TRUYỆN 9: NỖI KINH HOÀNG CỦA DUNWICH
Đứng hạng 9 trong 10 tiểu thuyết kinh dị nhất mọi thời đại là một tiểu thuyết rất rùng rợn của nhà văn Mỹ H P Lovecraft (1890 - 1937). Nhiều tiểu thuyết của ông dựa trên ý tưởng loài người không phải là sinh vật thông minh duy nhất trên Trái đất. Mà thiệt! Chắc chắn còn có những "thứ " khác cực kỳ gớm guốc, hôi hám đang lảng vảng đâu đó trên thế gian. Trong hầu hết các tác phẩm sởn tóc gáy của H P, ước muốn chính của các tạo vật hành tinh này là gây ra nỗi kinh hoàng và những cơn đau đến không thể chịu nổi cho loài người. Những quái vật kỳ dị, ghê rợn và nguy hiểm này đã tồn tại từ hàng trăm ngàn năm trước. Không chỉ ác ôn mà chúng còn rất rất là... thông minh nữa! Nỗi kinh hoàng của Dunwich (1928) có thể xem là tổng tập các nỗi kinh hoàng ngoài hành tinh. Nó diễn ra ở một vùng hẻo lánh, khỉ ho cò gáy của nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Câu chuyện xoay quanh gia đình Whateley, đặc biệt quanh cậu con trai cực kỳ quái đản tên là Wilbut. Nhà Whateley vốn đã khác thường lắm rồi. Nếu chẳng may bạn ở kế nhà họ, có thể bạn sẽ gọi họ là "những người láng giềng từ địa ngục". Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về đám người xấu xa này, xin hãy đọc cuốn sách của H P. Nhưng hãy cẩn thận đó! Đừng nói là chúng tôi không báo trước đó nhe!
Những người láng giềng từ địa ngục
Chuyện này đã được giữ kín quá lâu rồi! Thế giới sớm muộn gì cũng phải biết! Đó là lý do tôi quyết định công bố các trích đoạn này từ nhật ký của tôi. Tôi tin rằng khi đọc chúng xong người ta sẽ nói ‘‘Đáng đời hắn.... ai biểu mò ra cái hóc bò tó đó mà sống! Nhưnng hồi đó tôi còn trẻ măng, mới chập chững vào, cái hóc bò tó đó ngựa bán rẻ rề. Với lại tôi cần một nơi yên tĩnh để viết cuốn sách kinh dị đầu tay của tôi nữa chớ. Dunwich trông giống cái nơi hoàn hảo để một nhà văn trẻ bắt đầu sự nghiệp (thì hồi đó tôi nghĩ vậy mà!) làm sao tôi biết những người hàng xóm ở sát xịt tôi nhất lại là...
GIA ĐÌNH WHATELEY!
Trích đoạn từ nhật ký của Ezra T. Hopkin, nhà văn (đã về hưu)
Tháng 10-1912
Hôm nay tôi chuyển đến chiếc chòi trên đồi. Mừng tân gia đêêê! Khu này coi bộ cũng được ghê. Có những đồi cao nhìn xuống những thung lũng hun hút và những đầm nước bốc mùi. Những tòa nhà đổ nát và những tảng đá xưa nằm rải rác khắp nơi! Và có cả hàng trăm con chim lạ có tên là cúc cúc cu (theo tiếng gáy của nó) nữa chớ. Người địa phương khiếp sợ chúng lắm. Họ tin rằng chúng đánh cắp linh hồn của người chết. Tôi còn nghe cả tiếng chân lẩn trốn, tiếng rên rỉ, tiếng huýt từ phía dưới những ngọn đồi cao nhất! Túm lại, đây là một nơi hắc ám, đầy nhóc tử khí cùng vô số điềm gở. Một nơi hoàn hảo cho nhà văn mới tập sự... như tôi nè!
Tháng 11-1912
Tôi vào thị trấn mua thức ăn thì gặp vài người dân địa phương. Quả là một đám người quái dị! Toàn là nghi kỵ và soi mói! Cứ như họ đang giấu giếm chuyện gì vậy. Có lẽ những tin đồn ở đây về tội ác, bạo lực gia đình, và giết người đều là đúng! (Đùa tí thôi!)
Tháng 1-1913
Lần đầu tiên tôi thấy mấy người hàng xóm: gia đình nhà Whateley. Từ chỗ tôi có thể thấy rất rõ nông trang của họ dưới đồi. Quả là một lũ người kỳ cục. “Lão” Whateley là một ông già đầu bạc hắc ám. Lão dành hầu hết thời gian ngồi đọc những cuốn sách bùa chú, mồm lảm nhảm nói gì đó. Trông lão cứ như bị chập dây thần kinh vậy. Lavinia, con gái của lão, chẳng khá khẩm gì hơn. Thân hình kỳ quái đã đành, lại còn tóc bạc trắng, da màu hồng, đôi mắt cũng màu hồng nữa mới kinh. " Cũng chiếc cằm lẹm y như lão già hâm kia! Tôi đã vài lần bắt gặp mụ ta lang thang trên các ngọn đồi giữa cơn giông sấm sét, miệng lải nhải đọc cuốn sách bùa. Mụ này gàn dở chẳng kém gì lão già!
Đầu tháng 2-1913
Tôi không sao chớp mắt được. Suốt đêm qua có những tiếng la hét ghê rợn dội lên từ ngôi nhà của gia đình Whateley! Chúng lớn đến mức át luôn cả tiếng rì rào dưới ngọn đồi lớn lẫn tiếng sủa liên hồi của lũ chó địa phương. Chuyện gì vậy ta?
Cuối tháng 2-1913
Tôi biết ai la hét rồi. Đó là Lavinia! Mụ ta sinh em bé! Trước đây tôi chưa thấy đứa bé. Hình như họ đặt tên cho nó là Wilbur. Chả biết cha nó là ai nữa.
Tháng 3 - 1913
Từ khi nhóc Wilbur ra đời, tôi nhận thấy lão Whateley mua thêm khá nhiều gia súc. Nhưng có điều lạ là bầy gia súc của họ ở cánh đồng phía dưới chiếc chòi của tôi lại không thấy đông lên. Vẫn chỉ chừng 11 hay 12 con!
Tháng 4-1913
Lần đầu tiên tôi thấy mặt Wilbur. Lavinia cõng nó qua bãi cỏ. Một đứa bé rất bự con, bề ngoài trông khá giống con dê. Tội nghiệp thằng bé!
Tháng 5 - 1913
Sáng nay tôi ra suối lấy nước thì chợt nhận ra bầy gia súc nhà Whateley con nào cũng bị thương, khắp mình mẩy có những vết rách rớm máu. Cứ y như bị con gì cắn vậy!
Tháng 6 -1913
Hôm nay, trên đường mòn, tôi đi ngang qua lão Whateley và mụ Lavinia. Tôi phát hiện có hai cái vết trên cần cổ Lavinia trông y chang như các vết thương trên mình bầy gia súc! Rồi tôi thấy lão già cũng có những vết như vậy! Tôi không hình dung nổi chuyện gì nữa rồi. Dù sao, một nhà văn thể loại kinh dị mà chịu thua như thế thì tệ quá. Mà thiệt, lúc này tiểu thuyết kinh dị của tôi đang không được suôn sẻ cho lắm.
Tháng 1 -1914
Hôm nay tôi gặp Wilbur. Nó mới 11 tháng tuổi mà đã nói được - có lẽ chẳng thua kém mấy so với một cậu bé 15 tuổi! Các đường nét của nó cũng đã định hình: da vàng vọt, môi dày, tóc thô và nhăn, tai dài và nhọn. Và nó hoàn toàn không có cằm... giống như mẹ và ông ngoại của nó vậy! Một em bé quá ẹ!
Tháng 8 – 1914
Wilbur nay đã to xác như đứa bé lên bốn. Nó dành nhiều thời gian đọc cuốn sách bùa của lão Whateley. Hôm qua, tôi thấy nó đứng giữa vòng tròn đá trên đỉnh đồi Sentinel (ngọn đồi lớn, nơi phát ra các tiếng động). Nó cầm cuốn sách bùa đồ sộ và hô lớn hết cỡ “Yog-Sothoth! Yog-Sothoth!” Rất là quái gở! Làm cho tôi nổi hết cả da gà! Biết đâu đó chỉ là một trò nghịch ngợm trẻ nít. Cuốn tiểu thuyết kinh dị của tôi đang bí lù. Vì thế tôi dành toàn thời gian dọ xét nhà Whaterley. Họ giống như một nỗi ám ảnh đối với tôi.
Tháng 10-1914
Lão Whateley đang xây thêm một lán nhà đồ sộ nối liền với căn nhà nông trang của lão. Không có cửa sổ nhé! Chả hiểu vì sao. Cuốn tiểu thuyết kinh dị không có tiến triển gì thêm nữa. Lâu lắm rồi tôi không viết nổi lấy một từ.
Tháng 5-1915
Tôi thường xuyên thấy nhóc Wilbur lang thang trong khu vực, miệng lảm nhảm ngân nga điều gì đó (có nhịp điệu hẳn hoi đấy). Nó gặp vấn đề với lũ chó địa phương. Chúng không chịu nổi nó và đã nhiều lần toan giết nó. Tin nổi không, mẹ nó bắt nó mang theo một khẩu súng bự để tự vệ đấy!
1917
Wilbur nay đã bốn tuổi rưỡi. Nó bắt đầu vỡ giọng và một nhúm râu lởm chởm đã xuất hiện hai bên má. Hôm qua, tôi nói chuyện với Earl Sawyer, gã hàng xóm làm nghề buôn gia súc. Hắn vừa được nhà Whaterley đặt giao hàng một con bò và đã ngửi thấy từ lán nhà nối dài tỏa ra một mùi tanh dễ sợ. Tôi cũng thường hay trò chuyện với gã bán hàng rong ở địa phương. Một sáng nọ, gã này đã ở vài phút trong căn bếp nhà Whaterley. Hắn cho là đã nghe thấy có tiếng ngựa dậm chân ở căn phòng phía trên.
Ngày 1-8-1924
Tôi choàng tỉnh giữa bình minh ) do tiếng kêu inh ỏi và thống thiết cũa lũ cúc cúc cu. Nhìn ra ngoài, tôi thấy hàng trăm con đang tụ tập ở khu nhà Whaterley. Đúng là chuyện lạ!
Ngày 2-8-1924
Tôi vào thị trấn để nghe ngóng tình hình. Giờ thì tôi đã biết lý do bản họp xướng của lũ chim. Lão Whaterley vừa mới chết hôm qua! Nghe đồn, trong số những lời trối trăng mà lão ầm ừ vào tai Wilbur có những câu như: “Cây thủy tùng lớn lên... và thứ đó còn lớn nhanh hơn thế!” và “Nhớ ăn nó thường xuyên nhé, Willy! ” Chả hiểu lão muốn nói gì. Về cuốn tiểu thuyết kinh dị thì giờ đây tôi hầu như đã bỏ luôn nó rồi.
Ngày lễ Halloween năm 1926
Bà Whaterley đã biến mất! Điều khá lạ lùng là bà ta vừa mới nói chuyện với tôi hồi tuần trước. Khác với mọi khi, bà ta không chỉ thốt ra vài từ cộc lốc. Bà ta có vẻ rất hoang mang, tuyệt vọng muốn trò chuyện với ai đó. Bà ta nói rằng bà ta bắt đầu “sợ” Wilbur.
Mùa hè năm 1927
Tôi vừa gặp Wilbur lần đầu tiên sau nhiều tháng! Khó mà nhận ra nổi hắn. Hắn cao hẳn phải đến hai mét mốt và trông giống con dê hơn bao giờ hết. Dân địa phương đồn rằng hắn suốt ngày vùi đầu vào mấy cuốn sách bùa chú. Hắn đi đến nhiều thư viện và trường đại học để tìm kiếm một văn bản cổ nào đó có tên là Hậu -Tử -Học của một tác giả điên người A-rập tên là Abdul Alhazred. Nghe đâu hắn đã tìm ra được! vẫn không thấy tăm hơi bà Whaterley.
Mùa đông năm 1927-1928
Hôm nọ tôi đi một chuyến ra thành phố và đụng phải tiến sĩ Armitage, ông thầy cũ của tôi ở trường đại học Miskatonie. Tôi kể cho thầy nghe về cuộc sống của tôi trên đồi và về gã hàng xóm 14 tuổi kỳ dị của tôi. Thật là trùng họp! Hắn cũng vừa mới gặp thầy Armitage! (Thì người ta vẫn nói thực tế còn lạ lùng hơn cả chuyện giả tưởng mà lị). Wilbur muốn lấy đi tập Hậu-Tử-Học của nhà trường nhưng thầy Armitage không cho. Giờ thì thầy cảm thấy Wilbur không sẵn sàng để đón nhận lời từ chối. Thầy sợ điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra.
Tháng 7-1928
Tôi vừa nhận được thư của thầy Armitage. Thầy đang nghiên cứu gì đó liên quan đến người dân ở khu vực Dunwich. Thầy yêu cầu tôi quay lại Miskatonic vào tháng tới để giúp thầy nghiên cứu. Tôi đồng ý ngay.
Tháng 8-1928
Tôi đang ở Miskatonic cùng thầy Armitage. Có chuyện gì đó khủng khiếp vừa xảy ra! Vài đêm trước tôi đã bị đánh thức bởi tiếng tru tréo của con chó canh gác trường. Ngay sau đó là một tiếng hét nghe dễ sợ đến mức kể từ rày nó sẽ mãi mãi ám theo tôi trong tất cả những giấc mơ. Tôi bật dậy khỏi giường, lao vội đến thư viện, nơi những âm thanh đó phát ra. Thầy Armitage và một nhóm giáo sư đã ở đó từ trước. Một người đã bất tỉnh tại chỗ do khung cảnh quá kinh hoàng ở trước mắt.
Tôi sẽ mô tả nó ngay đây thôi, nhưng trước hết tôi xin cảnh báo: ai thường xuyên gặp ác mộng hay dễ mất bình tĩnh chớ nên tiếp tục đọc!
Nằm co quắp, bất lực trên một vũng nhầy nhớp ; nháp màu vàng là... “con vật”. Nó cao ít nhất là hai mét bảy, và có khuôn mặt không cằm rất giống khuôn mặt dê của Wilbur Whateley! Ngoài khuôn mặt đó ra thì nó không có dáng vẻ gì là người. Khung cảnh khá thô thiển vì phần lớn y phục đã bị con chó gác trường xé toang. Lúc này, con chó đang đặt chiếc cẳng bự của nó lên lồng ngực run rẩy, co giật của “con vật”. Từ bụng của “con vật” lủng lẳng vươn ra một mớ xúc tu màu xanh xám, mỗi xúc tu đều có miệng hút đỏ lòm. Da phía trên của nó có vảy giống như da cá sấu, nhưng da phía dưới lại phủ đầy lông đen. Một dạng ống hút lòi ra từ dưới lưng, đầu ống là một kiểu miệng hay cuống họng gì đó. Mỗi bên hông đều có thứ gì đó trông như con mắt. Còn chân của nó thì cứ y như chân của một con bò sát tiền sử, bàn chân thì có hình thù nửa như cái móc, nửa như cái móng.
Khi “con vật” quằn quại và vùng vẫy, có những âm thanh phát ra từ miệng nó nghe như “Yog-Sothoth, Yog-Sothoth”, nhưng cũng khó nói chắc như thế do sự hùng phát bất chợt những tiếng kêu inh ỏi của hàng trăm con cúc cúc cu ở bên ngoài. Rồi nó thôi vặn vẹo và con chó ném trả lại cái đầu của nó và tru lên. Mười phút sau, cảnh sát đến, nhưng lúc này tất cả những gì còn lại của “con vật” chỉ là một mớ bột màu trắng nhóp nháp trên mặt sàn thư viện.
Ngày 1-9 -1928
Tôi đã về lại chiếc chòi của mình. Cùng những người ở trường đại học, tôi thề không tiết lộ cho bất kỳ ai những gì đã mục kích ở thư viện, ở Dunwich này, cái mùi thum thủm từ ngôi nhà nay bỏ hoang của gia đình Whateley cứ ngày một nồng nặc hơn. Và hôm qua tôi vừa nghe thấy có tiếng “vỗ” vọng lên từ dưới đó. Lũ chó địa phương cứ sủa miết còn đám gia súc thì dậm chân và rống lên liên hồi. Tất cả như đang điên lên vì sợ hãi. Nhưng sợ cái quái gì vậy cà?
Ngày 9-9-1928 (buổi sáng)
Những tấm ván gỗ của phần lán nối thêm vào nơi ở của nhà Whateley đã vỡ tan cứ như vừa bị trúng phải bom. Thứ gì đó khủng khiếp đã từ đó xông ra.
Sáng nay, một nhà nông đã phát hiện phân nửa đàn bò của ông bị mất, còn nửa kia đang gục quỵ, rê,rỉ vì đau đớn, vì ít nhất một nửa lượng máu của chúng đã bị hút đi.
Ngày 9-9-1988 (buổi chiều)
Cái vật kinh khủng vừa xông ra thế giới kia, dù là cái gì thì có vẻ như nó đã chạy ra hẻm núi gần ngôi nhà của gia đình Whateley. Một cậu bé nói đã thấy những dấu chân rất lớn in trên bùn. Ai nấy đều sợ hãi, chặn bàn ghế, tự giam mình trong nhà suốt cả đêm.
Ngày 10-9-1928 (buổi sáng)
Tôi sợ lắm lắm luôn. Điều gì đó đêm qua, một điều kinh khủng, đã diễn ra ở trang trại của nhà Frye. Nửa đêm, hàng xóm nhận được cú điện thoại của: bà Frye. Bà ấy cuồng loạn la hét, gào lên những lời lẽ như “Chúa ơi, cứu con... Nó tới kìa...!” nhưng rồi giọng bà chuyển thành một tiếng hét thất thanh, tiếp nối bởi một tiếng đổ vỡ loảng xoảng. Sau đó thì điện thoại bị ngắt. Sáng nay một băng đàn ông và thanh niên kéo tới nhà của gia đình Frye. Họ thấy những phần thi thể đầy máu của bò nằm vương vất khắp cánh đồng. Khắp nơi đều có bò bị thương và bò chết. Không thấy tăm hơi người nào trong gia đình nhà Frye. Ngôi nhà của họ bị hủy hoại hoàn toàn. Trên sàn còn vương vãi một chất nhầy nhớt màu vàng trông tởm lợm, còn không khí thì ngập ngụa một mùi kinh khủng khiếp. Tôi không nghĩ sẽ còn gặp lại họ.
Ngày 10-9-1928 (buổi chiều)
Thầy Armitage kể rằng, ngay sau cái sự kiện khủng khiếp ở trường đại học, thầy đã tìm thấy tập nhật ký của Wilbur trong thư viện. Kể từ đó thầy tập trung vào giải mã những chữ viết nguệch ngoạc và những chữ viết tắt trong tập nhật ký này. Thầy nói thầy vừa có một bước tiến đột phá, nhưng sẽ không nói cho tôi biết là gì. Thầy chỉ nói những điều thầy phát hiện ra là vô cùng khủng khiếp và đó là một thứ hiểm họa cho toàn nhân loại mà thầy cứ nghĩ đến là sợ điếng cả người.
Ngày 11-9-1928
Tôi vừa trải qua một ngày khủng khiếp nhất trong đời. Sau khi đã thấy thứ đó, tôi nghĩ đời mình sẽ không bao giờ còn được như xưa nữa. Ghi nốt những dòng này, tôi sẽ phải nghĩ ngơi một thời gian dài. Chiều nay thầy Armitage đã đến Dunwich. Trông thầy rất kiên quyết và dứt khoát. Thầy mang theo một chiếc thùng chứa hóa chất dạng bột. Thầy nhờ tôi và một vài dân làng đưa thầy tới trang trại nhà Frye. Khi đến đó, mọi người thấy có chiếc xe của cảnh sát đến điều tra vụ mất tích. Chiếc xe trống rỗng. Lần cuối cùng người ta gặp các viên cảnh sát là khi họ đang đi vào hẻm núi lớn. Tái nhợt và run rẩy, cụ Sam Hutchins vừa kể cho chúng tôi nghe cụ đã cảnh báo họ không nên đi vào đó. Đúng lúc đấy Earl Sawyer ù té chạy ra, trông như sắp chết đến nơi vì quá sợ! Anh ta gào lên “Nó ra rồi! Nó ra rồi!”. Sau đó anh lắp bắp nói gì đó về việc nghe thấy tiếng rít lớn và tiếng dẫm đạp rầm rập, rồi cây cối rung lên và đổ rạp cứ như gặp phải con bão lớn, không khí tràn ngập một mùi tanh khủng khiếp.
Dù nó là gì, cái thứ vừa ra khỏi hẻm núi đó nay đang trên đường đi đến vòng tròn đá cổ, cho nên chúng tôi vắt giò chạy lên đồi Sentinel. Khi đến đó, thầy Armitage trao ống nhòm cho tôi và dặn tôi đứng đó quan sát. Rồi thầy biến mất trong lùm cây. Năm phút sau, tôi nhìn thấy thầy ở gần vòng tròn đá. Rồi tôi nghe thấy cái âm thanh làm trái tim tôi muốn rụng khỏi lồng ngực, cần cổ tôi khô khốc và máu trong người tôi như đông thành băng. Đó là tiếng rống khàn khàn nhưng inh tai nhức óc, phát âm thành hai tiếng “Yog-Sothoth Yog-Sothoth”... chính xác là những từ mà tôi đã nghe Wilbur gào lên nhiều năm trước đây. Ngay sau đó, lần đầu tiên tôi thấy được thứ mà sau này được đặt tên là “Nỗi kinh hoàng của Dunwich”!
Tôi chưa từng thấy một sinh vật sống nào lớn cỡ đó! Trông nó như một khối các xúc tu đang ngọ nguậy. Nhưng khi nhìn kỹ trong ống nhòm, tôi thấy khắp thân mình con quái vật này phủ đầy những con mắt lồi bự chảng, những chiếc miệng hả lớn và những chiếc vòi xoắn xít. Ghê rợn nhất là ở đầu mỗi chiếc vòi là một... khuôn mặt! Khuôn mặt mà tôi nhận ra ngay tức thì. Mỗi ánh mắt, mỗi chiếc mũi dài, mỗi đuờng nét giống như dê đều. thuộc về... nhà Whateley!
Vừa rít, vừa ồm ộp, vừa he he, cơn ác mộng đó, chậm rãi tiến về phía thầy Armitage, lúc này đang cuống quýt rắc chất hột trắng từ chiếc thùng và ngâm nga đọc câu gì đó có vần điệu mà tôi không thể hiểu. Ngay lúc con vật rùng rợn kia vươn những xúc tu xoắn xít định cuốn lấy thầy và hút lấy sinh mạng thầy, một tia sét lớn chợt phóng xuống từ bầu trời, giáng thẳng vào ngay tâm hệ thờ vòng tròn đá. Tiếp đó là một tiếng hét nghe rùng rợn đến mức chiếc ống nhòm rời ra khỏi tay tôi. Khi tôi nhặt nó lên và nhìn ra chỗ cũ thì cả con vật lẫn thầy Armitage đều biến đâu mất tiêu.
Bất chợt, cây cỏ và mặt đất quanh tôi bị giáng mạnh khi một luồng tử khí nồng nặc mùi thối rữa quét qua ngọn đồi. Lũ chó tru tréo lên và bầu trời ; bên trên bỗng tràn ngập lũ chim cúc cúc cu. Liền đó, lũ chim bắt đầu rơi xuống đất, vù rơi vừa la lối. Chẳng mấy chốc, các cánh đồng đều rải rác hàng trăm con chim đã chết bay hấp hối. Tôi cảm thấy giống như ngày tận thế đang đến. Nhưng rồi mọi thứ dần im ắng và âm thanh duy nhất phá tan sự im lặng chỉ còn là tiếng kêu thi thoảng của vài con cúc cúc cu đang giãy chết.
Ít lâu sau, thầy Armitage bước ra khỏi bụi cây ở dưới đồi.
“Nó đã bị tiêu diệt vĩnh viễn rồi,” thầy điềm tĩnh nói. “Khi Wilbur lớn lên thì nó cũng lớn lên. Nhưng nó lại lớn lên nhanh hơn hắn nhiều. Giống như hắn, nó không phải là một thứ từ thế giới bình thường! Nhà Whateley nuôi nó lớn để nó làm cái việc khủng khiếp trong các sự kiện mà họ dự kiến sẽ diễn ra. Nhưng giờ thì... nó không còn nữa.”
“N-n-nó từ đâu đến vậy?” Tôi ấp úng hỏi.
“Nó là anh em sinh đôi của Wilbur,” thầy Armitage thì thào đáp. “Nhưng nó giống bố hơn Wilbur rất nhiều!”