← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IX

Giữa lúc mọi chuyện đang rối ren thì bà ngoại Halley bắt đầu rời xa chúng tôi.

Những dấu hiệu đầu tiên đã xuất hiện từ cuối xuân, khi bà đãng trí hơn, cứ nhầm lẫn tôi với mẹ, gọi tôi là Julie và có khi quên cả tên mình. Bà thường tự nhốt mình ở ngoài đường vì để lạc mất chìa khóa, khiến mẹ tôi phải nài nỉ bà đeo quanh cổ một sợi dây có xâu chìa khóa và thông tin cá nhân để đề phòng. Nhưng tất cả chẳng giúp ích được bao nhiêu. Bà ngoại thường làm rơi chìa khóa xuống mấy khe hở, góc kẹt hoặc ngoài vỉa hè, thế là chúng biến mất tăm.

Tình hình mỗi lúc một xấu đi. Bà vào cửa hàng Hallmark chọn một tấm thiệp rồi đi thẳng ra cửa mà quên trả tiền, để rồi giật bắn người khi hệ thống báo động ở đó kêu inh ỏi. Bà lại thường gọi điện cho gia đình tôi giữa đêm khuya, lo âu hoảng hốt và chắc như đinh đóng cột rằng chúng tôi đã nói sẽ đến thăm bà vào một ngày nào đó, trong khi chúng tôi chưa hề có kế hoạch như vậy. Những lần như vậy, giọng bà trong điện thoại nghe hốt hoảng và bất an khiến tôi sợ hãi vội chuyển máy cho mẹ. Mẹ phải trấn an bà rằng mọi người vẫn bình an, không có gì phải lo lắng. Nhưng đến cuối tháng Mười, chẳng còn gì chắc chắn nữa.

Tôi rất gắn bó với bà ngoại Halley. Đối với tôi, bà rất đặc biệt, có lẽ phần nào do hai bà cháu tôi cùng tên với nhau. Lúc còn bé, thỉnh thoảng tôi đến ở nhà bà vào mùa hè để bố mẹ thảnh thơi đi du lịch. Bà sống một mình trong ngôi nhà nhỏ kiểu Victoria ở vùng ngoại ô Buffalo cùng con mèo Jasper béo ú. Những khung kính trên cửa sổ của ngôi nhà đã ố mờ, và tại chiếc cửa sổ nằm lưng chừng cầu thang xoắn ốc, bà gắn một sợi dây rồi treo vào đó một cái chuông. Mỗi khi đi ngang qua nó, tôi lại chạm ngón tay vào, và chiếc chuông liền vội vã đổ những hồi dài, lanh canh qua ô cửa, vang vọng khắp ngôi nhà. Khi nhắc đến bà, không hiểu sao điều đầu tiên hiện lên trong trí nhớ tôi chính là hình ảnh và âm thanh của chiếc chuông ấy, rồi sau đó mới đến khuôn mặt bà.

Mẹ tôi thừa hưởng đôi mắt sáng, cái cằm thon gọn từ bà ngoại, và tiếng cười của mẹ đôi khi cũng giòn tan giống hệt bà. Nhưng tính tình bà ngoại thì phóng khoáng và có phần lập dị, nhất là khoảng mười năm trở lại đây từ sau khi ông tôi qua đời. Mỗi khi làm vườn, bà thường mặc quần áo đàn ông, đội nón rộng vành và trang trí mấy con bù nhìn sao cho thật giống những người hàng xóm mà bà không thích, đặc biệt là ông Farrow, người sống cách bà hai căn. Ông này có hàm răng thỏ và mái tóc đỏ màu cà rốt, hai đặc điểm cực kỳ tương hợp với một con bù nhìn.

Bà tôi chỉ ăn các loại thực phẩm hữu cơ và nhận nuôi hai mươi em bé từ Hội bảo vệ trẻ em . Bà còn dạy tôi mấy bước khiêu vũ cơ bản khi tôi mới học lớp năm. Khi đó, hai bà cháu đã cùng nhảy vòng quanh phòng khách trong tiếng nhạc và tiếng lạch cạch phát ra từ chiếc máy hát cũ của bà.

Bà tôi chào đời vào tháng Năm năm 1910. Đó cũng là lúc sao chổi Halley bay vụt qua nền trời ở thị trấn nhỏ bang Virginia. Khi ấy, ông cố tôi đã cùng nhiều người đứng xem sao chổi ngay tại sân bệnh viện. Ông tin rằng đó là một dấu hiệu thiêng liêng nên đã lấy tên ngôi sao ấy đặt cho bà, Halley. Cũng chính ngôi sao đó đã khiến bà ngoại càng lạ lùng và khác biệt hơn, như một phép nhiệm màu. Khi tôi được đặt tên giống bà, một phần nhỏ của điều kỳ diệu ấy hẳn cũng được truyền sang tôi – hoặc chí ít là tôi hy vọng như vậy.

Vào mùa đông khi tôi lên sáu, gia đình tôi đến thăm bà để cùng ngắm sao chổi. Tôi còn nhớ mình ngồi ngoài sân, được quấn trong một chiếc chăn ấm và ngồi trên đùi bà. Háo hức và hứng khởi thì nhiều, song tôi không thấy được bao nhiêu, chỉ có một vệt sáng chớp nhoáng vụt qua bầu trời đúng vào lúc chúng tôi rã rời vì chờ đợi. Bà ngoại Halley im lặng ôm chặt lấy tôi, như thể chỉ mình bà chiêm ngưỡng được toàn bộ chuyển động của vì tinh tú. Rồi bà nắm lấy tay tôi, thì thầm “Nhìn kìa Halley, sao chổi đấy!” . Sau đó, mẹ một mực khẳng định là không ai thấy được sao chổi vì nó quá mờ, trong khi bà ngoại lại khăng khăng mẹ tôi đã sai. Phép màu của bà là thế. Bà có thể tạo ra bất cứ thứ gì và khiến chúng nhảy múa lung linh trong mắt người khác – kể cả sao chổi.

Dạo gần đây, mẹ tôi hay lo âu bất chợt, thường xuyên gọi điện đến khu nhà của bà và mỗi tối, sau khi tôi đã ngủ, bố mẹ thường nán lại bàn bạc với nhau khá lâu. Bản thân tôi khá bận rộn với chuyện học hành, việc làm thêm và Macon, vì đang bị cấm túc nên tôi chỉ có thể trốn ra để gặp cậu ấy vài giờ, vào bất cứ lúc nào có thể. Tôi còn phải đi đến bác sĩ cùng với Scarlett, phải đọc Cẩm nang chăm sóc thai nhi và phải luôn miệng nhắc cậu ấy nạp thêm nhiều vitamin C, ăn nhiều cam và ớt xanh. Chúng tôi phải sắp xếp lại cuộc sống, đó là cách duy nhất. Thêm vào đó, vài tuần sau scandal của Scarlett thì tên bạn trai xỏ khuyên lưỡi hầm hố của Elizabeth Gunderson lại chuyển sang cặp kè với Maggie, bạn thân nhất của cô nàng, và thế là chuyện của chúng tôi lập tức trở thành xưa cũ.

Thế nhưng mỗi khi bà ngoại gọi đến, giọng đầy hãi sợ, tôi lại thấy gương mặt mẹ tràn đầy lo âu, khiến nó trở thành biểu hiện thường trực của mẹ. Những lúc như thế, tôi thường nhớ lại khoảnh khắc chờ đợi sao chổi ấy, khi bà ấp ôm tôi trong lòng, khẽ thủ thỉ “Nhìn kìa Halley, sao chổi đấy!” . Rồi tôi nhắm mắt lại, cố gắng mường tượng ra điều đó nhưng chẳng thể thấy gì. Chẳng thấy gì cả.

Đến giữa tháng Mười một, chuyện hẹn hò của cô Marion với chú Steve vẫn chưa có dấu hiệu trục trặc. Mối quan hệ của họ song hành cùng chuyện giữa tôi và Macon. Và dần dà, chú ấy bắt đầu lộ rõ một khía cạnh khác của mình.

Mọi chuyện bắt đầu từ lần hẹn thứ ba hoặc thứ tư gì đó. Chúng tôi đang ngồi trên cầu thang trò chuyện với Steve trong lúc đợi cô Marion thì Scarlett nhìn thấy và huých tôi. Chú ấy thường mặc áo sơ mi kín cổ, thắt cà-vạt chỉn chu cùng quần tây hoặc quần kaki và đi giày tây. Tuy nhiên, có một sự khác biệt vào tối hôm ấy. Lấp ló dưới cái cà-vạt, quanh cổ chú Steve là một sợi dây nhỏ màu nâu, xỏ một vật tròn bằng bạc.

- Không phải mề đay đâu. – Tôi thì thầm với Scarlett trong lúc chú Steve vào phòng vệ sinh. – Chỉ là một vật trang sức thôi, Scalett.

- Rõ ràng nó là một cái mề đay. – Scarlett lặp lại. – Cậu có thấy biểu tượng trên đó không? Nó là một đồng xu quái dị của chiến binh đấy.

- Thôi được rồi đấy!

- Thật mà, tớ nói cậu biết Halley ạ, chẳng bao lâu nữa cậu sẽ thấy được một bộ mặt thật của chú ấy thôi. Nó đang dần lộ ra từng chút một đấy.

- Scarlett, chú ấy là kế toán cơ mà.

- Chú ấy là một gã quái dị. – Scarlett thu người lại. – Rồi cậu sẽ thấy.

Cô Marion vừa đi xuống lầu vừa đeo bông tai, dây khóa áo đầm cô ấy hở một nửa đầy trễ nải. Cô ấy dừng lại trước mặt chúng tôi và quay lưng về phía con gái, Scarlett không đợi nhắc đã đứng lên kéo khóa giúp mẹ mình.

- Mẹ này, để ý cổ của chú ấy nhé! – Cậu ấy nói nhỏ khi chúng tôi nghe tiếng nước xối trong toilet và cánh cửa nhà vệ sinh xịch mở.

- Để ý cái gì? – Cô Marion lớn tiếng hỏi lại trong khi chú Steve đã ra đến góc phòng, khoác áo vào gọn ghẽ, sợi dây vẫn còn lấp ló sau lớp cổ áo.

- Chẳng có gì đâu. – Scarlett lầm bầm. – Chúc hai người buổi tối vui vẻ.

- Cảm ơn con. – Cô Marion tựa người hôn lên má Steve. – Mà này, cái ví của mẹ đâu rồi nhỉ?

- Trên bàn ăn ạ. – Scarlett nói ngay, và cứ thế tuôn ra. – Còn chìa khóa thì ở ngay kệ bếp.

- Tuyệt vời! – Cô Marion đi khuất rồi quay lại với chiếc ví khoác hờ trên cánh tay. – Thôi, chúc hai đứa buổi tối vui vẻ. Đừng có nghịch ngợm quá và nhớ đi ngủ đúng giờ đấy! – Kể từ khi đi lại với chú Steve, người chiến binh cổ xưa, cô Marion phần nào đã cư xử ra dáng một bà mẹ hơn trước. Nhưng cũng có thể là vì giờ cô ấy sắp thành bà ngoại. Ôi, chúng tôi cũng không chắc nữa!

- Vâng ạ. – Tôi đáp lại.

- Ơ, phải tin tưởng chúng con một chút chứ. – Đột nhiên Scarlett lên tiếng. – Đâu phải tụi con định trốn ra đường để có thai hay phá phách đâu chứ.

Cô Marion nhíu mày nhìn Scarlett. Chú Steve vẫn chưa hề hay biết về đứa bé. Hiện mới có một tháng rưỡi và theo cô Marion thì còn quá sớm để cho chú ấy biết chuyện. Thật ra, ngay tự trong thâm tâm mình, cô chưa chấp nhận được chuyện này. Cô Marion hiếm khi nhắc đến đứa bé và nếu có thì trong câu nói luôn bắt đầu hoặc chấm dứt bằng cụm từ: “cho người khác làm con nuôi”. Chú Steve đứng đợi ngay cửa ra vào, miệng cười hiền, không có chút dáng dấp một chiến binh. Tôi nhìn chú, hy vọng có một pha biến hình thành Dracula bất ngờ ngay trước mắt chúng tôi như truyền thuyết thường thêu dệt.

- Cô chú đi chơi vui nhé! – Tôi gọi với theo khi họ ra khỏi nhà, cô Marion vẫn còn khá bực bội không thèm nhìn lại còn chú Steve lại vẫy tay vui vẻ.

- Gớm! – Scarlett càu nhàu – Đồ quái đản.

- Chú ấy đâu phải người xấu.

Scarlett dựa lưng vào bậc cầu thang và lấy tay xoa xoa bụng. Cái thai chưa quá lớn nhưng tuần này, trông Scarlett đã bắt đầu khang khác, dù rằng sự thay đổi đó không hiển hiện rõ rệt. Nó giống như những thước phim ngắn gồm hàng loạt hình ảnh tĩnh mà chúng tôi được xem trong giờ Sinh học về quá trình nở hoa của cây cối. Trong đó, từng khoảnh khắc nhỏ bé được ghi lại, nhỏ bé đến mức mắt thường chẳng thể nhận thấy: một hạt nảy mầm, từng chút từng chút một, đâm mình nhô lên từ lòng đất, lớn dần, rồi chậm rãi nở từng cánh. Dưới con mắt bình thường, ta chỉ biết rằng bỗng một ngày, hoa lá bất ngờ rực rỡ trong khi trước đó chẳng hề có dấu hiệu gì. Nhưng sự thực thì đó là một quá trình liên tục không ngừng: những hạt đậu chờ đợi đến ngày được bung ra, được lột xác.

Cameron Newton có lẽ là nhân vật duy nhất trong trường tôi có vẻ kỳ quặc hơn Scarlett vào mùa thu năm đó. Mãi đến tháng Chín cậu ta mới chuyển đến và đó là một điểm khó khăn cho cậu ấy, chưa kể đến ngoại hình ốm yếu, gầy gò và làn da xanh xao. Bên cạnh đó, Cameron thường mặc đồ đen, khiến cậu ta lúc thì trông như xác chết, lúc lại đầy sinh lực – nói chung là còn tùy vào tâm trạng của người ngắm. Nói tóm lại, cậu ấy phải trải qua một quãng thời gian khá cam go, vì vậy cũng không có gì phải ngạc nhiên nếu như Cameron là học sinh được chú ý nhất trong lớp Thiết kế ứng dụng của cô Pate.

Tôi vắng mặt một buổi học để đi khám sức khỏe định kỳ, và đến hôm sau thì Cameron Newton đã ngồi ở bàn chúng tôi.

- Nhìn kìa. Là Cameron Newton đấy. – Tôi thì thầm với Scarlett.

- Ừ. Cậu ấy tốt lắm. Tớ rủ cậu ấy ngồi chung với mình đấy. – Scarlett vui vẻ nói và đưa tay vẫy cậu ấy. Cameron lập tức lúng túng và bắt đầu cúi gằm mặt xuống lọ hồ dán.

- Cái gì? – Tôi hỏi lại nhưng quá trễ rồi. Cameron đã nhìn lên. Cậu ta mặc một chiếc áo cổ lọ và quần jeans màu đen. Ngay cả đôi mắt trông cũng thật u ám.

- Cameron, đây là Halley. – Scarlett nói và kéo ghế ngồi xuống.

- Chào cậu. – Tôi mở lời.

- Xin chào. – Thật ngạc nhiên, giọng nói Cameron quá trầm và ngữ điệu thật hấp dẫn so với dáng người nhỏ thó. Cậu ta để móng tay rất dài, đang bận rộn nhào nặn cục đất sét với một con dao.

- Cameron đã sống ở Pháp năm năm. – Scarlett kể trong lúc chúng tôi ngồi xuống, lôi bảng chữ cái ra và bắt đầu sắp xếp. – Bố cậu ấy là một đầu bếp nổi tiếng đấy.

- Thế à? – Tôi hỏi lại. Cameron vẫn còn khiến tôi hơi ngại ngùng. Cậu ấy mang trong người sự dị biệt và lạc lõng, biểu hiện thường thấy khi người ta phải sống trong cô quạnh quá lâu. – Còn gì nữa không?

Scarlett đá vào chân tôi dưới gầm bàn và liếc xéo như thể tôi vừa giễu cợt Cameron, dù tôi không hề có ý đó. Cameron đứng phắt dậy, kéo ghế ra và đi thẳng đến phòng vật liệu. Dáng đi của cậu ấy trông hệt như một ông già, chậm rãi và khoan thai. Khi cậu bước qua cái máy cắt giấy, một đám nữ sinh đang ngồi ở đó bỗng nhiên cười phá lên và tôi chắc chắn rằng tràng cười đó đủ lớn để nhắm vào cậu ấy.

- Cậu không hề nói với tớ rằng cậu chơi với Cameron Newton. – Tôi hạ giọng.

- Tớ nghĩ chẳng có gì to tát. – Scarlett đáp lại, tiếp tục cắt chữ O. – Vả lại, tớ thấy chuyện này rất thú vị. Hôm qua, tớ đi học một mình, con nhỏ Maryann Lister với đám bạn của nó cứ rì rầm to nhỏ về tớ. Tớ nghe thấy hết cả. Ừ thì lại về chuyện đứa bé và Michael, rồi nào thì tớ là một con nhỏ hư hỏng, vân vân và vân vần. Ôi đủ thứ hết!

- Bọn nó dám nói thế à? – Tôi hỏi và quay sang tìm Maryann Lister. Cô nàng tỏ vẻ lúng túng nhìn lại cho đến khi tôi quay mặt đi chỗ khác.

- Bây giờ, tớ chẳng thèm bận tâm nữa. – Scarlett tiếp tục. – Tuy nhiên, ngày hôm qua tớ bực bội cả buổi sáng, và rất buồn vì cậu nghỉ học. Chỉ có một mình tớ ở đây thôi. Thế là tớ khóc rấm rứt ngay trong lớp, ban đầu tớ cố giấu nhưng không được. Ngay lúc tớ buồn nhất thì Cameron kéo ghế qua và đặt mấy cục đất sét của cậu ấy lên bàn mình. Chúng có hình của Maryann Lister.

- Cái gì?

- Maryann Lister. Thật đấy! Nguyên một cái đầu nhỏ xíu với mặt mũi đàng hoàng, chi tiết đến kinh ngạc. Cameron còn chấm cả cái nốt ruồi nhỏ trên cái cằm hình nộm, cả hoa văn của cái áo khoác nó mặc nữa cơ.

- Nhưng sao cậu ta phải làm thế? – Tôi vừa nói vừa liếc nhìn Cameron, lúc này tiếp tục rảo bước giữa lối đi trong phòng vật liệu như tìm kiếm thứ gì, tay cầm con dao khắc lên đất sét.

- Tớ không biết nữa. Tớ chỉ nói với cậu ấy là cái mô hình rất đẹp, cậu ấy cũng chẳng đáp lại gì, chỉ lẳng lặng đưa cho tớ quyển sách Lịch sử. Tớ không biết thế là ý gì nên trả lại. Ngay lúc đó thì tụi Maryann bắt đầu bàn tán gì đó về tớ và Cameron, kiểu như chúng tớ thật xứng lứa vừa đôi hay sao ấy!

- Sao mà tớ ghét con nhỏ đó quá! – Tôi nghiến răng.

- Này, cậu phải nghe tớ kể hết đã! – Scarlett cười lớn. – Xong rồi Cameron trịnh trọng đặt cục đất sét hình Maryann chính giữa bàn, ngay trước mặt bọn tớ, giơ cao quyển sách rồi thả xuống đè bẹp luôn con nhỏ. Như thế này này. – Scarlett vừa nói vừa minh họa, và một tiếng “phịch” vang lên. – Buồn cười kinh khủng, Halley ạ. Thật đấy, tớ cười đến vỡ bụng. Tớ lấy quyển sách đập đập vào cục đất sét, rồi đến phiên cậu ấy, cứ thế cả hai đập liên hồi vào phiên bản nhão nhoẹt của Maryann đến khi nó bẹp dúm. Tớ bảo với cậu rồi, Cameron cũng nghịch ngợm lắm đấy.

- Nghịch ngợm? Tớ không dám chắc nữa. – Lúc này Cameron đã ra khỏi khu vực để giấy màu, tay cầm một cục đất sét. Với mỗi bước đi, cậu ấy đều nhìn thẳng về phía trước như thể đang duyệt binh vậy.

- Sự thật là vậy, rồi cậu xem. – Scarlett khẳng định chắc chắn, trong khi Cameron gần bước đến bàn chúng tôi.

Thế là tôi dành các tiết học Thiết kế ứng dụng còn lại của tuần đó để làm quen với Cameron. Scarlett nói đúng, cậu ấy rất hài hước , kiểu quái quái và tỉnh bơ như không, khiến bạn nghĩ là chẳng có gì đáng cười, dù rất muốn. Ngoài ra, cậu ấy cực kỳ sáng tạo, cực kỳ tài năng. Chỉ mất vài phút, cậu ấy đã có thể dùng đất sét tạo hình khuôn mặt của bất kỳ ai, chính xác đến từng chi tiết. Cameron nặn khuôn hình Scarlett rất đẹp, từ những đường nét trên khuôn mặt cho tới nụ cười và mái tóc gợn sóng phủ ngang vai. Còn tôi thì cười mỉm, khuôn mặt nhỏ và giống như thật. Cách khắc họa thế giới trong những tiểu phẩm của cậu ấy thật hoàn hảo và tuyệt diệu.

Scarlett đã chào đón Cameron như thế, cũng như cô ấy đã chào đón tôi trước đây. Và Cameron cũng dần chiếm một vị trí trong lòng tôi, từ giọng nói nhỏ nhẹ, trầm tĩnh, đến những phục trang đen thui và giọng cười lập dị. Không có bất kỳ một điểm tương đồng nào giữa tôi và cậu ấy ngoài trừ một điều duy nhất: Scarlett. Và chỉ chừng đó đã đủ gắn kết chúng tôi thành bạn bè của nhau.

Mẹ tôi vẫn còn ác cảm với Macon. Chẳng qua là cậu ấy chưa làm gì quá đáng để mẹ “chính thức” phản đối, dù bà không thích. Ví dụ như những cuộc điện thoại vào mỗi tối: nếu tôi không nghe, Macon sẽ gác máy ngay mà không để lại lời nhắn nào. Đôi khi cậu ấy còn gọi đến vào rất khuya, và tôi nhấc máy ngay hồi chuông inh ỏi đầu tiên. Tuy nhiên, mẹ tôi cũng đã kịp nhấc máy và tôi nghe thấy tiếng mẹ ngái ngủ trong điện thoại.

- Để con nghe. – Tôi nói và mẹ sẽ đặt điện thoại xuống. Còn Macon cười lớn trong khi tôi trốn sâu vào chăn, cố thì thầm để mẹ không nghe thấy.

- Mẹ cậu ghét tớ. – Macon nói. Cậu ấy có vẻ rất khoái chí.

- Mẹ còn chưa biết cậu mà.

- Ừ nhỉ. Ai đã biết tớ thì chắc chắn sẽ thích tớ thôi, giống như cậu ấy.

Tôi có cảm giác như Macon lại đang cười nhăn nhở ở đầu dây bên kia.

Vì chuyện này, cộng với những sự thất vọng khác, mẹ tôi quyết định “thi hành” thêm nhiều quy định giới nghiêm mới.

- Không điện thoại điện thiếc gì sau mười giờ ba mươi nữa. – Một buổi sáng mẹ tôi ngồi uống cà phê và nói. – Bạn bè con nên giữ ý hơn đấy.

- Nhưng con đâu thể ngăn họ gọi đến?

- Cứ nói là điện thoại trong phòng con bị gỡ ra. – Mẹ tôi xẵng giọng. – Được chưa?

- Vâng.

Nhưng dĩ nhiên những cuộc gọi vẫn tiếp tục. Tôi hiếm khi được ngủ một giấc dài trọn vẹn vì lúc nào tay cũng đặt sẵn lên chiếc điện thoại. Tất cả chỉ là để được chúc Macon ngủ ngon, dù tôi cũng không biết chắc khi đó cậu ấy đang ở đâu nữa.

Ngoài ra còn vài sự việc khác. Ví dụ như vào ban đêm, Macon biết tôi không thể gặp cậu ấy nhưng vẫn lái xe ngang nhà và bấm còi hoặc dừng lại ngay biển đỗ đối diện cửa sổ phòng tôi. Tôi biết Macon đợi mình, nhưng tôi không thể ra ngoài. Và tôi cũng biết Macon hiểu rõ điều đó, nhưng cậu ấy vẫn đến và vẫn chờ đợi.

Thế là tôi nằm trên giường mỉm cười một mình, lòng yên tâm với ý nghĩ cậu ấy vẫn đang nhớ về tôi trong vài phút ngắn ngủi trước khi nhấn ga và rồ máy vọt đi. Mỗi lần như thế, ánh đèn bên nhà ông hàng xóm Harper tò mò lại bật sáng và ông ta chui ra cổng nhà, nhìn xuống đường. Tôi không biết tại sao Macon lại hành động như thế, cậu ấy biết rõ tôi đang lao đao và bố mẹ thì rất nghiêm khắc – điều mà có lẽ cậu ấy chưa bao giờ trải nghiệm. Mỗi khi nghe tiếng còi hoặc tiếng bánh xe rít trên mặt đường, dạ dày tôi luôn quặn lên, nửa vui mừng nửa lo âu. Còn mẹ thì ngẩng mặt lên khỏi quyển sách, tờ báo hoặc đĩa thức ăn, nhìn tôi như thể chính tôi đang ngồi sau tay lái, chính tôi nhấn ga và cũng chính tôi đã làm những người hàng xóm xung quanh giật mình.

Chính vì vậy mà tôi phải nghĩ ra đủ trăm phương ngàn kế để trốn ra mỗi khi Macon đến đón. Tôi thường ra ngoài vào tối cuối tuần, đi về phía nhà Scarlett rồi băng qua lùm cây phía sau hồ bơi nhà để gặp Macon đang đợi ở đường Spruce. Xuất phát từ điểm hẹn đó, chúng tôi sẽ đi khắp mọi nơi. Và dần dà, tôi bắt đầu biết thêm được từng chút một về cuộc sống của cậu ấy.

Một buổi tối, sau nhiều giờ lái xe loanh quanh, chúng tôi dừng lại ở một bãi đỗ gần chân đồi mênh mông. Nó nằm đối diện một tòa nhà cao tầng được trang hoàng bởi những cột đèn nối tiếp nhau. Tầng cao nhất của tòa nhà toàn những ô cửa sổ bằng kính. Từ đây, tôi có thể thấy nơi đó, người ta đi qua đi lại, tay cầm cốc rượu và cười nói như thể bữa tiệc đang diễn ra trên đỉnh của thế giới vậy.

- Đây là đâu? – Tôi hỏi khi cả hai bước ra khỏi xe và đi bộ lên đồi, trèo lên một cầu thang xoắn ốc với tay vịn bằng sắt dày.

- Là nhà tớ. – Macon trả lời vừa lúc chúng tôi dừng lại ngay cánh cửa kính mở ra một hành lang với những bức tường màu kem có đèn tỏa xuống.

- Nhà cậu? – Macon giữ cửa cho tôi. Khi tôi bước vào bên trong, ấn tượng đầu tiên của tôi là mùi tử đinh hương như mùi nước hoa mà mẹ tôi vẫn dùng trong những dịp đặc biệt lan tỏa khắp nơi. Tôi nhìn đồng hồ, đã mười một giờ sáu phút, chỉ còn năm mươi bốn phút nữa là tới giờ giới nghiêm của tôi.

Macon dẫn tôi vào thang máy và lấy mu bàn tay đập vào cái nút hình tam giác. Cánh cửa mở ra sau một tiếng bíp nho nhỏ. Thang máy được lót thảm dày màu xanh đậm, thậm chí còn có cả một băng ghế ngay phía góc tường cho bạn ngồi đợi nếu phải chờ quá lâu. Macon nhấn vào chữ P và thang máy bắt đầu chuyển động.

- Cậu sống ở tầng áp mái sao? – Tôi quay xung quanh, thấy hình ảnh mình phản chiếu qua bốn mặt thang máy được ốp bằng kính.

- Ừ, mẹ tớ “xí” được mà. – Macon đáp, mắt nhìn lên màn hình hiển thị số tầng trên đầu tôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe Macon nhắc đến mẹ mình. Tất cả những gì tôi biết đều chỉ từ cách đây nhiều năm, khi bà còn sống cùng khu với tôi. Mẹ của Macon kinh doanh bất động sản và đã kết hôn ít nhất ba lần, trong đó lần cuối cùng là với một người đang phát triển chuỗi nhà hàng đồ nướng.

- Tuyệt thật. Cái thang máy này còn đẹp hơn cả nhà tớ! – Tôi xuýt xoa. Tiếng bíp lại vang lên lần nữa khi cánh cửa mở hướng ra một hành lang hẹp khác. Khi bước ra, xuyên qua một cánh cửa khép hờ, tôi thoáng thấy nhiều người đang đi lại, tiếng cười nói hòa lẫn với tiếng chạm cốc và tiếng đàn dương cầm.

- Phía này. – Macon nói rồi dẫn tôi quẹo qua một cái góc, vào một nơi nhìn giống phòng thay đồ hoặc phòng của người làm. Cậu ấy thò tay vào túi lấy ra một chiếc chìa khóa, mở cửa và đưa tay bật đèn. Rồi Macon đứng yên, giữ cửa mở, đợi tôi.

- Nhanh nào, Halley. Mình không có nhiều thời gian đâu. – Macon đưa tay chụp vào bên hông tôi, ngay đúng điểm nhột.

Căn phòng sơn màu xanh nhạt và khá nhỏ. Có một chiếc giường đơn gọn gàng, một chiếc tủ nhỏ và một cái bàn mới toanh. Phía sau cánh cửa đối diện căn phòng, tôi có thể nghe thấy tiếng ai đó đang chơi đàn dương cầm vọng lại. Trên ghế, ngay phía cuối giường là một chiếc ti-vi, có thứ gì đó đang đính ngay lên màn hình.

- Đây là phòng cậu à? – Tôi nói, tiến lại vài bước để xem thứ được đính lên màn hình ti-vi. Trông như thể một bức hình vậy.

- Ừ, chờ ở đây nhé, tớ quay lại ngay! – Macon trả lời rồi mở hé cánh cửa đi qua phòng tiệc, lách người qua và đóng lại.

Tôi ngồi xuống giường, đối diện với cái ti-vi và chồm người về phía trước nhìn vào bức ảnh. Khung cảnh thật quen thuộc và tôi bất ngờ nhận ra người trong hình chính là mình! Tôi, tại khe vực Grand Canyon cùng với mẹ – bức ảnh mà chúng tôi vẫn treo ngay trên kệ lò sưởi. Nhưng phần của mẹ không ở đó, tấm hình đã được cắt gọn ghẽ ngay chỗ khuỷu tay đang dang ra của tôi.

Tôi cầm lấy bức ảnh và lật qua lật lại. Nó vẫn ở trong tay tôi khi Macon trở lại, mang theo hai ly nước và một đĩa thức ăn nhẹ.

- Đây, hy vọng cậu sẽ thích trứng cá muối. Thật ra thì nó là món ngon nhất ở ngoài ấy rồi.

- Cậu lấy cái này ở đâu vậy? – Tôi hỏi Macon và giơ bức ảnh lên trước mặt cậu ấy.

Macon nhìn tôi, chắc chắn là cậu ấy có đỏ mặt, dù chỉ trong tích tắc:

- Ở chỗ kia.

- Là ở đâu? – Thật ra, nếu giờ này về nhà và trông thấy khung ảnh trên kệ lò sưởi trống trơn trong khi mọi thứ xung quanh vẫn nguyên vẹn thì tôi cũng không mấy ngạc nhiên. Macon là như thế, lúc nào cũng bí ẩn.

- Ở chỗ kia. – Cậu ấy lặp lại, đưa ly rượu và đĩa thức ăn cho tôi.

- Ở đâu vậy, Macon. Nói đi mà! – Tôi nài nỉ.

- Của Scarlett. Tớ lấy nó, à không, mượn nó từ Scarlett. Bức ảnh gắn ngay trên cái gương trong phòng cô ấy.

- Ồ, cậu có thể xin tớ một tấm mà. – Tôi lại lật bức ảnh qua lại.

- Ừ nhỉ. – Macon đáp, không thèm nhìn tôi và búng một miếng bột nhỏ vào miệng.

- Macon, thật vui vì cậu thích tớ nhiều đến mức phải lấy trộm ảnh của tớ. – Tôi nói và hôn lên má cậu ấy, nơi mềm mịn thơm mùi kem cạo râu dễ chịu.

Bên ngoài, tiếng nhạc vẫn vang lên dìu dặt. Trong căn phòng nhỏ hẹp này của Macon, chúng tôi giống như hai vị khách không mời.

- Cậu đâu có ở đây thường xuyên nhỉ? – Tôi hỏi.

- Ừ. – Macon ngồi thẳng dậy uống cạn ly rượu của mình. – Mà sao cậu biết?

- Căn phòng trông không giống như có người hay lui tới. Vậy cậu thường ở đâu, Macon?

- Tớ à, trước đây thì tớ ghé chỗ Michael suốt. Nhà cậu ấy rất rộng, ông bố thường đi xa triền miên, còn bà mẹ thì không ngó ngàng gì đến con cái. Vả lại tớ cũng có nhiều bạn, cả nhiều chỗ khác nữa. Cậu biết rồi đấy.

- Ừ. – Tôi đáp, nhưng rõ ràng là tôi không hề biết gì cả. Lãng du nay đây mai đó là điều hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi nhớ đến căn phòng của mình, nơi đầy ắp vật lưu niệm, tranh ảnh, huy chương và sách vở… tất cả những thứ đánh dấu sự trưởng thành của tôi qua từng năm tháng. Đó là nơi duy nhất trên đời này mà tôi biết mình sẽ mãi mãi thuộc về nó.

Tôi ngước lên và thấy Macon đang ngắm nhìn mình. Cậu ấy cúi xuống hôn lên môi tôi. Tôi khẽ nhắm mắt tựa người xuống giường, cảm nhận cánh tay cậu ấy đang vòng qua người mình. Tiếng nhạc nền nhè nhẹ và âm thanh nói cười từ căn phòng bên kia vọng qua, lúc trầm lúc bổng, và Macon cứ thế hôn tôi đắm đuối và chiếc giường bỗng trở nên vô cùng êm ái. Tấm khăn trải giường cũng có mùi hương quen thuộc của cậu ấy, ngòn ngọt phảng phất mùi khói thuốc. So với một người không mấy kinh nghiệm như tôi, nụ hôn của Macon có vẻ thành thạo nhưng tôi cố không nghĩ đến những đối tượng cậu ấy từng “thực hành” trước đây.

Sau những giây phút lâng lâng, tôi nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang trên tay Macon: đã mười hai giờ chín phút.

- Mình phải đi thôi, muộn quá rồi. – Tôi nói vội và đứng lên. Chiếc áo sơ mi của tôi đã nhăn nhúm xộc xệch còn môi thì bắt đầu cảm thấy tê cứng.

- Muộn? - Macon hỏi lại, giọng lúng túng.

- Quá giờ giới nghiêm của tớ! Trời ơi, tớ chết chắc rồi! – Tôi chụp lấy cái túi và mang vội giày vào chân, trong khi cậu ấy bước xuống bật cái đèn cạnh giường ngủ. Cậu ấy đã tắt đèn từ lúc nào thậm chí tôi cũng không để ý.

Chúng tôi chạy vội ra thang máy xuống dưới bãi, nhảy vào xe Macon và quẹo gấp qua các ngã tư, phớt lờ cả đèn báo. Cuối cùng cả hai cũng về đến khu nhà tôi vào lúc mười hai giờ hai mươi mốt phút. Qua các lùm cây, tôi đã nhìn thấy ánh đèn từ nhà Scarlett – nơi lẽ ra tôi phải có mặt ở đó suốt buổi tối này.

- Tớ phải đi đây. Cảm ơn nhé! – Tôi nói và mở cửa xe.

- Ngày mai tớ sẽ gọi cho cậu! – Macon gọi với ra qua cửa sổ. Thậm chí tôi có thể cảm giác được cậu ấy đang cười mỉm.

- Ừ! – Tôi trả lời, cười đáp lại. Những giây phút quý giá đang dần cạn kiệt. Tôi vẫy chào Macon lần cuối rồi đi tắt qua lùm cây vào hồ bơi nhà Scarlett, phía sau lưng còn nghe thấy Macon bấm còi khi chuẩn bị lái xe đi.

Tôi bước vòng ra phía trước hiên, mở cửa đi vào nhà bếp. Scarlett đang ngồi ngay bàn ăn vừa đọc cuốn Cẩm nang chăm sóc thai nhi vừa nhấm nháp kem.

- Cậu về trễ quá! – Scarlett nói với theo khi tôi đi ngang qua nhà bếp, tiến thẳng về phía cửa trước. Trên cằm cậu ấy còn dính cả một vệt kem sô-cô-la.

- Tớ biết. – Tôi nói và đưa tay lau vệt kem giúp cậu ấy. – Mai gặp nhé!

- Ừ! – Scarlett lại tiếp tục chúi mũi vào quyển sách, còn tôi mở cửa và bước ra lối đi, băng qua đường.

Mẹ đang đứng đợi tôi trong nhà, ngay cạnh cầu thang. Ngay vừa khi đóng cửa, tôi đã nghe tiếng xe Macon rít lên phía ngoài. Thật là không đúng lúc chút nào!

- Con về trễ. Đã quá giờ quy định rồi. – Mẹ nói bằng một giọng lãnh đạm.

- Vâng, con biết ạ. – Tôi ngần ngừ, cố nghĩ ra một lý do nào đó. – Scarlett và con xem phim quên mất cả thời gian.

- Con không ở nhà Scarlett. Mẹ thấy con bé ngồi một mình trong phòng khách suốt buổi tối. Con nói dối giỏi lắm đấy, Halley. – Đây rõ ràng là một lời khẳng định của mẹ.

Phía bên ngoài, tiếng động cơ xe của Macon vẫn còn gầm gừ. Cậu ấy không biết là như thế càng khiến tình hình của tôi tồi tệ hơn.

- Con đã ở đâu? Con đi đâu với cậu ta, phải không? – Mẹ tôi hỏi.

- Chúng con chỉ đi ra ngoài chơi thôi. Có gì đâu mà mẹ lo.

- Hai đứa đã đi đâu? – Mẹ tôi to tiếng hơn. Bố lập tức xuất hiện ngay trên đầu cầu thang và nhìn xuống dò xét.

- Không đi đâu hết. – Tôi trả lời mẹ và nắm chặt tay lại, trong khi tiếng động cơ xe của Macon phía bên ngoài cứ mỗi lúc một ầm ĩ hơn. – Chúng con ở nhà cậu ấy, chúng con chỉ đi chơi chút thôi mà.

- Cậu ta sống ở đâu?

- Mẹ, chuyện đó đâu quan trọng.

Vẻ mặt mẹ tôi lạnh băng, nhưng nếu nhìn kỹ thì chẳng khác gì một cơn bão vừa đi ngang qua.

- Đối với mẹ nó rất quan trọng. Gần đây mẹ không hiểu cái gì đã nhập vào người con, Halley. Lén lút xuống nhà lẻn ra ngoài. Nói dối ngang nhiên trước mặt mẹ. Tất cả đều do Macon mà ra, một đứa con trai mà con không hề giới thiệu với bố mẹ, người mà bố mẹ không biết một chút gì cả.

Nỗi bất bình của tôi mỗi lúc một tích tụ nhiều hơn. Tôi nhắm mắt lại.

Giọng nói của mẹ cũng to hơn, cố trấn áp tôi. Trong góc phòng này, nó dường như vang vọng khắp chung quanh tôi.

- Tại sao con lại nói dối bố mẹ, hả Halley? Sao con lại không trung thực như vậy? – Câu hỏi của mẹ khiến tôi không còn cảnh giác nữa, mẹ không giận dữ, không bực bội mà chỉ buồn bã. Tôi ghét như vậy.

- Mẹ không hiểu đâu. – Tôi đáp lại. – Con không muốn…

Và rồi tiếng động cơ xe hơi nổi lên nghe chói tai và càng lúc càng lớn. Trời ạ, Macon muốn tôi thê thảm hơn hay sao vậy, cậu ấy không hiểu gì cả. Tiếng bánh xe kêu rít ken két trên đường, rồi Macon bắt đầu lao vút đi và đến ngay góc phố thì bấm còi inh ỏi. Không cần nhìn qua cửa sổ tôi cũng biết chắc đèn nhà hàng xóm Harper sẽ bật sáng và ông ấy – trong bộ đồ ngủ cùng đôi dép lê – đang nguyền rủa đám khói bụi mù mịt mà Macon để lại.

- Con nghe thấy gì chưa? – Mẹ tôi hỏi và quay sang nhìn bố, bố vội vã gật đầu. – Cậu ta có thể đâm chết người nếu cứ lái xe cái kiểu đó. Đâm chết người đấy! – Giọng mẹ tôi run run pha chút sợ hãi, giống hệt giọng bà ngoại Halley vậy.

- Mẹ, để con…

- Đi ngủ ngay, Halley. – Bố tôi nói khẽ và bước xuống cầu thang. Bố ôm lấy vai và dìu mẹ vào nhà bếp, đụng nhẹ vào cái đèn khi họ đi ngang qua. – Đi đi con.

Tôi bước lên cầu thang, trống ngực vẫn còn đập thình thịch. Khi đi ngang tấm gương đặt ở hành lang, tôi khẽ soi mình vào đó, một cô gái tóc xõa ngang vai, mặc chiếc áo khoác jeans bạc màu và đôi môi hồng lên vì những nụ hôn. Tôi đối diện với hình ảnh của mình và hình ảnh ấy sẽ khắc sâu vào tâm trí của tôi: hình ảnh một đứa con gái đã đi quá xa vào đêm hôm đó ở hồ Topper, đứa con gái thuộc về Macon Faulkner, đứa con gái đã làm tan vỡ trái tim của mẹ mình mà không bao giờ hối hận. Chính là tôi.