Tôi đang ở Trung Hoa và nói tiếng Trung Hoa. Ở đây, không có một đồng hồ nào, chẳng có luật lệ gì cả. Căn cứ vào bản đồ thì tôi đang ở Paris, chiếu theo lịch sử, tôi đang ở thế kỷ 20. Tôi đang ở Trung Hoa và đang ngược dòng Dương Tử giang trên một con tầu Á-rập 200 tấn; thực phẩm tôi gom góp được là lấy ở rác rến của những tầu Mỹ thải đi. Tôi phải bỏ ra cả một ngày tròn để sửa soạn một bữa cơm hầm bà lằng, nhưng bữa ăn đó ngon tuyệt vì tôi có một dạ dày bằng sắt.

Những người Louvecienne đang đi vào... Dưới chân tôi là thung lũng sông Seine. Toàn cảnh Paris nổi bật lên như một cái nhìn thật gần. Tôi nhìn kinh đô Paris hết phố nọ sang phố kia, làng trong làng, pháo đài trong pháo đài. Giống như một gốc cây cổ thụ có bướu của một rừng già chơ vơ, oai hùng. Paris đứng giữa một cánh đồng mênh mông bên dòng sông Seine. Nó đứng lì ở đó mãi, khi thì thu hẹp lại lúc bành trưởng thêm ra, cái mới do cái cũ sinh ra, cái cũ suy vi và chết đi. Trải qua bao thời gian dâu bể, Paris vẫn đứng đó yểu điệu, ngọc ngà, một kinh thành linh thiêng, những con đường huyền diệu của nó lách dưới biển những mái nhà để thoát ra cánh đồng mênh mông.