← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XII

Bà ngoại hiện đang được chăm sóc và điều trị tại viện dưỡng lão Evergreen. Ở đây, một vài người phải nằm liệt giường còn đa số vẫn có thể tự đi lại được. Khi bố con tôi đến nơi, một vài bà cụ đang điều khiển những chiếc xe lăn máy đi xuôi dãy hành lang, lướt ngang chúng tôi, và kẹp chặt những chiếc bóp vào giữa hai đùi. Nơi này có mùi trái cây hăng hắc, như thể người ta dùng quá nhiều nước xịt phòng rẻ tiền. Dường như không có chỗ nào trên tường không treo đồ trang trí cho dịp lễ Tạ ơn: từ hình nộm gà tây, hình ảnh đoàn người hành hương, đến cả vỏ ngô nữa. Tất cả khiến ta cảm thấy những dịp lễ thế này là bắt buộc và quan trọng biết bao với nơi đây, đơn giản vì ngoài chúng ra, người ta chẳng còn gì khác để trông đợi.

Tôi ngủ gần hết chuyến đi vì bố muốn chúng tôi dậy lúc bốn giờ sáng, sớm hơn tất cả để có thể “xí” phần xuống máy bay đầu tiên. Bố tôi là thế, làm việc gì cũng thích đi trước mọi người. Phỗng tay trên người khác luôn khiến bố thích chí, ví dụ như qua mặt người lái xe. Có một lần, bố vừa lái xe vừa liên tục chỉnh đài để theo dõi cuộc đua của chính mình, còn tôi thì điên tiết vì không được nghe nhạc.

Đêm trước khi khởi hành, tôi gần như thức suốt, nằm canh tiếng xe bên ngoài. Tôi đã đinh ninh là Macon sẽ ghé qua, dù chỉ để bóp còi hay tạm biệt lần cuối. Cậu ấy biết chuyện bà ngoại khiến tôi buồn, nhưng Macon không thoải mái vì nó bởi bấy lâu nay, thứ gọi là “gia đình” quá xa lạ với cậu ấy. Tôi không thích để mọi việc giữa chúng tôi ở vào tình trạng hiện tại, dang dở và không đâu vào đâu. Tôi đã hình dung cảnh cậu ấy, giữa đám bạn tôi từng có dịp quen biết, đang đàn đúm ở những nơi tôi từng đến. Tôi cũng tự trấn an mình về tình cảm Macon dành cho tôi, và rằng cậu ấy sẽ không tìm kiếm một người khác chỉ để thỏa mãn những gì tôi không chịu trao đi.

Điều đầu tiên khiến tôi chú ý khi bước vào căn phòng của bà ngoại là sắc vóc của bà. Thật nhỏ bé. Bà tôi nằm trên giường, mắt khép hờ, một tia nắng từ cửa sổ khẽ rọi xuống mặt. Trông bà tựa một con búp bê được làm bằng sứ chứ không phải bằng da thịt, hệt như con búp bê Alexander bà tặng tôi.

- Ô kìa. – Mẹ tôi đứng dậy từ chiếc ghế bên cửa sổ. Đến lúc này tôi mới thấy mẹ. – Chuyến đi thế nào?

- Tốt đẹp ạ! – Tôi đáp trong lúc mẹ bước đến hôn chào tôi.

- Ổn cả em ạ! – Bố tôi đáp, tay quàng qua hông mẹ. – Chuyến đi khá suôn sẻ. Bọn anh đã tiết kiệm tối đa thời gian nhờ đi trước mọi người trong mọi tình huống.

- Mình ra ngoài để bà ngoại nghỉ ngơi nào! – Mẹ nói khẽ. – Đêm qua, bà đã rất mệt mỏi.

Ngoài hành lang, một toán phụ nữ ngồi xe lăn vừa di chuyển vừa cười nói. Kế bên phòng bà, qua khe cửa hở, tôi nhìn thấy một người nằm yên, với ống thở gắn vào mũi và một chiếc máy giúp duy trì sự sống ở bên cạnh. Căn phòng đó tối u u, mành cửa sổ đóng chặt.

- Mọi việc thế nào? – Mẹ hỏi trong lúc kéo tôi lại gần. – Em nhớ hai bố con quá!

- Còn em thì sao? – Bố hỏi lại, cả hai bố con đều nhận thấy nét mệt mỏi và hốc hác trên mặt mẹ, như thể chỉ cần một thời gian ở đây cũng đủ để khiến con người ta già đi rất nhiều.

- Em ổn mà. Mẹ đã đỡ nhiều rồi, mỗi ngày lại khá hơn một chút. – Mẹ trả lời, tay vẫn ôm cứng lấy quanh tôi. Tôi không thích cử chỉ đó của mẹ, hai tay tôi gồng lên, duỗi cứng đơ dọc bên người, nhưng chỉ đành ngoan ngoãn đứng yên vì biết rằng điều đó rất quan trọng với mẹ. Và cứ sau một vài câu, mẹ lại bóp vai tôi như để khẳng định.

Khi cả gia đình quay lại phòng, tôi chỉ trò chuyện cùng bà ngoại Halley được ít phút. Thoạt đầu, bà mở mắt và khi nhìn thấy tôi, trông bà bỡ ngỡ, không một dấu hiệu cho thấy bà nhận ra tôi, đứa cháu gái yêu quý của bà. Và tôi trở nên hoang mang. Lẽ nào tôi đã biến thành người khác, một Halley khác, và mọi đặc điểm trên người tôi, giọng nói, cử chỉ đều đã biến dạng, khiến tôi không còn là chính mình nữa?

- Là Halley đó mẹ! – Tiếng mẹ tôi khẽ vang lên từ bên kia giường. Mẹ nhìn tôi đầy khích lệ như để thay thế hành động ôm cứng vai tôi lúc nãy, cố gắng truyền cho tôi sự lạc quan dù thực tế mọi chuyện không tốt đẹp như vậy.

Và rồi trong nét mặt đầy lo âu đã in hằn dấu vết tuổi tác ấy, bà ngoại nhận ra khuôn mặt đang cúi xuống nhìn mình.

- Halley! – Bà ngoại nói, giọng điệu quở trách hệt như tôi là bạn chứ không phải cháu của bà, hệt như tôi đang đùa ghẹo bà vậy. – Cháu cưng có khỏe không?

- Cháu khỏe ạ, cháu nhớ bà lắm bà ơi!

Tôi vừa nói vừa cầm lấy bàn tay nhỏ bé và gầy guộc của bà, khẽ quấn những ngón tay mình vào đó, cảm thấy rõ những đốt xương cục cựa khi bà cố cầm chắc tay tôi. Tôi nhẹ nhàng nắm chặt tay bà ngoại như thầm nói cho bà biết rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi.

Sau đó, cả nhà cùng ngồi trông cho bà ngoại dùng bữa với gà tây và rau câu trong khay thức ăn nhựa màu cam nhiều họa tiết. Sảnh lớn của trung tâm Evergreen giờ đây đầy ắp các thân nhân đang thực hiện “chuyến hành hương” của riêng họ. Khi bước ngang phòng kế bên, người thân của ông lão phải dùng máy hô hấp đang túm tụm quanh giường bệnh, khẽ trò chuyện. Ở ngoài hành lang, một bé gái mặc yếm, mang giày hiệu Mary Janes đang nhảy lò cò với những ô gạch bông lót sàn. Mùi của nơi này cũng bắt đầu khang khác lúc sáng, đó là mùi nước xịt phòng cùng hàng trăm loại mùi nước hoa và keo xịt tóc mà thế giới bên ngoài mang đến; tất cả bỗng chốc hòa trộn vào nhau.

Đến tối, cả nhà tôi cùng nhau đến một khách sạn dưới phố để dùng bữa, mừng lễ Tạ ơn. Chỉ cần trả hai mươi đô-la cho một phần buffet trọn gói, và từng hàng từng hàng những chiếc bàn chất đầy thức ăn nóng hổi, từ khoai tây nghiền, nước sốt thịt, sốt nam việt quất và cả bánh bí đỏ sẽ thuộc “quyền xử lý” của bạn. Mọi người đến đây đều ăn mặc tươm tất và dùng bữa tại những chiếc bàn ăn xung quanh, khung cảnh này khiến tôi nghĩ đến những mảnh ghép rời ra của cả một đại gia đình. Bố tôi chén một suất ăn nhiều gấp ba một phần thường, còn mẹ nói chuyện liên tục, dẫu nét mặt thoáng vẻ mệt mỏi, hằn rõ dấu vết của sự thiếu ngủ. Mẹ nói không ngừng nghỉ, nói suốt bữa ăn, như thể càng nói nhiều thì buổi tối nay sẽ càng khác lạ, càng thú vị hơn những buổi lễ Tạ ơn trước đây. Mẹ hỏi tôi đủ thứ cốt để kéo dài câu chuyện: về Scarlett, về chuyện học hành, về việc làm thêm. Còn bố thì tường thuật cặn kẽ câu chuyện dông dài về mấy fan cuồng nhiệt thái quá gần đây, đã “xả thân” làm đủ thứ chuyện hết sức “trời ơi đất hỡi” ngay giữa khu trung tâm chỉ để xin cho bằng được tấm vé của buổi biểu diễn ca nhạc. Tôi chỉ chăm chăm vào chỗ khoai nghiền mềm nhão, lòng băn khoăn không biết Macon đang làm gì, có được ăn gà tây hay vẫn chỉ là những thứ thức ăn nhanh nhạt nhẽo trong căn phòng trống trải, với một bữa tiệc xa hoa khác ở phía bên kia căn hộ. Tôi nhớ cậu ấy chẳng khác gì nhớ món bột khoai tây dẻo mẹ vẫn thường làm vào mỗi dịp lễ Tạ ơn.

Chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà bà ngoại, tôi vẫn ở căn phòng quen thuộc tôi từng ở vào những dịp hè trước đây, còn bố mẹ nghỉ ở phòng dành cho khách, với bốn vách đều là giấy dán tường hoa văn màu xanh dương. Căn nhà chẳng thay đổi mấy. Con mèo vẫn béo ú, ống nước vẫn rên rỉ vo vo hằng đêm. Và mỗi lần đi qua cái chuông nơi cầu thang, tôi lại theo thói quen, khẽ chạm vào nó, như muốn loan báo qua giếng trời đến khắp mọi nơi trong nhà về sự hiện diện của mình.

Khi tối đến, tôi đọc lại vài quyển tạp chí cũ mình từng mang đến nhà ngoại hoặc gọi cho Scarlett. Cậu ấy đã chu đáo chuẩn bị cả một bữa ăn truyền thống thịnh soạn cho cô Marion, chú Steve “Dracula” và cả Cameron (đã từng ăn cùng gia đình trước đó), và lẽ dĩ nhiên là không quên kể cho tôi về trang phục của chú Steve. Đó là một bộ đồ mà Scarlett chỉ có thể gọi một cách lịch sự là áo giám mục: quần thụng không khác gì váy, giày ống kim loại khua loảng xoảng và một cái mề đay toòng teng trên cổ.

- Đồ gì? – Tôi hỏi lại sau khi nghe Scarlett mô tả bộ phục trang.

- Thì là áo giám mục. – Scarlett đáp tỉnh queo. – Kiểu như một cái áo thun lớn thật lớn, dây rút thòng xuống tới tận hông.

- Chú ấy không đóng thùng sao?

- Không hề. – Scarlett đáp. – Lão ta cứ để vậy mà đi, và tớ thề là mẹ chẳng nhận thấy gì.

Điều này làm tôi thích thú:

- Thế cậu có nói gì không?

- Tớ nói gì bây giờ? Tớ mời lão vào và đưa cho lão một bát đậu. Hình như mẹ tớ si mê lão ấy rồi. Lão có khỏa thân đến nhà thì chắc mẹ cũng chẳng quan tâm đâu.

Tôi cười phá lên:

- Thôi nào!

- Thật đấy! – Scarlett thở dài. – Nhưng ít ra bữa tối khá suôn sẻ. Cameron nói chuyện huyên thuyên và mọi người khen lấy khen để món khoai của tớ, mặc dầu tớ không được đụng đến nó. Lưng tớ mỏi nhừ mà lại còn buồn nôn. Từ tận tuần trước kìa. Chẳng hiểu trong bếp có thứ gì cứ bốc mùi mãi. Tớ kể với cậu chưa nhỉ?

- Ừ, cậu kể rồi. Mà món khoai nhuyễn nhừ hay vẫn hơi bị cộm? – Tôi hỏi.

- Hả?

- Khoai tây ấy. Còn chút lộm cộm gì không hay nhuyễn trăm phần trăm?

- Dĩ nhiên là có cộm chứ. – Scarlett đáp lại. – Nhuyễn quá làm sao ngon được.

- Tớ biết mà. – Tôi bảo. – Vậy để dành cho tớ một ít nhé?

- Ừ, tớ sẽ để dành cho cậu. – Scarlett đáp, giọng hơi xúc động nhưng rồi lại trấn tĩnh ngay lập tức.

Vào cuối tuần, tôi đã dần thích nghi hơn với tình trạng của bà, và tất nhiên, chỉ vài chuyến thăm viếng ngắn ngủi và việc khẽ cầm tay bà chẳng giúp bà được mấy. Sau ca mổ, khắp người bà đau đớn và bà vẫn còn hơi lẫn. Lắm lúc, bà gọi tôi là Julie và còn kể tôi nghe rất nhiều câu chuyện rồi sau đó đột ngột im lặng, để tất cả lại rơi vào thinh không. Những lúc như vậy, đã có mẹ luôn bên cạnh, cố gắng kết thúc những câu nói dang dở của bà, cố xoa dịu mọi chuyện.

Trong căn phòng của tôi ở nhà bà ngoại có một chiếc tủ cũ làm bằng gỗ thơm với hình vẽ những bông hồng được sơn trên cửa. Một buổi tối buồn chán, tôi tò mò mở tủ ra, bên trong những chiếc hộp, đựng nào ảnh, thư từ, và nhiều món lặt vặt khác. Đó là những thứ mà bà ngoại tôi, vì không nỡ vứt bỏ những món đồ cũ nên đã giữ lại. Tôi tìm thấy trong số đó những tấm ảnh lúc bà ở vào tuổi tôi, trong bộ đầm dạ hội đứng cùng một nhóm các cô gái khác, tất cả họ đều nở những nụ cười vui vẻ. Tóc bà ngoại dài và sẫm màu, được quấn gọn trên đầu theo kiểu Pháp cổ điển, với những bông hoa đan cài trên chiếc vương miện. Một chiếc hộp khác lại đựng đầy những tấm thiệp khiêu vũ, trên mỗi tấm thiệp đó lại đầy rẫy tên đăng ký của các chàng trai, mỗi cái tên đi liền với một điệu vũ đã được đánh số sẵn (37) . Ngoài ra còn một tấm ảnh cưới của ông bà ngoại, hai người đang cúi xuống bên cạnh chiếc bánh cưới, tay trong tay cùng con dao, chuẩn bị cắt bánh. Tôi cảm thấy thích thú kỳ lạ. Tôi giở đọc những lá thư bà viết cho bà cố trong chuyến “xuất ngoại” đầu tiên của bà, về cuộc gặp gỡ giữa bà và một chàng trai gốc Ấn tại công viên. Nội dung thư chi tiết đến mức từng lời người ấy nói, đến cả sắc xanh của bầu trời, bà tôi đều tỉ mỉ kể lại. Trong những bức thư khác, bà lại kể về ông ngoại và tình yêu bà dành cho ông. Sau khi bà cố mất, những lá thư này lại được đóng dấu bưu điện, buộc dây cẩn thận và trở về bên bà ngoại.

Tôi xuống dưới lầu và nhìn thấy mẹ đang ngồi trong chiếc ghế xanh lớn mà bà thường ngồi, bên bàn ăn cạnh cửa sổ, nhâm nhi một tách trà. Mẹ không nghe tiếng tôi bước vào nên chợt giật mình khi tôi chạm khẽ vào vai mẹ.

- Ơ, sao con còn thức khuya thế này? – Mẹ hỏi.

- Mẹ xem này, con vừa tìm được mấy thứ thú vị của bà ngoại này.

Tôi nói và nhẹ nhàng ngồi xuống bên mẹ. Tôi cho mẹ xem tấm thiệp khiêu vũ mà tôi giấu sau cổ tay, cùng tấm ảnh cưới của ông bà ngoại. Trong ảnh, hai người đang khiêu vũ ngang qua ban nhạc. Tôi khoe luôn với mẹ tấm thiệp báo tin tôi chào đời (38) được bà giữ gìn cẩn thận trong một chiếc phong bì. Hàng giờ trôi qua, mẹ con tôi cùng nhau mải mê lần giở và nhìn ngắm lại quãng đời của bà ngoại trong những chiếc hộp và phong bì. Tất cả được sắp xếp gọn ghẽ như thể đó là dành riêng cho tôi, một kho báu bí mật trên hành trình tìm kiếm của tôi vậy.

- Ôi, có tin được không chứ? Bà từng trẻ trung đến thế này! – Mẹ thốt lên, tay cầm tấm ảnh cưới, để dưới ánh đèn soi cho rõ. – Nhìn sợi dây chuyền bà ngoại đang đeo này Halley. Đó là quà cưới mà bà cho mẹ. Của hồi môn đấy con.

- Năm mười chín tuổi, bà ngoại phải lòng một chàng trai Ấn Độ. – Tôi kể với mẹ. – Họ gặp nhau vào dịp hè tại một công viên ở Luân Đôn. Và suốt hai năm sau đó, ông ấy vẫn viết thư cho bà đó mẹ.

- Thật à? – Mẹ nói khẽ, những ngón tay thư thả luồn qua tóc tôi. – Bà có kể cho mẹ nghe bao giờ đâu nhỉ.

- Mẹ biết “sự tích” cái chuông bà treo ở cửa sổ giữa cầu thang không? Lúc còn trong quân ngũ và trú đóng ở Tây Ban Nha, ông ngoại đã mua nó ngoài chợ trời đấy.

- Thế à?

- Mẹ cũng đọc những lá thư này đi! – Tôi nói và nhìn xuống một dòng chữ trên tấm thiệp: “Chào mừng con đến thế gian, Halley”.

Mẹ mỉm cười với tôi, lâu lắm rồi giữa chúng tôi mới có những khoảnh khắc thoải mái hiếm hoi thế này.

- Halley à, mẹ rất tiếc về buổi tối hôm trước ở nhà hàng. – Mẹ nói, tay khẽ vuốt mái tóc tôi. – Mẹ biết con vẫn chưa hiểu lý do vì sao bố mẹ không cho phép con tiếp tục gặp Macon. Nhưng một ngày nào đó, con sẽ hiểu rằng điều đó là tốt cho con.

- Không, con sẽ không bao giờ hiểu đâu. – Tôi đáp.

Trong chốc lát, khoảng cách giữa chúng tôi lại rộng ra, nhanh chóng như lúc nó gần khép lại mới cách đây vài tiếng.

Tôi cảm nhận được điều đó. Và hẳn mẹ tôi cũng vậy. Mẹ thở dài và từ từ thả tóc tôi ra.

- Muộn rồi, con đi ngủ đi nhé!

- Vâng. – Tôi đứng dậy và bước về phía cầu thang, ngang qua một trang báo địa phương cũ. Bà ngoại đã mang đi đóng khung trang ấy, và trên đó vẫn còn rõ hàng tít: SAO CHỔI HALLEY LẠI GHÉ THĂM.

- Con còn nhớ hồi sao chổi xuất hiện, con nằm trong lòng bà ngoại và hai bà cháu đã cùng ngắm sao chổi. – Tôi nói, trong lúc mẹ tiến lại từ đằng sau và nhìn qua vai tôi.

- Halley, lúc đó con còn quá nhỏ và sao chổi thì rất mờ. – Mẹ hồn nhiên nói. – Làm sao mà quan sát nó được chứ.

Thế đấy, nói ra những lời ấy mới dễ dàng với mẹ làm sao. Đến cả ký ức cũng không thuộc về tôi nữa.

Nhưng tôi biết mẹ đã sai. Tôi đã nhìn thấy sao chổi. Rõ ràng như chính gương mặt và bàn tay, cả trái tim tôi.

Sáng hôm sau, gia đình tôi khóa cửa nhà bà, cho mèo ăn và để lại tiền cho người chăm sóc thú cưng. Sau đó, chúng tôi đến thăm bà lần cuối trong kỳ lễ này. Evergreen thật yên tĩnh, khách khứa đã ra về từ sớm, tất nhiên lại “dẫm đạp” lên nhau. Bố tôi chào qua bà một tiếng rồi ra bãi đỗ, đứng ngay cạnh xe và nhìn về phía xa lộ, đầu cúi xuống để tránh gió. Tiếng gió xào xạc không chạm đến được bên trong tòa nhà, do những cánh cửa sổ đã được đóng kín, cố định với lý do an toàn là trên hết.

Tôi ngồi thật lâu bên chiếc giường của bà ngoại, nắm lấy tay bà, còn mẹ đứng bên kia giường bệnh. Bà có vẻ cứng cáp, nhưng cũng chỉ là bề ngoài. Tôi biết bà rất mệt mỏi, vì thuốc làm bà choáng và bà phải nhắm nghiền mắt lại. Khi hôn lên má bà, tôi cảm nhận làn da bà khô cứng và khi tôi bước lùi lại, tay bà đặt lên má tôi, những ngón tay mát mịn. Bà mỉm cười nhưng không nói. Và tôi bỗng nhớ đến cô gái trẻ ngày nào, với những đóa hoa hồng xinh xắn cùng chiếc váy dạ hội. Và bất giác, tôi mỉm cười đáp lại.

Tôi đứng ngoài hành lang, ngay dưới chiếc đồng hồ tích tắc tích tắc, lưng dựa vào tường đợi mẹ tạm biệt bà ngoại. Từ bên ngoài, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng mẹ trầm đều ở bên trong. Ở căn phòng kế bên, người đàn ông với những chiếc ống chỉ còn lại một mình, chiếc máy bên cạnh giường kêu tít tít trong bóng tối. Trên màn hình, không có gì ngoài những đường điện tâm khô khốc.

Khoảng hai mươi phút sau, tôi bước trở lại về phía cánh cửa khép hờ. Mẹ quay lưng về phía tôi, một tay đặt lên tay bà. Bà ngoại đã ngủ, hơi thở đều và nhẹ. Và mẹ, sau cả một kỳ nghỉ cuối tuần với đủ các phương pháp trấn an mọi người như khẽ bóp vai tôi, luôn mỉm cười và gắng gượng trò chuyện…, mẹ đang khóc. Đầu mẹ rũ xuống, tựa vào thanh giường, hai vai rung rung trong làn nước mắt. Còn bà ngoại vẫn say ngủ, không hay biết gì. Tôi sợ, cùng một cảm giác như nỗi sợ hãi vào cái đêm tôi trở về nhà từ trại hè Sisterhood và bắt gặp Scarlett đang khóc trước hiên nhà.

Cuộc đời là thế. Có những điều ta tin tưởng tuyệt đối, như một trò chơi mà ta biết mình không thể nào thua cuộc. Để rồi khi chúng đột ngột quay lưng lại, rời xa khỏi nơi ta cố công nâng niu cất giữ, niềm tin của ta bị tổn thương – cho dù nó có vững vàng đến đâu.