6. Kích động vua chúa 7. Kiên tâm bền chí
“Tiếp xúc, phán đoán có nhiều cách, hoặc dùng binh, hoặc dùng chính, hoặc dùng hỉ, hoặc dùng nộ... Dùng nộ là kích động.”
Người khôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ thuyết phục chư hầu, mà còn dùng cách kích động, nói khích vua chúa.
Sau khi bỏ Tân Giả, Lưu Bị rút quân về Giang Hạ. Lúc này lực lượng Lưu Bị vẫn còn rất yếu, nên Khổng Minh sang Giang Đông thuyết phục Tôn Quyền khởi binh đánh Tào Tháo.
Chu Du thống lĩnh binh quyền Đông Ngô còn lưỡng lự chưa muốn đánh.
Khổng Minh cười mà nói rằng:
- Thôi này! Tôi có một kế không cần đến khiêng dê gánh rượu, không phải nộp nước, dâng ấn, cũng không cần phải thân sang sông. Chỉ sai một người sứ, một chiếc thuyền nhẹ đưa có hai người sang sông. Tào Tháo được hai người ấy, thì lập tức trăm vạn quân cùng cởi áo giáp, cuốn cờ mà lui trở về.
Chu Du mới hỏi:
- Dùng hai người nào mà làm cho lui được quân Tào?
Khổng Minh nói:
- Đất Giang Đông mà bỏ hai người ấy, bất quá như cây to rụng mất một cái lá, kho lớn mất một hạt thóc, thế mà Tào Tháo được hai người ấy, lập tức mừng mà đi.
Du hỏi:
- Hai người là hai người nào?
Khổng Minh nói:
- Khi tôi còn ở Long Trung, có nghe đồn Tháo mới dựng một cái đền ở trên sông Chương Hà, gọi là đền Đồng Tước, trang hoàng rất lịch sự, rồi kén những con gái đẹp thiên hạ chứa đầy trong ấy. Tháo vốn đồ hiếu sắc, nghe tin bên Giang Đông có ông Kiều Công, có hai người con gái, con lớn là Đại Kiều, con nhỏ gọi là Tiểu Kiều, hai người cùng nhan sắc đẹp như dáng cá lặn nhạn sa, hoa cười, trăng tỏ. Tháo có thề rằng chỉ nguyện hai điều: một là bình được bốn bể dựng nghiệp Hoàng Đế, hai là lấy được hai chị em nàng Kiều ở Giang Đông, đem vào ở đền Đồng Tước, làm vui tuổi già, thì dầu chết cũng không tiếc đời nữa.
Bởi vậy tôi nghĩ rằng nay Tháo dù đem quân trăm vạn, chực úp Giang Nam nhưng thực chỉ vì có hai người con gái ấy. Đô đốc sao không tìm Kiều công, đem nghìn vàng mua lấy hai người con gái, sai người tống cho Tào Tháo, thì Tháo mãn nguyện tất lui quân về. Thế cũng là kế Phạm Lãi dâng Tây Thi cho Ngô Vương.
Du mới hỏi:
- Khổng Minh nói chuyện ấy có gì làm chứng không?
Khổng Minh nói:
- Con nhỏ Tào Tháo là Tào Thực, tự Tử Kiến, có tài đưa ngọn bút thành văn hay. Tháo có sai Thực làm một bài phú, gọi là phú Đồng Tước Đài. Trong bài phú ấy chỉ nói về nhà Tào lên làm Thiên Tử thì lấy hai nàng Kiều ấy.
Du hỏi:
- Bài phú ấy ông có nhớ không?
Khổng Minh nói:
- Tôi yêu bài ấy văn hay lắm, nên cũng thuộc.
Du xin đọc cho nghe, Khổng Minh lập tức đọc, thì trong bài có mấy câu này:
Lập song đài ư tả hữu hề!
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phụng
Lãm nhị Kiều ư Đông Nam hề!
Lạc chiêu tịch chi dữ cộng.
(Nghĩa là: Dựng hai đền ở bên tả hữu; có đền Ngọc Long có đền Kim Phụng.
Nhốt hai nàng Kiều ở bên nước Đông Ngô, để sớm chiều cùng vui vầy)
Chu Du nghe xong bài ấy, đỏ mặt tía tai lên, đứng dậy trỏ tay về Bắc mà mắng rằng:
- Thằng giặc Tào này láo quá!
Khổng Minh vội vàng ngăn rằng:
- Ngày xưa chúa rợ Thuyền Vu nó hay xâm bờ cõi nhà Hán. Thiên Tử còn phải đem công chúa gả cho nó để cầu hòa, nay tiếc làm chi hai người con gái thứ dân.
Du nói:
- Ông chưa rõ đó thôi. Đại Kiều là vợ của Tôn Bá Phù(1), Tiểu Kiều là vợ Du.
Khổng Minh giả vờ giật mình mà nói rằng:
- Tôi thật không biết, nói vô tình, xin xá tội cho tôi.
Chu Du nói:
- Ta thề cùng thằng giặc già, hai người không sống cả đôi.
Khổng Minh ngồi trong lều tranh biết khắp việc thiên hạ, sao lại không biết chuyện hai nàng Kiều là vợ của Ngô chúa với Chu Du? Ấy là cái mưu khích tướng mà làm rất khéo đó thôi. Đến nổi Chu Du vốn người cũng đầy mưu trí mà không sao nhận ra được.
(Trích Tam quốc chí)
Chú thích:
(1) Vua nước Ngô
7. Kiên tâm bền chí
“Anh hùng có lúc sa cơ, khốn tới cùng ắt biến.”
Người có chí lớn thật sự, gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình, có thể chịu đựng, nếm trải những nỗi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi. Chí khí như vậy mới có thể làm nên sự nghiệp lớn lao.
Câu chuyện trích sau đây cho ta thấy rõ điều ấy:... Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngoài dạo cảnh.
Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê. Trương Lương lửng thửng quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn. Bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rớt chiếc giày xuống nước, rồi gọi Trương Lương mà nói:
- Này tiểu tử, hãy lại đây lượm chiếc giày cho ta.
Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đạo cốt, biết không phải người thường, liền bước đến, cúi lượm chiếc giày trao cho ông lão rất kính cẩn.
Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rơi xuống, bảo Trương Lương nhặt. Cứ thế đến ba lần. Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn. Ông lão mỉm cười, nhìn Trương Lương nói:
- Thằng bé này có thể dạy được đây!
Liền chỉ vào gốc cổ thụ gần đó nói:
- Năm ngày nữa, ngươi đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý. Chớ sai hẹn!
Trương Lương cúi đầu vâng lời.
Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y theo lời hẹn đến chỗ gốc cây, thấy ông lão đã ngồi chờ sẵn nơi đó.
Ông già nhìn Trương Lương mắng:
- Đã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm đó phải đến cho sớm.
Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương đã thức dậy ra gốc cây, ngờ đâu ông lão lại cũng ngồi ở đó rồi.
Ông lão mắng:
- Sao ngươi biếng nhác như thế? Hôm nào cũng để ta đợi chờ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.
Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ra nơi gốc cây ngồi chờ.
Trống canh năm vừa điểm, ông lão lểnh mểnh đến. Trương Lương sụp lạy nói:
- Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.
Ông lão nói:
- Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tập, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho ngươi ba quyển binh thư, trong đó đủ kỳ mưu, thần toán, dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hàn báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem lại thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:
- Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.
Ông lão nói:
- Ba năm nữa, nơi phía Đông thành Đại Cốc có cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá màu vàng [1],tức là ta đó.
Trương Lương nghe nói ngạc nhiên ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương trở về nhà Hạng Bá mở sách ra xem, thấy đó là bộ “Thái Công Binh Pháp”, ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.
(Trích Hán Sở tranh hùng)
Chú thích:
(1) Đá màu vàng, chữ Hán là Hoàng Thạch, nên về sau Trương Lương vẫn gọi ông lão là Hoàng Thạch Công