8. Uốn ba tấc lưỡi 9. Thoái binh chế binh
“Lời lẽ khôn khéo, giả dối, lợi hại khôn tả.”
Người khôn ngoan giỏi lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát, kích thích người ta hăng hái hoặc dẫn dụ đối phương mắc lừa. Muốn được vậy, phải tô điểm cho thật khéo và nói năng phải hùng hồn, đầy sức thuyết phục và dẫn dụ.
“Bái Công (Lưu Bang) dẫn quân đến cửa Quan Trung thấy bọn Hàn Vinh (tướng nhà Tần) đã đặt quân canh phòng rất cẩn mật, khó vượt qua được, liền hội chư tướng bàn luận.
Trương Lương nói:
- Quân Tần mạnh lắm, chưa thể đánh ngay được. Tướng Tần tuy cầm quân nhưng cũng rõ được lẽ tồn vong trong thiên hạ. Nay hãy tạm dừng binh lại, sai người lên đỉnh núi cạnh cửa quan cắm cờ đỏ để làm thanh thế, rồi sai Lục Giả, Lịch Tự Cơ sang làm thuyết khách, lấy lẽ phải trái dụ hàng. Đợi cho quân địch chểnh mảng, không phòng bị, ta sẽ thừa cơ tấn công thì mới thắng.
Bái công theo lời, cho quân lên núi cắm cờ la liệt, rồi sai Lục Giả và Lịch Tự Cơ sang du thuyết.
Lục Giả và Lịch Tự Cơ sang yết kiến Hàn Vinh, Chu Mạnh.
Lục Giả nói:
- Nay quân Tần vô đạo, trăm họ khổ sở, thiên hạ đua nhau dấy nghĩa. Lòng dân đã muốn tất trời phải theo. Nếu tướng quân biết thương dân, không muốn cho dân lâm vào cảnh binh đao tang tóc, xin mở cửa thành đầu hàng, Bái Công sẽ tâu với vua Nghĩa Đế phong tướng quân làm Vạn hộ hầu thì danh tiếng không mất.
Hàn Vinh nói:
- Tôi ăn lộc nhà Tần, lẽ nào lại bội nghĩa. Tiên sinh hãy tạm trú nơi nhà tôi, để tôi nghĩ lại đã.
Lục Giả nhận lời trở về dinh.
Hàn Vinh đem việc ấy bàn với chư tướng. Tướng lĩnh có kẻ bảo hàng, người lại bảo không. Bởi thế Hàn Vinh do dự, bỏ bê việc quân.
Hôm sau, Tự Cơ yết kiến Hàn Vinh nói:
- Tướng quân đã suy xét kỹ chưa?
Hàn Vinh thẩn thờ nói:
- Các tướng không cùng một ý, biết làm thế nào?
Tự Cơ cười nhạt đáp:
- Cảm ơn tướng quân! Cứ như thiện cảm của tướng quân, dẫu tướng quân không hàng, chúa công tôi cũng kính mến. Tôi có đem theo một trăm nén vàng để tạ ơn tướng quân.
Hàn Vinh từ chối:
- Tôi với Bái Công là đối thủ, lẽ nào lại nhận lễ vật?
Tự Cơ nói:
- Tướng quân không nhận lễ tức là tướng quân tuyệt tình với chúa công tôi. Sau này chư hầu kéo quân đến lấy thành tất tướng quân không giữ nổi, chừng ấy tướng quân muốn gây ân nghĩa với chúa công tôi cũng khó lắm. Chi bằng hãy tạm nhận cái lễ này để phòng bất trắc về sau, tướng quân nên nghĩ kỹ.
Hàn Vinh bấm trán đắn đo một lúc, rồi thuận tình nhận lễ vật.
Tự Cơ trở về thuật lại với Bái Công:
- Tướng Tần tuy không chịu hàng song lòng lưỡng lự, việc canh phòng không còn nghiêm ngặt nữa.
Trương Lương nói:
- Thế là cơ hội đã đến!
Liền gọi Tiết Ân và Trần Bái đến bảo:
- Hai người dẫn vài mươi quân kỵ lẻn vào con đường tắt sau chân núi, đốt lửa sau thành làm kế nghi binh. Ta cùng Phàn Khoái đem đại binh đánh vào mặt thành, chúng sẽ tưởng quân ta chặn hai đầu, tất sợ hãi bỏ thành chạy.
Các tướng làm y kế. Quả nhiên quân trong thành hoảng hốt chạy tán loạn.
Hàn Vinh từ khi nhận lễ, không nghĩ đến việc đánh giặc nữa, cả ngày chỉ uống rượu làm vui.
Khi nghe tiếng quân la ó vang trời, mặt trước và sau lửa cháy đỏ rực, tưởng quân Sở đã vào được thành rồi vội khiến quân mở cửa thành ùa ra thoát chạy.
Hàn Vinh chạy đến Lam Điền mới dám đóng quân. Ngày hôm sau, chỉnh đốn quân ngũ kéo đến định quyết chiến. Nhưng Trương Lương đã đoán trước cho hai đạo binh phục sẵn. Hàn Vinh vừa đến nới, bị phục binh nổi dậy, đánh một trận tơi bời, không còn manh giáp, chạy thẳng về Hàm Dương cấp báo.
Bái Công kéo binh thẳng đến Bái Thượng, bấy giờ vào mùa Đông, tháng Mười, năm Ất Tỵ.
9. Thoái binh chế binh“Có thuật lui binh, có phép chế binh.”
Một người bình tĩnh, thận trọng, luôn làm điều thiện, đức độ cao cả, thì dù một thân một mình đi vào hang ổ đối phương, cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể, không dám làm hại. Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống, không có gì đáng gọi là hiểm nguy.
“Hạng Vũ, sau khi chiếm được toàn cõi nước Tần liền chọn ngày lành tháng tốt lên ngôi, xưng hiệu Tây Sở Bá Vương, cai trị 9 quận nước Sở, đóng đô ở Bành Thành, tôn Hoài Vương lên làm Nghĩa Đế, dời sang Giang Nam.
Tây Sở Bá Vương phong cho Bái Công (Lưu Bang) làm Hán Vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện
Bái Công lòng bối rối không an. Chư tướng thấy vậy hậm hực nói:
- Hán Trung là đất nhà Tần dùng để đày tội nhân, nay Bá Vương phong chúa công vào trấn nơi đó, chẳng khác nào muốn giam lỏng. Ấy là mưu Phạm Tăng muốn hại chúa công đó.
Phàn Khoái nổi giận nói:
- Phạm Tăng khi chúng ta thái quá. Tôi xin liều chết đem thân chống lại, quyết không nghe lời Bá Vương.
Bái Công cũng tỏ ý hằn học:
- Công ta rất lớn, diệt nhà Tần, thâu đất Quang Trung, lẽ ra phải được làm vua nước Tần, đóng đô ở Hàm Dương mới đáng, sao bị đày vào nơi lam sơn chướng khí, bốn bề núi non, rừng rậm, chịu sao nổi được.
Tiêu Hà vội can:
- Làm vua ở Hán Trung tuy xấu nhưng còn hơn mất cả sự nghiệp! Chịu khuất một người mà thu được thiên hạ, đó là gương vua Thang, vua Vũ đời xưa vậy. Xin đại vương cứ vào Hán Trung, tích thảo đồn lương, chiêu hiền đãi sĩ, lấy Ba Thục làm căn cứ, mộ thêm quân. Ngày kia kéo ra đánh Tam Tần, thì làm gì chẳng thu được thiên hạ?
Trương Lương cũng nói:
- Thục tuy là tội địa nhưng trong có núi non hiểm trở, ngoài có sông ngòi bao quanh, tiến thì có thể chiếm được thiên hạ, lui thì có thể giữ được biên cương. Đó thực là chỗ đất dụng võ. Đại vương nên vui lòng nhận lấy. Nếu tỏ ý bất mãn tất Bá Vương tìm cách ám hại. Hơn nữa Phạm Tăng là kẻ mưu sâu ta không nên chống đối.
Hán Vương (Lưu Bang) bùi ngùi nghe theo và nói:
- Nếu không có tiên sinh giải bày tôi đã lầm việc lớn.
Lịch Tự Cơ nói:
- Chúng ta vào Hán Trung có ba điều lợi: Thứ nhất, đất Thục hiểm trở, xa cách Trung Nguyên, không ai rõ được thực hư. Thứ nhì, trong lúc Đại Vương có công bị Bá Vương bạc đãi, tất lòng dân mến chuộng. Thứ ba, chúng ta có đủ thời giờ, hoàn cảnh để tạo lấy thời thế. Có ba điều lợi như thế lo gì không gồm thâu được thiên hạ sau này.
Hán Vương mừng rỡ liền chọn ngày lành khởi hành.