← Quay lại trang sách

- 10 -

Thân xác tôi — những nơi nó biết thảy đều lạ lùng và chả liên quan gì đến tôi cả. Thần Ajax cầm tóc tôi lôi đi qua những đường phố và những nơi xa lạ... Quebec, Chula Vita, Darmstad, Brownsville, Suresnes, Monte Carlo, Czernowitz, Canrsie, Carcassonne, Cologne, Clichy, Cracow, Budapest, Avignon, Vienne, Prague, Marseilles, London, Montréal, Colorado Springs, Imperial City, Jacksonville, Cheyenne, Omaha, Tucson, Blue Earth, Tallahassee, Charmonix, Greenpoint, Parasite Point... Aix la Chapelle... Bonn, Nuremberg, Hanover, Hanoi, Honolulu, Seatie, Indianapolis... (tác giả kê ra có hơn hai trăm thủ đô trên thế giới...) Ở mỗi nơi này đều có một cái gì xảy ra cho tôi một cái gì thật ghê gớm. Mỗi nơi tôi đều để lại một xác chết nằm thẳng cẳng, tay dang rộng. Mỗi lần cúi nhìn con người tôi để biết rõ là xác tôi còn sống, và chắc rằng đó chính là xác mình, tôi lại tiếp tục đi, cứ thế! Tôi vẫn còn đi, còn sống động, nhưng khi mưa bắt đầu rơi và khi tôi bắt đầu đi lang thang vô chủ đích, tôi nghe thấy tiếng những xác chết đó rơi lộp bộp trên đường tôi đi. Tôi tự hỏi — rồi còn gì nữa đây? Ta có thể nghĩ rằng thân xác ta chịu đựng đến một mức nào đó, nhưng lại không có. Thân xác lơ lửng trên cao đau đớn biết rằng tất cả đều bị tàn tạ, trừ lại ít móng chân, tay, mớ tóc và cái mầm sống bất diệt sẽ còn lại mãi. Vì thế, dù ta có chết thực sự đi nữa hoặc bị quên lãng thì ta vẫn còn một phần bé nhỏ của ta còn mọc lên, tiếp nối cái đã qua, cái đang chết.

Tôi đứng dưới nắng gắt gay một buổi xế trưa ngoài một sân ga bé nhỏ ở Louveciennes, một phần bé nhỏ của tôi còn sống động và đang nảy mầm. Người ta nói rằng đó là giờ mà các bản báo cáo đi qua không gian — trên không gian. Trong quán càfê nhỏ bên kia nhà ga có giấu một cái máy, máy phát ra một lời nói. Tiếng nói đầy vẻ điên khờ nói rằng — Đây là đài Điện Thoại Liên Mỹ American Tel... và tiếng Pháp cũng nói như vậy, mà nghe có vẻ khờ hơn. Bỗng nhiên giống như Jacob khi leo lên chiếc thang bằng vàng có tiếng nói từ Trời phán ra. Giống như một suối nước nóng vọt lên từ vùng đất trơ trọi, toàn thể phong cảnh nước Mỹ tuôn ào ra: American Tel, Atlantic and Pacific, Standard Oil, United Cigars, Father John, Uneeda Biscuit, Seaboard Airline, Sapolio, Nick Carter, Trixie Friganza, Foxy Grandpa, Tom Sharkey... (tác giả kê ra hơn năm trăm tên các thương cuộc, công ty, hãng kỹ nghệ, thương mại hàng không... nghĩa là mọi vẻ mọi mặt của Hoa Kỳ...)

Mọi cái gì là Mỹ đều ào ào đi tới. Tên nào cũng có hàng ngàn chi tiết thân mật ghép vào đời tôi. Bọn người Pháp đi qua tôi ngoài phố tưởng tôi là một cuốn tự điển các tên gọi. Mỗi tên có một đời sống và một xác chết. Khi tôi đang đi phố với một vẻ sung sướng, có con ếch nào biết tôi như vậy không? Nó có biết rằng tôi đang đi lang thang trong bốn bức tường nước Trung Hoa? Tôi chẳng lộ một vẻ gì đặc biệt trên mặt, không có gì là vui vẻ, hy vọng, đau đớn, thất vọng. Tôi đi phố mắt lờ đờ như một tên cu-li. Tôi thấy đất trụt xuống, nhà cửa bị tàn phá, gia đình nát tan. Mỗi thành phố tôi đi qua đều như giết tôi, cảnh khốn cùng quá mênh mông và sự đau khổ thật vô tận. Tôi lê gót từ thành phố này sang thành phố khác, để lại đàng sau cả một lô những xác chết và những cái thừa dư cặn bã của tôi. Nhưng cái thằng tôi vẫn cứ tiếp tục đi và đi mãi. Và nghe có một cái gì nhức nhối đang dâng lên trong da thịt...

Tôi lại đi qua khu phố 14. Tôi gặp thần tượng của tôi Eddie Carney, anh chàng tôi đã lâu không gặp kể từ ngày tôi rời bỏ xóm giềng ngày xưa. Anh ta người dong dỏng, đẹp trai kiểu dân Ái Nhĩ Lan. Tôi mê anh ta cả tâm hồn lẫn thể xác. Có ba phố North First, Fillmore Place và Driggs Avenue. Những phố này làm thành biên giới của một thế giới đặc biệt. Bên kia là Thule, Ultima Thule. Kể từ thời San Juan Hill, Free Silver, Pinocchio, Uneeda. Trong vụng biển không xa chợ Wallabout bao nhiêu có những tàu chiến bỏ neo. Một con đường trải nhựa gần một chợ nhỏ có thể đi xe đạp để tới Coney Island và trở về. Ở mỗi bọc hàng của Sweet Caporals có một bức ảnh đôi khi của một nữ minh tinh, đôi khi của một người vô địch, đôi khi là một lá cờ. Paul Sauer thường có thói quen gọi món dưa cải. Cũng vào buổi chiều Lester Reardon hãnh diện như một ông hoàng đi qua tiệm bánh. Phía Nam là nhà của các ông luật sư, vật lý gia, chính trị gia, kịch gia, lính cứu hỏa, âm quách, nhà thờ Tin Lành, phông-ten nước. Phía Bắc là nhà máy thép, nhà bác sĩ thú y, nghĩa trang, trường học, ty cảnh sát, nhà xác, lò thịt, những bồn chứa hơi đốt, chợ cá, câu lạc bộ Dân chủ. Có ba người đáng sợ: Ông già Ramsay — cây vả trong Phúc âm. George Denton, người bán hàng rong và Doc Martin nhà diệt rệp. Có nhiều hạng người ta khó phân biệt: làm hề, đào đất, điên khùng, những nhà tu huyền bí, lao lực, tác phong kỳ bí, khùng khùng, say sưa, nói dối, giả hình, đĩ điếm, bạo dâm, sự hãi, khúm núm, những kẻ gây tội ác, ông thánh ông hoàng. Jim bắt chước loài khỉ, Bet là người không tốt, Joe làm trai mà yểu điệu như đàn bà, Stanley là người bạn đầu tiên của tôi. Hắn tính mèo rừng. Hắn chỉ biết mỗi luật roi da ông già hắn để ở tiệm hớt tóc. Khi bị ông già quất cho, hắn khóc ầm ĩ. Trong thế giới này, cái gì cũng được làm ở chốn thanh thiên bạch nhật cả. Khi Silberstein, anh chàng thợ may mất trí nằm ở lề đường trước nhà anh ta, người ta để mặc hắn như vậy rồi đặt chiếc áo gi-lê sọc lên người anh ta. Giáo sư Martin, vua giết rệp, vừa trở về sau một bữa tiệc, túi ông có hai cái dải bằng tơ thò lên. Stanley vứt những dãy đó xuống cống. Hắn nghĩ là trông khờ quá đi. Dưới cái tiệm sơn bên kia đường, Maine đang đứng dựa tường nguyền rủa cuộc đời chó má. Lính cứu hỏa tới xịt nước vào anh ta. Ông già hắn nghiền rượu gọi Cảnh sát tới và cảnh sát đã đến đập cho ông ta một trận nên thân. Trong lúc đó Carren đang đãi bạn một chầu sâm-banh trong bar. Suất matinée đã vãn và cả mari sến, gái điếm ở quán Bum đang đứng chật ních ở phòng sau với các bạn trai thủy thủ. Denton khùng đang lái xe ngựa ngoài phố, tay cầm chiếc roi, tay cầm cuốn Kinh Thánh. Hắn cất cao cái giọng khàn khàn như la lên: «Dù các con có làm một sự gì cho người rốt hết trong anh em con, thì cũng như làm cho cha.» Hoặc một vài câu đại loại. Bà Gorman đang đứng ở cửa ra vào, quần áo bẩn thỉu, trông bà ta nửa khôn nửa khờ, luôn miệng lẩm bẩm. «Chặc! Chặc! Chặc!» Bà ta là hội viên của nhà thờ Father Carroll ở vùng phía Bắc «Chào cha ạ! Sáng nay đẹp quá cha hả?»

Cứ mỗi buổi chiều sau bữa ăn, tôi lại nhớ đến bọn nhạc sĩ và những vũ điệu của họ. Carl và tôi cùng nhau sửa soạn bữa nhậu, những món thật ngon: củ cải đỏ, ô-liu ngâm, cà, cá sardine, phó- mát, bánh mì không men, chuối, xốt táo, một cặp rượu nho Alger 14°. Ngoài trời không khí ấm cúng thanh tĩnh. Chúng tôi vừa ăn vừa hút thuốc thật thỏa mãn, hắn ta vừa ăn vừa ngủ gục. Bữa ăn thật ngon dưới ánh đèn màu. Hai chúng tôi ngồi yên lặng. Chung quanh nhà có một bầu không khí thanh tĩnh bình lặng. Chiều nào cũng vậy, sau khi ngồi yên lặng một chút, phòng như tối thui anh ta bắt đầu kể chuyện về mình nhất là chuyện quá khứ. Có một nỗi buồn mênh mang lan tỏa, không diễn ra thành lời giống như một thứ âm nhạc dâng lên từ rượu nho Alger, từ củ cải đỏ, từ ô-liu ngâm. Hắn nói với bà mẹ, về những đứa con bà sắp sinh hạ, rồi nói về hắn, về anh chị em hắn, về đồng bào ruột thịt, khi chiến tranh xảy ra, người ta bảo hắn bắn bỏ những người đó, nhưng hắn làm sao bắn nổi, rồi nhà tù, nhà thương điên, rồi chiến tranh kết liễu, hắn lại được tự do như con chim trời tung cánh. Không biết tại sao câu chuyện cứ miên man mãi như vậy, tôi cũng chả nhớ nữa. Chúng tôi bàn về chuyện bà góa vui vẻ, về Linder, về Prater ở Vienna rồi bỗng nhiên chúng tôi đề cập tới chiến tranh Nga-Nhật, rồi bàn về Trung Hoa, về một nhân vật Claude Farrere đã nói tới trong cuốn La Bataille. Có vài câu chuyện về Trung Hoa như ghi ấn tượng thật sâu trong lòng hắn, rồi quanh quẩn hắn lại nói về người mẹ, lòng mẹ, cuộc chiến tranh xảy ra, sự tự do, rồi cứ thế hắn đi sâu vào quá khứ. Tôi cứ sợ mang hắn trở về quá khứ.

Tự do như con chim. Tôi tưởng tượng khi nghe hắn nói thấy cửa nhà tù mở ra, người ta chạy xổ ra ngoài, tất cả đều tự do và chiến tranh kết liễu. Khi cánh cửa nhà tù rộng mở, tôi lại đi phố, bạn Stanley lại ngồi cạnh tôi trên thềm nhà, cùng chia nhau mẫu bánh chua. Nhìn ra xa xa là nhà thờ Cha Carroll. Chiều dâng lên, hồi chuông chiều ngân nga. Chúng tôi ngồi đâu mặt vào nhau, buồn buồn khó tả. Hồi chiến tranh kết liễu, chúng tôi đã ngồi với nhau ở Clichy giữa bóng đêm vây phủ. Hắn ta nghĩ về mẹ, tôi nghĩ lung tung. Hắn vẫn nói hoài: «Tao chả muốn đi đánh nhau. Chán thấy mẹ! Tao mới có mười tám tuổi đời mà.» Lúc đó, chiếc máy hát vừa bắt đầu chơi bản nhạc The Merry Widow điệu Valse. Bên ngoài mọi vật đều bình lặng như hồi tiền chiến. Stanley đang tâm sự với tôi ngoài thêm của câu chuyện về Thượng Đế và người Công giáo. Carl ném một củ cải vào bóng tối. Hắn nói «Dù có nghèo khổ thế nào chăng nữa, ta cần phải sống.» Anh ta lại thò tay lấy một củ cải khác ném đi. «Được sống, chẳng có gì đẹp bằng.» Nói xong, hắn lại nhón một miếng củ cải ném vào miệng, như thể xác nhận rằng hắn đang tự do như con chim trời. Giờ đây, toàn thể phố xá cũng đều tự do như loài chim. Tôi thấy những chàng trai đang đợi đến phiên được đem ra chiến trường để chết trong bom đạn, hoặc lưỡi lê. Những chàng trai đó như là Tom, Syvester, Martin, Paul, Carney, Lester, Maine, Borowski, Pirosso, Maloney... Những chàng trai từ miền Bắc, những chàng trai từ miền Nam đều biến thành một đống bầy nhầy, ruột gan họ tung tóe trên thép gai, tòng teng trên ngọn cây. Chả có người nào trong bọn họ được trừ ra cả. Kể cả đại vĩ nhân Lester Reardon. Cả một quá khứ đã xóa mờ. Còn sống được tự do như chim trời là đẹp rồi. Cổng nhà tù đã mở và tôi có thể đi đó đi đây tùy thích. Nhưng Carney đâu rồi? Stanley đâu rồi?

Đây là mùa Xuân mà Chúa Jesu đã ngợi ca. Bọn lý hình đưa dấm chua mật đắng lên miệng Ngài, bọn sâu bọ lên làm người đang múa nhảy. Trong lòng nhân gian đều quặn đau xé ruột, trong mọi nấm mồ vang lên tiếng gào thét của đạn bom. Cả một bầy thiên thần sa đọa rơi từ trời xuống như sa mù. Toàn thể trái đất này đã trở thành một vết thương chảy máu mãi không ngơi. Khi tiếng kèn tận thế nổi lên chẳng khác gì ta bấm vào cái nút: khi người đầu tiên ngã xuống chân hắn đạp vào người kế tiếp và người kế tiếp, kế tiếp... và cứ thế mãi. Cả một dãy người nằm xuống quanh trái đất từ Nữu Ước tới Nagasaki, từ Bắc Cực tới Nam Cực. Khi con người ngã xuống, hắn sẽ đẩy con voi té xuống, rồi cứ thế dây chuyền con voi đẩy con bò cái, bò cái đẩy con ngựa, con ngựa đẩy con la... và cứ thế, tất cả đều nằm vật cả xuống. Kẻ trước người sau giống như dãy lính bằng chì bị gạt đổ tuốt lượt. Thành phố này là cả một trái bom nổ tung. Sẽ chẳng còn có một cọng cỏ nào mọc lên. Liều thuốc độc giết chết tất cả không làm ai sống nổi. Chỉ còn Yên lặng, Tĩnh mịch và Đêm thâu, không còn một tiếng rên than. Bóng tối êm đềm bao phủ như cả một đại dương màu đen.