5. A PHÒNG CUNG PHÚ ĐỖ MỤC-
Đỗ Mục (803-852)[1] là một thi sĩ nổi danh vào bậc nhất đời Vãn Đường, không kém gì Đỗ Phủ thời Thịnh Đường, nên người ta gọi ông là Tiểu Đỗ[2].
Ông tự là Mục Chi, quê ở Kinh Triệu (nay ở Thiểm Tây), dòng dõi thế tộc, ông nội làm Tể tướng, nhưng đến đời ông thì đã hơi suy. Năm 26 tuổi đậu Tiến sĩ, làm quan ở triều đình một thời gian ngắn, rồi phải đổi đi các châu huyện. Vì nuôi chí lớn, ưu thời mẫn thế muốn cải thiện xã hội, tước hết quyền hành các phiên trấn mà giảm thiểu nỗi thống khổ của nhân dân, lại thêm tính tình cương trực, có khí tiết, nên ông thường bị các quan trên dị nghị, mà hoạn đồ không được thanh thản. Những tư tưởng chính trị đó, ông phát biểu trong tập Tội ngôn (nhan đề đó hàm cái ý rằng mình ở địa vị thấp mà lạm bàn về quốc gia đại sự, thực là có tội), nhưng chẳng ai nghe ông, ông chán nản, làm văn thơ phúng thích (như bài A Phòng cung phú dưới đây, chê các vua chúa hoang dâm vô độ), hoặc để phóng tình trong cảnh yên hoa.
Ông vốn hào hoa phong nhã, lại khổ tâm sáng tác, không bắt chước cổ nhân, không chiều thị hiếu người đương thời, thành công nhất trong thể tuyệt cú, lời đẹp đẽ, miêu tả tự nhiên, tình cảm nồng hậu, mà lại có giọng bất mãn của một kẻ thấy mình bất lực trước thời thế.
Hai câu này trong bài Cửu nhật Tề sơn đăng cao:
Trần thế nan phùng khai khẩu tiếu,
Cúc hoa tu tháp mãn đầu qui[3].
(Đời người khó gặp được những lúc để hé miệng cười,
Thì cứ nên hái hoa cúc giắt đầy đầu mà đem về).
Tả được cả tâm sự và đời sống của ông.
Ông lưu lại bộ Phàn Xuyên văn tập 20 quyển.
NGUYÊN VĂN
阿房宮賦
六王畢,四海一,蜀山兀,阿房出。
覆壓三百餘里,隔離天日。驪山北構而西折,直走咸陽。二川溶溶,流入宮牆。五步一樓,十步一閣,廊腰縵迴,簷牙高啄;各抱地勢,鉤心鬥角。盤盤焉,囷囷焉,蜂房水渦,矗不知其幾千萬落!
長橋臥波,未雲何龍?複道行空,不霽何虹?高低冥迷,不知西東。歌臺暖響,春光融融;舞殿冷袖,風雨淒淒。一日之內,一宮之間,而氣候不齊。妃嬪媵嬙,王子皇孫,辭樓下殿輦來於秦,朝歌夜絃,為秦宮人。
明星熒熒,開妝鏡也,綠雲擾擾,梳曉鬟也;渭流漲膩,棄脂水也;煙斜霧橫,焚椒蘭也;雷霆乍驚,宮車過也;轆轆遠聽,杳不知其所之也。一肌一容,盡態極妍;縵立遠視而望幸焉。有不得見者三六年。
燕趙之收藏,韓魏之經營,齊楚之精英,幾世幾年,取掠其人,倚疊如山,一旦不能有,輸來其間。鼎鐺,玉石,金塊珠礫,棄擲邐迤,秦人視之,亦不甚惜。
嗟乎!一人之心,千萬人之心也。秦愛紛奢,人亦念其家。奈何取之盡錙銖,用之如泥沙?使負棟之柱多於南畝之農夫;架梁之椽多於機上之工女;釘頭磷磷多在庾之粟粒;瓦縫參差多於周身之帛縷;直欄橫檻多於九土之城郭;管絃嘔啞多於市人之言語;使天下之人不敢言而敢怒,獨夫之心日益驕固。戍卒叫,函谷舉,楚人一炬可憐焦土!
嗚呼!滅六國者,六國也,非秦也。族秦者,秦也,非天下也。嗟夫!使六國各愛其人,則足以拒秦;秦復愛六國之人,則遞三世可至萬世而為君,誰得而族滅也。
秦人不暇自哀,而後人哀之後人哀之而不鑑之;亦使後人復哀後人也!
PHIÊN ÂM
A PHÒNG CUNG PHÚ
Lục vương tất, tứ hải nhất, Thục sơn ngột, A Phòng xuất.
Phú áp tam bách dư lí, cách li thiên nhật. Li Sơn bắc cấu nhi tây chiết, trực tẩu Hàm Dương. Nhị xuyên dung dung, lưu nhập cung tường. Ngũ bộ nhất lâu, thập bộ nhất các, lang yêu mạn hồi, thiềm nha cao trác; các bão địa thế, câu tâm đấu giác. Bàn bàn yên, khuân khuân yên, phong phòng thủy oa, súc bất tri kì kỉ thiên vạn lạc!
Trường kiều ngọa ba, vị vân hà long? Phức đạo hành không, bất tễ hà hồng? Cao đê minh mê, bất tri tây đông. Ca đài noãn hưởng, xuân quang dung dung; vũ điện lãnh tụ, phong vũ thê thê. Nhất nhật chi nội, nhất cung chi gian, nhi khí hậu bất tề. Phi tần dắng tường, vương tử hoàng tôn, từ lâu hạ điện, liễn lai ư Tần, triêu ca dạ huyền, vi Tần cung nhân.
Minh tinh huỳnh huỳnh, khai trang kính dã; lục vân nhiễu nhiễu, sơ hiểu hoàn dã; Vị lưu trướng nhị, khí chi thủy dã; yên tà vụ hoành, phần tiêu lan dã; lôi đình sạ kinh, cung xa quá dã; lộc lộc viễn thính, liểu bất tri kì sở chi dã. Nhất kì nhất dung, tận thái cực nghiên; mạn lập viễn thị nhi vọng hạnh yên. Hữu bất đắc kiến giả tam lục niên.
Yên Triệu chi thu tàng, Hàn Ngụy chi kinh doanh, Tề Sở chi tinh anh, kỉ thế kỉ niên, thủ lược kì nhân, ỷ điệp như sơn, nhất đán bất năng hữu, thâu lai kì gian. Đỉnh sanh, ngọc thạch, kim khối châu lịch, khí trịch lệ dĩ. Tần nhân thị chi, diệc bất thậm tích.
Ta hồ! Nhất nhân chi tâm, thiên vạn nhân chi tâm dã. Tần ái phân xa, nhân diệc niệm kì gia. Nại hà thủ chi tận truy thù, dụng chi như nê sa? Sử phụ đống chi trụ đa ư nam mẫu chi nông phu; giá lương chi chuyên đa ư cơ thượng chi công nữ; đinh đầu lân lân đa tại dữu chi túc lạp; ngõa phùng sâm si đa ư chu thân chi bạch lũ; trực lan hoành hạm đa ư cửu thổ chi thành quách; quản huyền ẩu á đa ư thị nhân chi ngôn ngữ; sử thiên hạ chi nhân bất cảm ngôn nhi cảm nộ, độc phu chi tâm nhật ích kiêu cố. Thú tốt khiếu, Hàm Cốc cử, Sở nhân nhất cự, khả liên tiêu thổ!
Ô hô! Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã. Tộc Tần giả, Tần dã, phi thiên hạ dã. Ta phù! Sử lục quốc các ái kì nhân, tắc túc dĩ cự Tần; Tần phục ái lục quốc chi nhân, tắc đệ tam thế khả chí vạn thế nhi vi quân, thùy đắc nhi tộc diệt dã?
Tần nhân bất hạ tự ai nhi hậu nhân ai chi; hậu nhân ai chi nhi bất giám chi, diệc sử hậu nhân nhi phục ai hậu nhân dã!
DỊCH NGHĨA
BÀI PHÚ “CUNG A PHÒNG”
Sáu vua bị diệt, bốn bể thống nhất, núi xứ Thục trọi, cung A Phòng xuất[4].
Cao muốn đụng trời xanh, ba trăm dặm che lấp. Xây từ Li Sơn ở phương Bắc vòng qua Tây, chạy thẳng xuống Hàm Dương[5]. Hai con sông mông mênh chảy vào tới chân tường[6]. Năm bước lại một lầu, mười bước lại một gác; hành lang uốn cong như tấm lụa, mái nhà cao nhọn như mỏ chim; đều ôm địa thế, góc thì đâu vào nhau, giữa như cái móc. Quanh co chằng chịt như tổ ong, như xoáy nước, không biết là mấy nghìn nóc.
Cầu dài vắt ngang sông: chưa có mây sao có rồng? Đường đôi bắc trên không: không phải mưa tạnh, sao có cầu vồng?[7] Cao thấp hỗn loạn, nào biết tây đông. Xuân quang ấm áp, tiếng ca vui vầy; gió mưa lạnh lẽo, tay áo hết bay[8]. Cùng trong một cung, cùng trong một ngày, khí hậu khác thay! Phi tần thị nữ[9], vương tử hoàng tôn, từ lầu xuống điện, ngồi xe tới Tần, sáng ca tối đờn và thành cung nhân[10].
Kìa sao lấp lánh: mở gương đấy mà; mây xanh rối loạn: mớ tóc xõa ra; dầu sáp đổ đi: sông Vị đầy mà[11]; đốt tiêu đốt lan: đám khói tà tà; sấm động kinh hồn: tiếng xe chạy qua; nào biết đi đâu, ầm ầm ở xa. Da thịt dong mạo, làm đỏm làm duyên, đứng chờ xa xa, mong được vua nhìn. Có kẻ trông ngóng, ba mươi sáu năm liền.
Yên, Triệu gom góp, Hàn, Ngụy kinh doanh, Tề, Sở tinh anh, mấy đời mấy năm, của người cướp lấy chất cao thành non, khi chẳng giữ nổi[12], thu lại nơi đây. Vàng, đỉnh coi tựa đất, lu; châu, ngọc rẻ hơn đá, sỏi; liệng phí vung tay, chẳng ai nhìn nhõi[13].
Than ôi! Lòng ai cũng vậy, nghìn vạn người như một. Người Tần thích xa hoa, thì người ta cũng nghĩ tới nhà[14]. Sao lấy thì thu nhặt từng chút mà dùng thì coi rẻ như cát bùn! Khiến cho cột đỡ rui nhiều hơn nông phu ngoài đồng; kèo đỡ nóc nhiều hơn chức nữ trên khung; cho đầu đinh lấp lánh nhiều hơn hột lúa trong kho; phiến ngói so le nhiều hơn quần áo ngoài phố; lan can bực cửa nhiều hơn thành quách cửu châu[15]; sáo đờn ọ ẹ nhiều hơn tiếng nói trong chợ; làm cho người trong thiên hạ không dám nói mà dám phẫn nộ; lòng kẻ thất phu mỗi ngày càng thêm kiêu căng ngoan cố[16]. Lính thú hò hét[17], Hàm Cốc nổi tung[18], mồi Sở một bùng, thương thay, tro tàn trơ đó![19]
Than ôi! Kẻ diệt lục quốc không phải Tần mà là lục quốc. Kẻ diệt Tần chính là Tần, không phải là thiên hạ. Buồn thay! Người lục quốc nếu biết yêu nhau thì đủ sức để chống cự với Tần; nếu Tần lại yêu người lục quốc thì truyền từ ba đời[20] đến vạn đời, làm chủ thiên hạ, ai diệt Tần được chăng?
Người Tần không kịp tự thương cho mình mà đời người sau than thở cho họ; người đời sau than thở cho họ mà không biết lấy đó làm gương, khiến người đời sau nữa lại phải than thở cho người đời sau nữa.
NHẬN ĐỊNH
Câu mở bao quát, hùng vĩ, cô động mà hàm súc. Chỉ có mười hai chữ, vừa đối, vừa vần, từ lục quốc gom lại về cung A Phòng, và cho ta một cảm tưởng rằng Tần Thuỷ Hoàng diệt sáu nước chỉ để hưởng lạc thôi, chứ không có mục đích gì khác. Cách dùng chữ táo bạo: nhất và ngột đều dùng làm thuật từ.
Phần tả cung A Phòng thật tỉ mỉ: từ lầu, gác, hành lang, nóc, sông, cầu, đến phấn son, cung nữ, đờn ca, xe pháo, thời tiết…; toàn dùng hình ảnh táo bạo và luôn luôn cô động (lang yêu mạn hồi, thiềm nha cao trác; câu tâm đấu giác; phong phòng thủy oa; vị vân hà long; bất tễ hà hồng;…); rồi khi kể sự tiêu diệt của cả công trình vĩ đại đó thì chỉ dùng mỗi một câu: “Thú tốt khiếu, Hàm Cốc cử, Sở nhân nhất cự, khả liên tiêu thổ!”. Câu đó cũng ngắn, cũng mạnh, cũng bao quát như câu mở (tóm tắt được tất cả những cuộc khởi nghĩa liên tiếp của Trần Thiệp, Hạng Võ, Lưu Bang), mà ta thấy sự nghiệp của Tần Thuỷ Hoàng chỉ là tro bụi.
Phần kết còn hay hơn, cảm khái triền miên, ý tưởng lại đẹp mà lời văn thì ba lan, đọc xong ta không khỏi bâng khuâng suy nghĩ.
Phần đó gồm ba đoạn:
- Từ “Ta hồ, nhất nhân chi tâm…” tới “Khả liên tiêu thổ”: tác giả trách vua Tần xa hoa, không nghĩ đến nỗi khổ của nhân dân, nên nhân dân phẫn uất nổi lên diệt, mà cung A Phòng ra tro.
- Bài văn tới đó đã đủ nghĩa, tác giả có thể ngừng được, nhưng cảm xúc của ông còn dào dạt, ông viết thêm một đoạn nữa, từ: “Ô hô! Diệt lục quốc giả..” đến “…thùy đắc nhi tộc diệt dã?” mà đại ý là trách cả lục quốc lẫn Tần: lục quốc không biết yêu dân nên bị diệt; rồi Tần lại không biết yêu người lục quốc nên bị diệt nữa.
- Đến đây, ta tưởng đã hết hẳn rồi. Nhưng không, tác giả vẫn chưa cất bút, còn viết một đoạn nữa than thở cho tất cả những người đời sau (ông tất có ám chỉ vua Đường) đã thương hại cho Tần mà không biết soi cái gương của Tần, đến nỗi lại mắc cái hoạ diệt vong như Tần.
Độc giả nhận thấy ba đoạn trong phần kết ấy như ba đợt sóng, cứ một đợt hạ xuống thì đợt khác đưa lên, gây cho ta một cảm giác bất ngờ thích thú.
Xét về số chữ thì đoạn trên dài nhất, (trong nguyên văn 132 chữ), đoạn giữa ngắn hơn (59 chữ) và đoạn cuối ngắn nhất (29 chữ), thành thử ta có cảm tưởng như đợt sóng ở xa cao hơn cả, rồi càng vào bờ càng thấp lần đi.
Mà xét về nội dung thì càng gần cuối bài ý càng mở rộng: trong đoạn trên chỉ trách Tần; tới đoạn giữa, trách cả lục quốc lẫn Tần; và đoạn cuối trách hết thảy những đời sau, cả đời Đường mà tác giả đương sống.
Ý liên tiếp nhau mà tự nhiên (độc giả nhận thấy không có một chữ nào để chuyển ý) mà văn chương thì hàm súc. Hình ảnh muôn thuở mà Đỗ Mục gợi lên cho ta đó thực là mênh mông mà cảm thán của ông cũng triền miên như thời gian vô tận.
Khéo nhất là câu cuối:
“Tần nhân bất hạ tự ai / nhi hậu nhân ai chi /; hậu nhân ai chi / nhi bất giám chi /, diệc sử hậu nhân nhi phục ai hậu nhân dã /”.
Những chữ ai, chi và hậu láy đi láy lại như đánh dấu những đợt sóng nhỏ; một đợt sáu chữ rồi một đợt năm chữ; tiếp theo hai đợt nữa, một đợt bốn chữ, sau cùng là một đợt dài nhất, mười chữ: rõ ràng là hình ảnh những đợt sóng gần tới bờ thì tiến gấp lên rồi khi chạm bờ thì toả nhẹ và rộng ra trên cát mịn (6.5.4.4.10).
Tất nhiên là Đỗ Mục không phân tích tỉ mỉ như chúng tôi vừa làm, rồi mới cấu tạo câu văn. Chúng tôi chắc chắn rằng đoạn hay nhất đó chính là đoạn ông viết dễ dàng nhất: cảm xúc theo ngọn bút mà tuôn trên giấy một hơi cho đến hết, mà nhạc trong văn chính là nhạc trong lòng.
Chúng tôi ít thấy bài văn nào mà nội dung và hình thức đều đạt tới mức tuyệt mĩ như vậy.
Chú thích:
[1] Bản nguồn chép năm mất 853, tôi sửa lại thành 852 theo ĐCVHSTQ; nhiều trang trên mạng, như http://baike.baidu.com/view/9559.htm, cũng chép là 852. (Goldfish).
[2] Còn Đỗ Phú thì gọi là Lão Đỗ. (Goldfish).
[3] Nguyên văn chữ Hán: 塵世難逢開口笑,菊花須插滿頭歸. Tạm dịch thơ: Đời người cười được mấy khi/ Hái hoa cúc giắt đầu đi về nhà. (Goldfish).
[4] Sáu vua tức vua lục quốc: Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở đời Chiến Quốc. Tần Thuỷ Hoàng diệt được sáu nước rồi, đốn cây trên các núi trong đất Thục để dựng cung A Phòng tại Hàm Dương, cung có thể chứa vạn người, cung nữ đông tới ba bốn ngàn.
[5] Li Sơn ở Thiểm Tây, Hàm Dương nay ở huyện Tràng An, cũng ở Thiểm Tạy.
[6] Tức Vị Xuyên và Phàn Xuyên.
[7] Chiếc cầu dài này bắt từ cung A Phòng, ngang sông Vị, tới Hàm Dương; con đường đôi này bằng gỗ đưa từ cung đến chân núi Nam Sơn. Tác giả so sánh cầu với hình con rồng và đường đôi với cầu vòng, vì màu sắc rực rỡ.
[8] Ý nói: khi ca hát vui vầy thì trong cung ấm áp; khi hết múa hát thì không khí lạnh lẽo.
[9] Nguyên văn: dắng, tường: dắng là em gái hay cháu gái của một công chúa theo công chúa về nhà chồng và làm vợ lẽ của chồng công chúa; tường là một chức quan đàn bà.
[10] Phi tần các nước khác rời nước mình, lại A Phòng làm cung nhân nhà Tần.
[11] Nước triều lên đến cực độ gọi là đầy mà. Câu này so sánh gương với sao, tóc với mây; dầu sáp nhiều như nước sông Vị.
[12] Những vật báu trong cung A Phòng là những vật báu mà sáu nước trước kia đã gom góp, rồi không giữ nổi, để Tần thu cả lại đem về đây.
[13] Nguyên văn: liệng bỏ liền liền, người Tần trông thấy cũng chẳng tiếc.
[14] Ý nói: Tần cướp người, cướp của để vung phí, sao không nghĩ những kẻ bị cướp kia rất xót xa vì mất con, mất của.
[15] Cửu châu: Thời đó Trung Quốc chia làm chín châu.
[16] Trỏ Tần Thuỷ Hoàng.
[17] Trỏ Trần Thiệp, người dấy binh đánh Tần. [Vì Trần Thiệp và Ngô Quảng vốn là lính thú (Thú tốt). (Goldfish)].
[18] Hàm Cốc: Lưu Bang cử binh ở cửa Hàm Cốc để đánh tần.
[19] Đuốc Sở: Hạng Võ, người nước Sở; diệt được Tần, đốt cung A Phòng.
[20] Tần Thuỷ Hoàng thống nhất được Trung Quốc rồi, tự đặt hiệu là Thuỷ Hoàng đế (hoàng đế đầu tiên), cho con lấy hiệu là Nhị thế Hoàng đế (hoàng đế đời thứ nhì), rồi Tam thế Hoàng đế (hoàng đế thứ ba)… cho đến vạn thế; nhưng mới đến tam thế đã bị diệt, trước sau chỉ được 15 năm (221-206).