← Quay lại trang sách

6. NHẠC DƯƠNG LÂU KÍ PHẠM TRỌNG YÊM

Phạm Trọng Yêm, tự Hi Văn, là dòng dõi một vị Tể tướng đời Đường, sinh năm 989 ở Ngô Huyện, Tô Châu. Mất năm 1052. Đến đời ông đã sa sút, mới hai tuổi mồ côi, nhà nghèo, thường đói rét, nhưng siêng học, đậu Tiến sĩ, làm chức Tư lí tham quân.

Tính tình ông ngay thẳng cương nghị, rất có hiếu và rất nhân từ. Hồi đã phú quí rồi, ông vẫn giữ lối sống cần kiệm thanh bạch buổi thiếu thời: nếu không có khác thì không dọn hai món thịt, vợ con không bận đồ tơ lụa; có tiền dư thì ông giúp đỡ bà con bạn bè, nhất là những kẻ sĩ nghèo, gần như thi hành được đạo phiếm ái. Vì vậy mà kẻ sĩ khắp nơi tôn ông như thầy và khi ông mất, ai cũng thương tiếc.

Hoạn đồ của ông cũng có lúc long đong; vì ngay thẳng, ghét kẻ chuyên quyền mà một lần bị viên Tể tướng biếm chức; nhưng ông có công dẹp giặc ở Diên Châu, giữ yên được biên giới, nên rồi được vua Tống Nhân Tôn rất tin dùng, vời về kinh, giao cho chức Tham tri chính sự. Khi ông mất, nhà vua tặng tên thuỵ là Văn Chính, hàm Binh bộ Thượng thư.

Ông là một chính trị gia và một triết gia hơn nhà văn, giỏi về kinh Dịch, thường đem ra giảng cho bạn bè, nhưng không phát huy được gì.

Tác phẩm lưu lại có bộ Đan Dương gồm 20 quyển, Biệt tập 4 quyển, Bổ biên 5 quyển, và một tập Tấu nghị gồm 2 quyển.

NGUYÊN VĂN

岳陽樓記

慶曆四年春,滕子京謫守巴陵郡。越明年,政通人和,百廢具興,乃重修岳陽樓,增其舊製,刻唐賢今人詩賦於其上,屬予作文以記之。

予觀夫巴陵勝狀,在洞庭一湖。銜遠山,吞長江,浩浩湯湯,橫無際涯;朝暉夕陰,氣象萬千;此則岳陽樓之大觀也,前人之述備矣。然則北通巫峽,南極瀟湘,遷客騷人,多會於此,覽物之情,得無異乎?

若夫霪雨霏霏,連月不開;陰風怒號,濁浪排空;日星隱耀,山岳潛形;商旅不行,檣傾楫摧;薄暮冥冥,虎嘯猿啼;登斯樓也,則有去國懷鄉,憂讒畏譏,滿目蕭然,感極而悲者矣!

至若春和景明,波瀾不驚,上下天光,一碧萬頃;沙鷗翔集,錦鱗游泳,岸芷汀蘭,郁郁青青。而或長煙一空,皓月千里,浮光躍金,靜影沈璧,漁歌互答,此樂何極?登斯樓也,則有心曠神怡,寵辱偕忘、把酒臨風,其喜洋洋者矣!

嗟夫!予嘗求古仁人之心,或異二者之為,何哉?不以物喜,不以己悲,居廟堂之高則憂其民;處江湖之遠則憂其君。是進亦憂,退亦憂;然則何時而樂耶?其必曰:“先天下之憂而憂,後天下之樂而樂歟!”噫!微斯人,吾誰與歸!時六年九月十五日。

PHIÊN ÂM

NHẠC DƯƠNG LÂU KÍ

Khánh Lịch tứ niên xuân, Đằng Tử Kinh trích thủ Ba Lăng quận. Việt minh niên, chính thông nhân hoà, bách phế cụ hưng, nãi trùng tu Nhạc Dương lâu, tăng kì cựu chế, khắc Đường hiền kim nhân thi phú ư kì thượng, chúc dư tác văn dĩ kí chi.

Dư quan phù Ba Lăng thắng trạng, tại Động Đình nhất hồ. Hàm viễn sơn, thôn Trường Giang, hạo hạo thương thương, hoành vô tế nhai; triêu huy tịch âm, khí tượng vạn thiên; thử tắc Nhạc Dương lâu chi đại quan dã, tiền nhân chi thuật bị hĩ. Nhiên tắc bắc thông Vu Giáp, nam cực Tiêu Tương, thiên khách tao nhân, đa hội ư thử, lãm vật chi tình, đắc vô dị hồ?

Nhược phù dâm vũ phi phi, liên nguyệt bất khai; âm phong nộ hào, trọc lãng bài không; nhật tinh ẩn diệu, sơn nhạc tiềm hình; thương lữ bất hành, tường khuynh tiếp tồi; bạc mộ minh minh, hổ khiếu viên đề; đăng tư lâu dã, tắc hữu khứ quốc hoài hương, ưu sàm uý cơ, mãn mục tiêu nhiên, cảm cực nhi bi giả hĩ!

Chí nhược xuân hoà cảnh minh, ba lan bất kinh, thượng hạ thiên quang, nhất bích vạn khoảnh; sa âu tường tập, cẩm lân du vịnh, ngạn chỉ đinh lan, úc úc thanh thanh. Nhi hoặc trường yên nhất không, hạo nguyệt thiên lí, phù quang dược kim, tĩnh ảnh trầm bích, ngư ca hỗ đáp, thử lạc hà cực? Đăng tư lâu dã tắc hữu tâm khoáng thần di, sủng nhục giai vong, bả tửu lâm phong, kì hỉ dương dương giả hĩ.

Ta phù! Dư thường cầu cổ nhân nhân chi tâm, hoặc dị nhị giả chi vi, hà tai? Bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỉ bi, cư miếu đường chi cao tắc ưu kì dân; xứ giang hồ chi viễn tắc ưu kì quân; thị tiến diệc ưu, thoái diệc ưu; nhiên tắc hà thời nhi lạc da? Kì tất viết: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” dư? Y! Vi tư nhân, ngô thuỳ dữ qui?

DỊCH NGHĨA

BÀI KÍ “LẦU NHẠC DƯƠNG”

Mùa xuân năm thư tư niên hiệu Khánh Lịch[1], Đằng Tử Kinh bị trích ra làm thái thú ở quận Ba Lăng[2]. Được một năm, chính thông, dân hoà[3], mọi việc chỉnh đốn; ông bèn trùng tu lầu Nhạc Dương[4], xây cất thêm, sai khắc trên lầu những thi phú của chư hiền đời Đường cùng các người ngày nay, cậy tôi làm bài văn kỉ niệm.

Tôi coi thì thắng cảnh ở Ba Lăng chỉ nhờ hồ Động Đình[5], nó ngậm non xa, nuốt Trường Giang, mênh mông, cuồn cuộn, rộng không thấy bờ, sáng chiều thay đổi, muôn hình vạn trạng: đó là cảnh đại quan của lầu Nhạc Dương, người trước đã tả nhiều rồi. Nhưng phía Bắc thông với núi Vu Giáp, phía Nam suốt tới sông Tiêu Tương[6], thế thì kẻ bị biếm trích cùng tao nhân mặc khách đều họp nhau ở đó, ngắm cảnh sinh tình, mà cảm tưởng lẽ nào chẳng khác?[7]

Gặp lúc mưa dầm lả tả, mấy tháng không quang, gió lạnh cuồng rít, sóng đục tung mây, mặt trời lẩn bóng, lan can ngả nghiêng, mái chèo bể nát; rồi chiều tối u ám, cọp rống vượn kêu; lúc đó mà lên lầu này tất có lòng nhớ quê hương tổ quốc, lo sợ những lời dèm chê, mà trước mắt toàn là cảnh tiêu điều, cảm khái tới cực điểm, tâm sự thật là bi thảm!

Đến khi quang ấm áp, mặt nước như tờ, trời đất sáng sủa, xanh biếc một màu, đàn âu trên cồn bay lượn tụ tập, đàn cá vảy gấm bơi lội thung thăng, cỏ chỉ cỏ lan trên bờ trên bãi, thơm phúc xanh xanh; hoặc khi khói sương một giải giắt ngang, ánh trăng ngàn chiếu sáng, gieo vàng trên nước, in ngọc dưới dòng, giọng chài xướng hoa, vui thực vô cùng; những lúc đó mà lên lầu này, thì trong lòng khoan khoái, tinh thần vui vẻ, vinh nhục[8] đều quên, nghiêng hồ[9] hóng gió, sự thật là phơi phới.

Ôi! Tôi thường tìm hiểu tâm lí của bậc nhân giả[10] thời xưa, hoặc có chỗ khác hai chỗ thường tình trên kia[11], là vì đâu? Chỉ do lẽ các bậc đó không vì ngoại vật mà vui, không vì bản thân mà buồn; khi giữ ngôi cao tại triều đình thì lo cho dân, khi ở cảnh giang hồ xa xôi thì lo cho chúa[12]; như vậy tiến thoái đều là lo cả, mà lúc nào mới được vui? Tôi đáp rằng: “Lo trước cái lo thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” chăng? Ôi! Không có hạng người đó thì tôi biết theo ai đây?

NHẬN ĐỊNH

Bố cục cổ điển mà cân xứng: đoạn mở đầu và đoạn kết dài ngang nhau; đoạn giữa gồm hai bức hoạ đối chiếu nhau: một bức về mùa mưa, một bức về mùa xuân; trong mỗi bức lại chia ra hai phần: cảnh ban ngày và cảnh ban đêm; thành thử tuy có hai bức mà gần như một bộ tứ bình. Lời trong đoạn này bóng bảy mà du dương; dùng toàn những vế bốn chữ một, câu cuối hơi văn dài hơn (6 chữ) hợp với cảm thán của tác giả.

Khéo nhất là đoạn kết: ca tụng Đằng Tử Kính một cách kính đáo: câu “hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” ứng với “chính thông nhân hoà, bách phế cụ hưng, nãi trùng tu Nhạc Dương lâu” ở đoạn mở; lại có cái giọng nhẹ nhàng khuyên đời, than thở cho đời nữa: “vi tư nhân, ngô thuỳ dữ qui?” Đọc xong ta thấy rõ nỗi lòng và tư cách cao thượng của tác giả.

Lời rất gọn, nhiều chỗ chuyển tiếp rất tế nhị, ta phải suy nghĩ mới hiểu được, nhưng có vậy cái thú đọc văn mới tăng lên.

Chú thích:

[1] Khánh Lịch là niên hiệu của Trần Nhân Tôn. Khánh Lịch năm thứ tư tức năm 1044.

[2] Ba Lăng nay là huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam.

[3] Việc trị dân không gặp khó khăn mà dân chúng hoà thuận.

[4] Lầu Nhạc Dương ở cửa Tây huyện Nhạc Dương

[5] Động Đình hồ ở phía Tây thành Nhạc Dương.

[6] Vu Giáp là một trong ba mỏm núi, ở phía Tây huyện Ba Động, tỉnh Hồ Bắc. Tiêu Tương là con sông do hai nhánh là sông Tiêu và sông Tương họp lại. Ngã ba sông ở phía Bắc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam.

[7] Ý nói: hồ đã rộng, người tới chơi đã đông, tính tình tâm sự mỗi người mỗi khác mà cảnh lại thay đổi tuỳ lúc tuỳ nơi thì cảm tưởng cũng thay đổi. Câu đó chuyển xuống đoạn dưới, đoạn tả cảm tưởng của tác giả khi mưa dầm lạnh lẽo và lúc tiết xuân ấm áp.

[8] Nguyên văn là sủng nhục: được vua yêu và bị nhục.

[9] Nguyên văn là cầm chén rượu.

[10] Nghĩa là những người có lòng nhân, lo cho nước cho dân.

[11] Hai tâm trạng đó là vui buồn tuỳ lúc: xuân quang ấm áp hay mưa dầmlạnh lẽo.

[12] Chúng tôi theo bản Cổ Văn Quan Chỉ mà chép chữ quân (vua) ở đây; nhưng chúng tôi không theo lối giải thích trong sách đó về hai chữ giang hồ: “chỗ ở của ẩn sĩ”; vì tâm lí chung của ẩn sĩ là không quan tâm tới thế sự, thế thì còn lo gì cho vua nữa? Cổ Văn Bình Chú giải nghĩa là chỗ ở cùng các quan bị trích đày ra nơi xa xôi; như vậy có phần hợp hơn, nhất là bài này tác giả viết thay Đặng Tử Kính, người trùng tu lầu Nhạc Dương mà Đặng đã bị trích ra làm thái thú Ba lăng. Hạng người đó lo cho vua là vì họ có tư cách, ngay thẳng, vua giận họ mà đày họ, nhưng họp vẫn không oán, lại sợ rằng mình đi rồi, ở triều không ai khuyên bảo vua nữa.

Nhưng Cổ Văn Bình Chú lại chép chữ “dân”, cho rằng bọn người đó bị đày ra xa mà vẫn lo cho dân; hiểu như vậy cũng được, mặc dầu ý tứ kém uyển chuyển: trên đã “ưu kì dân”, dưới lại “ưu kì dân” nữa