Chương 4
Nhưng tôi đã lầm.
Tôi nhìn xuống giếng, mặc dù cái giếng chỉ sâu có sáu mét, nhưng tối hôm đó trời không có trăng và tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là đường nét lờ mờ của cái mền. Hoặc có thể đó là cái vỏ gối. Tôi ngả nắp giếng về chỗ cũ, chỉnh lại nó cho ngay ngắn, rồi đi trở vào trong nhà. Tôi cố đi theo đúng con đường hai bố con tôi đã mang cái bọc ghê rợn đó ra khỏi nhà, cố tình di chân thật mạnh để hy vọng xóa sạch mọi vết máu. Đến sáng, tôi sẽ thu dọn cẩn thận hơn.
Tối hôm đó, tôi khám phá ra một điều mà phần lớn những người khác không bao giờ phải trải nghiệm qua: giết người là tội ác, giết người là sự nguyền rủa (tất nhiên là với tâm trí và tinh thần của con người ta, thậm chí dù những kẻ vô thần đúng và chẳng có thế giới bên kia nào hết), nhưng giết người cũng là vô số việc phải làm. Chúng tôi lau chùi cọ rửa trong phòng ngủ cho tới khi lưng đau ê ẩm, rồi chuyển sang lối đi bên ngoài, xuống phòng khách, và cuối cùng là ngoài cửa. Cứ mỗi lần chúng tôi nghĩ đã xong việc, một trong hai người lại phát hiện ra một vết máu nữa. Khi bình minh bắt đầu hé rạng ở phía đông, Henry đang quỳ gối xuống lau những kẽ hở giữa các tấm ván lát sàn phòng ngủ, và tôi cũng ở tư thế tương tự dưới phòng khách, kiểm tra lại tấm thảm trải sàn của Arlette từng ly từng tý một, tìm kiếm xem còn vết máu nào có thể làm chúng tôi bại lộ hay không. Ở trên tấm thảm không có vết máu nào - về chuyện này chúng tôi đã gặp may - nhưng ngay cạnh thảm có một vệt máu bằng cỡ đồng xu. Tôi lau sạch nó, rồi quay lại phòng ngủ của tôi để xem Henry xoay xở ra sao. Con trai tôi lúc này dường như đã có vẻ khá hơn, và cả tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nghĩ cảm giác đó có được nhờ ánh sáng ban ngày, vốn có vẻ luôn xua đi những cơn kinh hoàng khủng khiếp nhất của chúng ta. Nhưng khi George, con gà trống của chúng tôi, cất tiếng gáy đầu tiên của ngày hôm đó, Henry nhảy cẫng lên. Sau đó nó bật cười. Đó là một tiếng cười khẽ, và vẫn có gì đó không ổn trong tiếng cười đó, nhưng dù sao nó vẫn không khiến tôi rởn gai ốc như lúc thằng bé bật cười sau khi tỉnh lại sau nhà kho gần chỗ cái giếng.
“Bố, hôm nay con không thể đến trường được. Con mệt quá. Và... con nghĩ rất có thể người ta sẽ nhìn thấy gì đó trên mặt con. Nhất là Shannon.”
Thậm chí tôi đã chẳng hề nghĩ tới chuyện thằng bé phải đến trường học, thêm một dấu hiệu nữa của việc lên kế hoạch nửa vời. Nửa vời một cách chết tiệt. Đáng ra tôi phải hoãn thời điểm ra tay lại cho tới khi trường học của hạt nghỉ hè. Như thế cũng chỉ đồng nghĩa với hoãn lại có một tuần mà thôi. “Con có thể ở nhà tới thứ Hai, sau đó nói với thầy giáo con bị cúm và không muốn lây sang các bạn còn lại trong lớp.”
“Đó không phải là bệnh cúm, nhưng đúng là con rất mệt.”
Cả tôi cũng thế.
Chúng tôi trải một tấm ga sạch lấy ra từ tủ đựng chăn ga của vợ tôi (có quá nhiều thứ trong ngôi nhà này từng là của cô ta... nhưng không còn là thế nữa) và vứt toàn bộ chỗ chăn đệm thấm máu lên đó. Cái đệm, tất nhiên, cũng thấm đầy máu, và cũng phải biến mất. Còn một tấm đệm khác, không được tốt lắm, trong kho chứa đồ sau nhà. Tôi cuộn toàn bộ chăn ga lại, còn Henry mang cái đệm. Hai chúng tôi lại quay lại chỗ cái giếng ngay trước khi mặt trời ló rạng phía chân trời. Bầu trời phía trên hoàn toàn quang đãng. Sẽ là một ngày tốt cho ngô.
“Con không thể nhìn xuống dưới đó, bố ơi.”
“Con không cần phải nhìn,” tôi nói, và một lần nữa lại nhấc cái nắp giếng lên. Tôi đang nghĩ đáng ra ngay từ đầu tôi phải để nguyên cái nắp dựng lên - nghĩ trước, đỡ công, bố tôi vẫn thường hay nói vậy - và biết rằng tôi chẳng bao giờ có thể thực hiện được như thế. Sau khi đã cảm nhận (hay nghĩ rằng tôi cảm thấy) thấy cú co giật cuối cùng đó.
Giờ tôi có thể nhìn thấy tận đáy giếng, và những gì tôi nhìn thấy thật khủng khiếp. Vợ tôi đã rơi xuống ở tư thế ngồi, với hai chân gập lại dưới thân mình. Tấm vỏ gối đã rách tung ra và nằm trên lòng cô ta. Tấm mền và ga trải giường đều bị xổ tung và trải ra quanh hai vai cô ta như tấm khăn choàng của một quý bà cầu kỳ. Cái bao tải, bị mắc kẹt quanh đầu vợ tôi và giữ mái tóc cô ta ngả ra sau như một cái lưới buộc tóc, hoàn tất nốt bức tranh: trông vợ tôi gần như thế cô ta đang thắng bộ vào cho một buổi tối vào thành phố đi chơi.
Phải! Một buổi tối trong thành phố! Đó là lý do tại sao tôi hạnh phúc đến thế! Đó là lý do tại sao tôi cười hết cỡ tới tận hai bên tai như thế! Và anh có nhận ra thứ son tôi dùng đỏ đến thế nào không, Wilf? Tôi chưa bao giờ mang màu son này tới nhà thờ, đúng không nào? Không, đây là thứ son môi một người phụ nữ dùng khi cô ta muốn làm chuyện xấu xa đó với người đàn ông của cô ta. Xuống dưới này đi nào, Wilf, sao anh không xuống? Đừng bận tâm tới thang làm gì, chỉ cần nhảy xuống thôi! Hãy cho tôi biết anh thèm muốn tôi dữ dội tới mức nào! Anh đã làm một chuyện xấu xa với tôi, giờ hãy để tôi làm một chuyện xấu xa với anh!
“Bố ơi?” Henry đang đứng quay mặt về phía nhà kho, hai vai rũ xuống, như một đứa trẻ đang chờ đợi bị đánh đòn. “Mọi thứ ổn cả chứ ạ?”
“Phải.” Tôi ném bọc chăn ga xuống, hy vọng nó sẽ rơi trùm lên trên vợ tôi và che đi khuôn mặt đang ngửa lên cười nhăn nhở một cách ghê rợn đó, nhưng trớ trêu thay nó lại rơi xuống lòng cô ta. Giờ đây, trông cô ta như thể đang ngồi giữa một đám mây kỳ quái nhuốm đầy máu.
“Bà ấy đã được che kín chưa? Bà ấy đã được che kín chưa, bố ơi?”
Tôi cầm lấy cái đệm và ném nó xuống giếng. Nó rơi thẳng đứng xuống mặt nước đục ngầu rồi đập vào thành giếng lát đá cuội, làm thành một tấm che nằm nghiêng bên trên vợ tôi, và cuối cùng cũng che khuất đi cái đầu đang ngửa ra sau và cái miệng cười đẫm máu của cô ta.
“Giờ thì bà ấy đã bị che đi rồi.” Tôi đậy cái nắp bằng gỗ về chỗ cũ của nó, biết rằng vẫn còn nhiều công việc chờ đợi phía trước: cái giếng sẽ phải bị lấp đầy. À, dẫu sao thì đó là việc đằng nào cũng phải làm từ lâu rồi. Đó là một chỗ nguy hiểm, chính vì thế tôi đã cắm các cọc rào thành vòng xung quanh cái giếng. “Bố con mình hãy vào nhà ăn sáng đi.”
“Con không thể ăn được gì đâu!”
Nhưng rồi nó cũng ăn. Cả hai bố con tôi đều ăn. Tôi rán trứng, thịt muối và khoai tây, rồi hai chúng tôi ăn hết sạch. Làm việc vất vả làm cho con người ta đói ngấu. Ai cũng biết thế cả.
Henry ngủ cho tới tận cuối buổi chiều hôm đó. Tôi thức cả ngày. Một phần trong những giờ đó, tôi ngồi bên bàn ăn trong bếp, uống hết cốc này đến cốc khác cà phê đen. Trong thời gian còn lại, tôi đi lang thang ngoài cánh đồng ngô, từ luống này sang luống khác, lắng nghe tiếng những tàu lá ngô nhọn như những thanh kiếm va vào nhau lào xào trong một cơn gió nhẹ. Vào tháng Sáu, khi những cây ngô trổ cờ, dường như chúng có thể nói được. Điều đó khiến một số người băn khoăn (và có những kẻ ngu ngốc nói rằng đó là âm thanh của những cây ngô đang vươn lên), nhưng tôi luôn thấy âm thanh lặng lẽ đó thật dễ chịu. Nó giúp đầu óc tôi tỉnh táo. Lúc này đây, trong lúc ngồi giữa căn phòng khách sạn ở thành phố này, tôi thấy nhớ âm thanh đó biết chừng nào. Với một con người của đồng quê, cuộc sống thành thị không còn là cuộc sống nữa; với một con người như thế, cuộc sống này bản thân nó đã là một sự nguyền rủa.
Tôi chợt nhận ra thú tội cũng là một việc thật nặng nề.
Tôi bước đi, lắng nghe tiếng lá ngô xào xạc, tôi cố sắp xếp một kế hoạch, và cuối cùng đúng là tôi đã vạch ra một kế hoạchthật. Tôi buộc phải làm thế, và không chỉ cho bản thân tôi.
Từng có một thời chỉ chưa đến 20 năm trước, khi một người ở vị thế của tôi chẳng cần gì phải lo lắng; vào những ngày đó, công việc làm ăn của một người là chuyện riêng của bản thân anh ta, nhất là khi anh ta tình cờ lại là một nông dân đáng tôn trọng: một người đóng thuế đàng hoàng, tới nhà thờ mỗi ngày Chủ nhật, cổ vũ cho đội bóng chày Hemingford Stars, và thẳng thừng bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa. Tôi nghĩ vào những ngày đó, từng có đủ loại biến cố xảy ra tại các trang trại ở nơi chúng tôi gọi là “ở giữa”. Những việc diễn ra mà không ai bận tâm đến, chứ đừng nói gì tới báo cáo lại. Vào thời đó, một người vợ được coi là chuyện riêng tư của người đàn ông, và nếu cô ta biến mất, thì mọi việc cũng kết thúc ở đó.
Nhưng những ngày đó đã trôi qua, và cho dù chúng chưa trôi qua... thì vẫn còn đó khu đất. Một trăm mẫu đất. Công ty Farrington muốn có được khu đất đó cho cái lò mổ lợn chết tiệt của bọn họ, và Arlette đã làm bọn họ tin rằng họ sắp có được khu đất. Điều này cũng đồng nghĩa với nguy hiểm, và nguy hiểm có nghĩa là những giấc mơ ngày và các kế hoạch nửa chừng nửa vời không còn là đủ nữa.
Khi tôi quay trở lại nhà vào giữa buổi chiều, tôi mệt nhoài, nhưng đầu óc cuối cùng cũng trở nên sáng suốt và bình tĩnh lại. Mấy con bò sữa của chúng tôi đang rống lên, giờ vắt sữa buổi sáng của chúng qua đã quá lâu. Tôi bắt tay vào vắt sữa, rồi thả chúng ra bãi cỏ, để chúng lại đó tới tận lúc hoàng hôn thay vì lùa chúng về để vắt sữa lần thứ hai sau bữa chiều. Đám bò sữa chẳng mấy bận tâm đến chuyện đó; chúng chấp nhận những gì xảy đến. Nếu Arlette giống như một con bò sữa của chúng tôi, tôi thầm nghĩ, hẳn lúc này cô ta vẫn còn sống và đang làm tình làm tội tôi để có được chiếc máy giặt mới trong ca ta lô của Monkey Ward[10]. Và hẳn tôi đã phải mua cái máy giặt ấy cho cô ta. Vợ tôi luôn khuất phục được tôi bằng lời nói. Ngoại trừ khi liên quan tới đất đai. Về chuyện này đáng ra cô ta phải biết điều hơn. Đất đai là việc của đàn ông.
Henry vẫn còn đang ngủ. Trong những tuần sau đó, thằng bé ngủ rất nhiều, và tôi để mặc cho nó ngủ, mặc dù bình thường vào mùa hè tôi thường giao việc cho nó làm kín ngày sau khi trường học đã nghỉ hè. Và con trai tôi cũng bận rộn hết mọi buổi tối của nó, hoặc tới chơi nhà Cotterie, hoặc lang thang theo con đường đất đầy bụi của chúng tôi với Shannon, hai đứa cầm tay nhau cùng ngắm trăng lên. Nghĩa là khi chúng không hôn nhau. Tôi hy vọng việc hai bố con tôi làm đã không làm hỏng mất những khoảng thời gian riêng tư ngọt ngào đó của thằng bé, song buộc phải tin là thế. Rằng tôi đã gây ra hậu quả đó. Và tất nhiên tôi hoàn toàn đúng.
Tôi gạt bỏ những ý nghĩ như thế ra khỏi đầu, tự nhủ rằng lúc này thằng bé đang ngủ, và thế là đủ. Tôi cần tới xem lại tình hình ở chỗ cái giếng lần nữa, và tốt nhất nên làm việc này một mình. Cái giường đã lột hết chăn ga của vợ chồng tôi dường như đang âm thầm tố cáo hành động sát nhân. Tôi tới bên tủ quần áo và xem xét trang phục của vợ tôi. Phụ nữ luôn có quá nhiều quần áo, phải không nào? Nào váy liền, váy rời, áo cánh, áo lên và các loại đồ lót - một số món đồ loại này trông phức tạp và lạ lùng tới mức một người đàn ông thậm chí không thể luận ra được đâu là đằng trước. Lấy hết đi sẽ là một sai lầm, vì chiếc xe tải vẫn đậu bên nhà kho và chiếc Model T[11] dưới gốc cây du. Vợ tôi đã đi bộ rời khỏi nhà và chỉ lấy đi những gì cô ta có thể mang theo. Tại sao cô ta không lấy chiếc Model T? Vì nếu thế hẳn tôi đã nghe thấy tiếng động cơ nổ và ngăn không cho vợ mình bỏ đi. Nói như vậy cũng đủ đáng tin. Vậy thì... chỉ một chiếc va li duy nhất.
Tôi cho vào trong đó những gì tôi nghĩ một người phụ nữ sẽ cần cũng như những gì vợ tôi không thể cam chịu bỏ lại. Tôi cho vào va li mấy món nữ trang có giá trị của cô ta, cùng bức ảnh chụp bố mẹ cô ta có khung mạ vàng. Tôi băn khoăn trước các vật dụng vệ sinh cá nhân trong phòng tắm, rồi quyết định để lại tất cả, ngoài trừ lọ xịt nước hoa Florient cùng cái lược sừng của cô ta. Có một cuốn Kinh thánh trên bàn đêm của vợ tôi, do mục sư Hawkins tặng cho cô ta, song tôi chưa bao giờ thấy cô ta đọc nó, vậy là tôi để nguyên nó lại chỗ cũ. Nhưng tôi lấy đi lọ viên sắt mà vợ tôi vẫn dùng vào kỳ kinh nguyệt hàng tháng.
Henry vẫn đang ngủ, nhưng lúc này vật vã lăn qua lăn lại như thể bị những cơn ác mộng giày vò. Tôi hối hả thực hiện việc cần làm nhanh nhất có thể, hy vọng có thể kịp quay trở lại nhà khi thằng bé thức giấc. Tôi đi vòng qua nhà kho tới chỗ cái giếng, đặt chiếc va li xuống, rồi lật cái nắp giếng lên lần thứ ba. Tạ ơn Chúa Henry không đi cùng tôi. Tạ ơn Chúa vì thằng bé không trông thấy những gì tôi đã thấy. Tôi nghĩ cảnh tượng đó chắc sẽ khiến con trai tôi mất trí. Vì nó hầu như đã khiến tôi mất trí.
Cái đệm đã bị ngả sang bên. Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là cô ta đã đẩy nó ra trước khi cố leo lên khỏi giếng. Vì vợ tôi vẫn còn sống. Cô ta đang thở. Hay ít nhất ban đầu tôi có cảm giác dường như là vậy. Sau đó, đúng lúc những khả năng hợp lý bắt đầu lóe lên qua cú sốc ban đầu - đúng lúc tôi bắt đầu tự hỏi mình liệu có kiểu hô hấp nào lại có thể làm cho chiếc váy của một phụ nữ phồng lên xẹp xuống không chỉ trên ngực mà khắp từ cổ cho tới tận gấu váy - hàm cô ta bắt đầu cử động, như thể vợ tôi đang cố gắng nói gì đó. Tuy vậy, thứ chui ra khỏi cái miệng đã bị mở rộng quá cỡ của cô ta không phải là những lời nói, mà là con chuột vừa bận rộn nhâm nhi cái lưỡi mềm mại của cô ta. Cái đuôi của nó xuất hiện đầu tiên. Sau đó, hàm dưới của vợ tôi há ra rộng hơn khi con chuột lùi ra, các móng vuốt ở hai chân sau của nó cắm sâu vào cằm cô ta để làm chỗ bám.
Con chuột rơi bịch xuống lòng vợ tôi, và khi nó làm vậy, một đàn đông nhung nhúc các anh chị em của nó ùa ra từ dưới váy cô ta. Một con có thứ gì đó màu trắng mắc vào giữa những cái ria của nó - một mảnh quần lót của vợ tôi, hay có lẽ là cái quần bó của cô ta. Tôi ném cái va li xuống chúng. Tôi không hề nghĩ ngợi gì về hành động đó - lúc ấy tâm trí tôi đang quay cuồng vì ghê tởm và kinh hoàng - mà chỉ vô thức làm như thế. Cái va li rơi xuống chân vợ tôi. Phần lớn đám gặm nhấm - có lẽ là tất cả - đều đủ nhanh nhẹn để né tránh được nó. Sau đó, chúng xô nhau chui vào trong một cái lỗ tròn đen ngòm mà cái đệm (hẳn đã bị chúng xô lệch sang bên do sức nặng của số lượng đông đảo) đã che khuất lúc trước, rồi biến mất chỉ trong khoảnh khắc. Tôi biết rõ cái lỗ đó là gì; nó là miệng của đường ống cung cấp nước tới các máng uống trong chuồng gia súc cho tới khi mực nước hạ xuống quá thấp và biến cái giếng trở thành vô dụng.
Cái váy của vợ tôi xẹp xuống quanh người cô ta. Những cử động khiến tôi tưởng nhầm với các nhịp thở dừng lại. Nhưng cô ta đang nhìn trừng trừng vào tôi, và vẻ mặt trước đó dường như giống với nụ cười của một anh hề giờ đây giống như cái nhìn của một con quỷ cái. Tôi có thể nhìn thấy những vết chuột cắn trên hai má cô ta, và một bên vành tai vợ tôi đã biến mất.
“Lạy Chúa lòng lành,” tôi thì thầm. “Arlette, tôi rất xin lỗi.”
Lời xin lỗi của anh không được chấp nhận, vẻ mặt cô ta dường như đang nói. Và khi người ta tìm thấy tôi như thế này, với những vết chuột cắn trên mặt và quần lót dưới váy bị nhai nát, chắc chắn anh sẽ bị điện giật cho nhảy cẫng lên ở Lincoln. Và khuôn mặt của tôi sẽ là khuôn mặt cuối cùng anh trông thấy. Anh sẽ nhìn thấy tôi khi luồng điện rán chín gan anh, làm tim anh cháy rụi, và lúc đó tôi sẽ cười.
Tôi hạ nắp giếng xuống và loạng choạng đi vào chuồng gia súc. Tới đó, đôi chân bắt đầu phản bội tôi, và giá như tôi vẫn còn ở dưới ánh mặt trời, chắc chắn tôi đã ngất xỉu đi giống như Henry tối hôm trước. Nhưng tôi đang ở trong bóng râm, và sau khi ngồi xuống chừng năm phút, đầu cúi gập xuống gần như tới chạm đầu gối, tôi bắt đầu hồi lại. Đám chuột đã mò tới chỗ cô ta - vậy thì sao nào? Chẳng phải cuối cùng rồi chúng sẽ tìm tới tất cả chúng ta hay sao? Đám chuột và những con bọ thì sao? Sớm hay muộn, thậm chí cả những cỗ quan tài chắc nhất cũng mục nát và để cho cuộc sống kiếm ăn trên cái chết. Đó là quy luật của thế giới, và điều đó đâu có gì ghê gớm? Khi trái tim ngừng đập và bộ não ngừng hoạt động, linh hồn chúng ta hoặc đã bỏ đi đâu đó, hoặc chỉ đơn giản đã tắt lịm. Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng chẳng còn ở đó để phải cảm thấy da thịt mình đang bị gặm nhấm khỏi xương.
Tôi đứng dậy quay về ngôi nhà và tới bậc thềm trước cửa khi một ý nghĩ làm tôi đứng sững lại: thế còn cảm giác cựa quậy đó? Nếu vợ tôi vẫn còn sống khi tôi ném cô ta xuống giếng thì sao? Nếu cô ta vẫn còn sống, tê liệt, không thể động đậy dù chỉ một ngón tay đã bị chém của mình khi lũ chuột từ trong đường ống chui ra và bắt đầu cuộc cắn xé của chúng thì sao? Nếu vợ tôi đã cảm thấy con chuột đã chui vào cái miệng đã bị phanh rộng ra một cách thật tiện lợi của cô ta và bắt đầu...!
“Không,” tôi thì thầm. “Cô ta không cảm thấy gì hết vì cô ta không cựa quậy. Chưa bao giờ. Cô ta đã chết khi mình ném cô ta xuống giếng.”
“Bố?” Henry gọi với giọng ngái ngủ. “Bố, có phải bố đấy không?”
“Phải.”
“Bố đang nói chuyện với ai vậy?”
“Không ai cả. Với chính bố thôi.”
Tôi bước vào trong nhà. Con trai tôi đang ngồi bên bàn ăn trong bếp, mặc áo may ô và quần đùi, trông đờ đẫn ủ dột. Mái tóc thằng bé, dựng đứng lên thành từng túm, làm tôi nhớ tới lúc nó còn bé, vừa cười khanh khách vừa chạy đuổi theo lũ gà quanh sân với con chó săn Boo của nó (đã chết từ lâu vào mùa hè năm ấy) bám sát gót.
“Con ước gì chúng ta đã không làm như thế,” thằng bé nói khi tôi ngồi xuống trước mặt nó.
“Những gì xảy ra thì đã xảy ra rồi, và không thể đảo ngược lại được,” tôi nói. “Đã bao nhiêu lần bố nói với con điều đó rồi, con trai?”
“Chừng một triệu lần.” Thằng bé cúi đầu xuống một hồi, rồi ngước lên nhìn tôi. Đôi mắt nó thâm quầng, vằn lên những tia máu. “Có phải chúng ta sẽ bị bắt không? Có phải chúng ta sẽ phải vào tù không? Hay...”
“Không. Bố đã có một kế hoạch.”
“Bố từng có một kế hoạch sẽ không làm bà ấy đau! Bố hãy thử nhìn xem cuối cùng nó đã biến thành thế nào!”
Bàn tay tôi chỉ muốn tát cho thằng bé một cái vì những lời nói đó, vậy là tôi dùng bàn tay bên kia đè nó xuống. Đây không phải là lúc buộc tội lẫn nhau. Hơn nữa, con trai tôi nói đúng. Tất cả những việc bất ổn đã xảy ra đều là lỗi của tôi. Ngoại trừ lũ chuột, tôi thầm nghĩ. Chúng không phải lỗi của tôi. Nhưng có đấy. Tất nhiên là có rồi. Nếu không phải vì tôi, lúc này đáng lẽ vợ tôi đang ở bên bếp, bận rộn làm bữa chiều. Nhiều khả năng cũng đang nói đi nói lại về 100 mẫu đất, nhưng vẫn còn sống và khỏe mạnh thay vìở dưới giếng.
Có lẽ lũ chuột đã quay trở lại rồi, một giọng nói ở sâu thẳm trong nội tâm tôi thì thầm. Ăn cô ta. Chúng sẽ hoàn tất trước tiên những phần ngon lành, những phần thơm tho, những phần mềm mại, và sau đó...
Henry vươn người qua bàn, chạm tay vào hai bàn tay đang nắm lấy nhau của tôi. Tôi giật mình.
“Con xin lỗi,” con trai tôi nói. “Chúng ta đã cùng nhau làm việc đó.”
Tôi yêu nó biết bao vì câu nói ấy.
“Chúng ta sẽ ổn cả thôi, Hank; nếu bố con mình giữ được bình tĩnh, chúng ta sẽ ổn cả. Giờ hãy nghe bố này.”
Con trai tôi lắng nghe. Sau một hồi, nó bắt đầu gật đầu. Khi tôi nói xong, thằng bé hỏi tôi một câu: khi nào chúng tôi sẽ lấp cái giếng đi?
“Chưa đâu,” tôi nói.
“Như thế chẳng phải rất nguy hiểm sao?”
“Phải,” tôi nói.
Hai ngày sau, trong lúc tôi đang sửa một đoạn hàng rào cách trang trại chừng một phần tư dặm, tôi thấy một đám bụi lớn bốc lên phía cuối con đường chạy lại từ xa lộ Omaha - Lincoln. Chúng tôi sắp sửa đón nhận một cuộc thăm hỏi từ thế giới Arlette đã khao khát muốn được trở thành một phần của nó đến thế. Tôi quay trở về nhà, búa gài vào một vòng đeo ở thắt lưng, chiếc tạp dề thợ mộc vẫn buộc quanh hông, trong cái túi dài của nó đựng đầy đinh đang va vào nhau lạch xạch. Tôi không thấy Henry đâu. Có lẽ thằng bé đã xuống dưới suối tắm; mà cũng có thể nó đang ngủ trên buồng của mình.
Khi tôi về tới sân nhà và ngồi xuống cái thớt bổ củi, tôi nhận ra chiếc xe đang làm tung phía sau quầng bụi đất trông chẳng khác gì một cái đuôi gà trống: chiếc xe tải giao hàng Red Baby của Lars Olsen. Lars là thợ rèn kiêm người giao sữa trong làng tại Hemingford Home. Với một mức giá nhất định, anh ta cũng sẵn sàng làm lái xe, và đây là chức năng anh ta đang thi hành vào buổi chiều tháng Sáu này. Chiếc xe tải chạy vào trong sân, làm George, con gà trống xấu tính của chúng tôi, cùng đàn gà mái hợp thành hậu cung nho nhỏ của nó bay tán loạn, một người đàn ông phương phi mặc áo khoác màu xám bước xuống từ bên cửa dành cho khách. Ông ta tháo cặp kính chống cát ra, để lộ hai vòng tròn lớn (và trông thật hài hước) màu trắng quanh hai mắt.
“Ông là Wilfred James?”
“Chính là tôi,” tôi nói, rồi đứng dậy. Tôi cảm thấy khá bình thản. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy ít bình tĩnh hơn nếu ông ta tới trên chiếc xe Ford của cảnh sát hạt với ngôi sao bên sườn. “Ông là...?”
“Andrew Lester,” ông ta nói. “Luật sư.”
Ông ta chìa bàn tay ra. Tôi đưa mắt nhìn nó.
“Trước khi tôi bắt bàn tay này, tốt hơn ông nên cho tôi biết ông là luật sư của ai, ông Lester.”
“Hiện tại tôi đang làm việc cho Công ty Súc sản Farrington tại Chicago, Omaha và Des Moines.”
Phải rồi, tôi thầm nghĩ, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng tôi dám cược rằng tên của ông bạn còn chẳng được ghi trên cửa văn phòng. Những ông chủ lớn ở Omaha đâu cần phải hít bụi đồng quê để kiếm bánh mì, phải không nào? Các ông chủ lớn lúc nào chẳng gác chân lên bàn, uống cà phê và ngắm nghía đôi chân xinh đẹp của các cô thư ký.
Tôi nói, “Trong trường hợp đó, thưa ông, tại sao ông không vào việc luôn và cất bàn tay đó đi? Tôi không hề có ý xúc phạm.”
Ông ta làm theo, với một nụ cười của luật sư. Mồ hôi vạch thành từng nét trên trôi má nung núc của ông ta, còn mái tóc ông ta rối bù xơ xác sau chuyến đi. Tôi đi qua trước mặt tay luật sư tới chỗ Lars, người đang mở nắp máy lên và đang bận rộn mày mò gì đó bên trong. Anh ta đang huýt sáo, và có vẻ vui như tết. Tôi thầm ghen tỵ với anh ta về điều đó. Tôi nghĩ Henry và tôi có thể sẽ có một ngày hạnh phúc nữa - trong một thế giới đầy biến động như thế giới chúng ta đang sống, chuyện gì cũng có thể xảy ra - nhưng chắc chắn ngày đó sẽ không đến vào mùa hè năm 1922. Hoặc mùa thu.
Tôi bắt tay Lars và hỏi thăm sức khỏe anh ta.
“Cũng tạm ổn,” anh ta nói, “nhưng khát quá. Tôi sẵn sàng uống thứ gì đó.”
Tôi hất hàm về phía đông ngôi nhà. “Anh biết nó ở đâu mà.”
“Tôi biết,” anh ta nói, đóng sầm tấm nắp máy xuống với tiếng kim loại va chạm vào nhau khiến cho lũ gà mái, lúc này đang lò dò quay lại sân, nháo nhác bay vụt lên lần nữa. “Vẫn ngọt và mát lạnh như xưa, tôi đoán vậy đúng không?”
“Tôi cũng nghĩ thế,” tôi đồng ý, và nghĩ thầm: Nhưng cho dù nếu anh bạn vẫn có thể bơm nước lên được từ cái giếng đó, Lars, tôi không nghĩ anh bạn bận tâm đến mùi vị đâu. “Cứ thử đi rồi biết.”
Anh ta bắt đầu lượn vòng quanh phía ngôi nhà đang đổ bóng xuống đất, nơi chiếc bơm tay bên ngoài nhà nằm dưới cái mái che nhỏ của nó. Ông Lester nhìn anh ta bước đi, rồi quay lại phía tôi. Ông ta đã cởi cúc chiếc áo khoác ra. Bộ đồ mặc bên dưới hẳn sẽ cần phải ghé qua hiệu giặt khô khi ông ta quay lại Lincoln, Omaha, Deland, hay bất cứ nơi nào ông ta sống khi không làm chân chạy việc cho Cole Farrington.
“Tôi cũng muốn uống chút gì đó, ông James.”
“Tôi cũng vậy. Đóng hàng rào là công việc khiến người ta nóng bức.” Tôi nhìn ông ta từ đầu đến chân. “Cho dù tôi dám cược rằng cũng không nóng bằng ngồi hai mươi dặm trên cái xe tải của Lars.”
Ông ta gãi mông và lại chưng nụ cười luật sư của mình ra. Lần này trong đó có một chút ân hận. Tôi có thể thấy đôi mắt ông ta đã bắt đầu xăm xoi chỗ này rồi chỗ kia, khắp nơi. Không nên đánh giá thấp con người này chỉ vì ông ta đã được lệnh phải lang thang hai mươi dặm tới một xó quê mùa vào một ngày mùa hè nóng nực. “Cái bàn tọa của tôi có lẽ sẽ chẳng bao giờ như cũ được nữa.”
Có một cái gầu được xích vào bên cạnh mái che. Lars bơm đầy nước vào nó, rồi uống ừng ực, trong khi cục yết hầu của anh ta không ngừng nâng lên rồi hạ xuống trên cần cổ gầy gò rám nắng, sau đó anh ta lại bơm đầy gầu và đưa cho Lester, ông ta nhìn gầu nước với vẻ ngờ vực giống như khi tôi nhìn bàn tay đang chìa ra của ông ta. “Có lẽ chúng ta nên vào nhà uống, ông James. Như thế sẽ mát hơn một chút.”
“Chắc vậy rồi,” tôi tán thành, “song không có chuyện tôi mời ông vào nhà đâu, cũng như bắt tay vậy.”
Lars Olsen nhận ra gió đang thổi theo chiều nào và lập tức quay trở lại chiếc xe tải của anh ta, không để mất thêm một phút nào. Nhưng trước hết, anh ta vẫn đưa lại cái gầu cho Lester. Ông khách của tôi không uống ừng ực một hơi như Lars lúc trước mà nhấp từng hớp một cách cảnh vẻ. Nói cách khác là đúng kiểu một tay luật sư - nhưng ông ta cũng không dừng lại cho tới khi cái gầu đã cạn sạch, và chuyện này cũng lại đúng kiểu một tay luật sư. Cánh cửa trước nhà bật mở, Henry bước ra khỏi nhà trong bộ áo liền quần, đi chân đất. Thằng bé đưa mắt nhìn hai chúng tôi với vẻ dửng dưng - một cậu bé thật ngoan! - rồi tới nơi mà bất cứ cậu nhóc nông thôn nào cũng tìm đến: xem Lars chăm sóc cho chiếc xe tải của anh ta, và nếu cậu nhóc may mắn, cậu ta sẽ học được chút gì đó.
Tôi ngồi xuống đống gỗ chúng tôi tích trữ dưới một tấm vải bạt. “Tôi đoán ông tìm tới đây có công chuyện làm ăn. Với vợ tôi.”
“Đúng thế.”
“Được rồi, ông đã uống xong, vậy tốt hơn chúng ta nên bàn vào việc. Tôi vẫn còn cả một ngày đầy công việc chờ đợi, và bây giờ đã là ba giờ chiều rồi.”
“Từ sáng sớm đến tối mịt. Làm nông quả là một cuộc sống cực nhọc.” Ông ta thở dài như thế hiểu biết lắm.
“Đúng thế, và một cô vợ khó tính còn có thể làm cho nó cực nhọc hơn nữa. Vợ tôi cho mời ông đến đây, tôi đoán là vậy, dù tôi không biết lý do vì sao - nếu chỉ là chuyện về một vài giấy tờ pháp lý, tôi cho rằng một ông phó cảnh sát trưởng hoàn toàn có thể tới thực hiện mọi việc cần thiết với tôi.”
Tay luật sư nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. “Vợ ông không hề mời tôi đến đây, ông James. Nói thực ra, tôi tới đây để tìm gặp bà nhà.”
Cuộc trò chuyện này giống như một màn kịch, và vai của tôi có nhiệm vụ tỏ ra bối rối. Rồi bật cười, vì bật cười là hành động tiếp theo được chỉ dẫn trong kịch bản. “Điều này chỉ càng chứng minh cho việc đó.”
“Chứng minh cho cái gì vậy?”
“Khi tôi còn là một cậu nhóc ở Fordyce, chúng tôi có một ông hàng xóm - một lão già phóng túng xấu xa có họ Bradlee. Tất cả mọi người đều gọi lão là Pop Bradlee.”
“Ông James...”
“Bố tôi thỉnh thoảng phải giải quyết chuyện làm ăn với lão, và đôi lần ông đưa tôi đi cùng. Cũng lâu rồi, từ thời cả thiên hạ còn đi xe ngựa kia. Ngô hạt hầu như luôn là chủ đề làm ăn của họ, ít nhất là vào mùa xuân, nhưng có khi hai người cũng trao đổi nông cụ. Thời ấy chưa có việc đặt hàng qua thư, và một món nông cụ tốt có khi sẽ chạy vòng khắp cả hạt trước khi về được nhà của nó.”
“Ông James, tôi không hề thấy có mối quan...”
“Và mỗi lần bố con tôi tới gặp lão, mẹ tôi lại bảo tôi bịt tai lại, vì mọi lời nói tuôn ra từ miệng Pop Bradlee đều là những câu chửi bậy hay thứ gì đó bẩn thỉu.” Một cách chua ngoa, tôi bắt đầu thấy thích trò này. “Vậy là đương nhiên tôi lại càng cố dỏng tai lên nghe cho rõ hơn. Tôi còn nhớ một trong những câu nói ưa thích của Pope là “Đừng bao giờ cưỡi lên một con cái mà không thắng dây cương, vì ta chẳng bao giờ có thể nói chắc được một con đĩ sẽ chạy theo đường nào.”
“Tôi phải hiểu như thế nào đây?”
“Theo ý ông thì con đĩ của tôi đã chạy theo đường nào, ông Lester?”
“Không phải ông đang nói với tôi rằng vợ ông đã...?”
“Bỏ trốn rồi, ông Lester. Cuốn xéo. Từ biệt theo kiểu Pháp. Chuồn khỏi nhà giữa lúc nửa đêm. Là một người mê đọc sách và nghiên cứu về tiếng lóng của ngôn ngữ Mỹ, những cách diễn đạt đó hiện ra hoàn toàn tự nhiên với tôi. Tuy nhiên, Lars - và phần lớn đám cư dân thành phố - sẽ chỉ nói đơn giản là “Cô ta bỏ chạy, từ bỏ anh ta” khi tin tức lan ra. Hay anh ta và thằng bé, trong trường hợp này. Tất nhiên tôi nghĩ hẳn cô ta đã tìm tới với đám bạn mê thịt lợn của mình ở Công ty Farrington, và lần tiếp theo tôi nhận được tin tức từ cô ta sẽ là dưới dạng một thông báo cho biết cô ta đã bán khu đất của bố mình.”
“Như bà nhà vẫn muốn làm.”
“Chẳng lẽ cô ta đã ký giấy bán rồi sao? Vì tôi đoán rằng nếu cô ta đã làm thế, chắc tôi sẽ kiện ra tòa.”
“Thực tế ra thì chưa. Nhưng khi bà nhà làm điều đó, tôi khuyên ông nên tránh cho mình những phí tổn của một cuộc tranh chấp pháp lý mà chắc chắn ông sẽ thua cuộc.”
Tôi đứng bật dậy. Một trong hai dây đeo chiếc quần yếm tôi đang mặc đã tuột khỏi vai, và tôi dùng một ngón tay cái kéo nó về chỗ. “Được rồi, vì cô ta không có mặt ở đây, đó sẽ là thứ mà một người làm luật gọi là “một câu hỏi giả định”, có đúng không nhỉ? Nếu là ông, tôi sẽ tới Omaha tìm kiếm.” Tôi mỉm cười. “Hoặc tới St. Louis. Cô ta luôn nhắc tới St. Louis. Tôi có cảm tưởng dường như vợ tôi đã phát chán lên vì các vị không kém gì cô ta chán tôi và đứa con trai cô ta đã đẻ ra. Thật là nhẹ nợ. Quỷ tha ma bắt cả hai người đi. Mà nhân thể nói để ông biết, đó toàn là lời của Shakespeare đấy. Romeo và Juliette. Một vở kịch về tình yêu.”
“Mong ông thứ lỗi cho tôi phải nói ra điều này, song tất cả những gì ông vừa nói như tôi thấy dường như rất kỳ lạ, ông James.” Tay luật sư lấy từ trong túi áo vét ra một chiếc khăn tay lụa - tôi đoán những tay luật sư hay đi đây đi đó như ông ta chắc có vô khối những túi áo như thế - rồi bắt đầu dùng cái khăn để lau mặt. Hai má ông ta lúc này không chỉ hây hây mà đỏ phừng lên. Không phải cái nóng của ngày hôm đó đã làm khuôn mặt ông ta trở nên như thế. “Quả là rất lạ, nếu tính đến khoản tiền mà thân chủ của tôi sẵn sàng trả cho khu đất đó, vốn nằm cạnh suối Hemingford và gần tuyến đường sắt lớn Miền Tây.”
“Về phần mình, tôi cũng đã phải mất không ít thời gian để quen với chuyện này, song ít nhất tôi cũng có lợi thế hơn so với các vị.”
“Là gì vậy?”
“Tôi hiểu rõ cô ta. Tôi tin chắc ông và các thân chủ của ông nghĩ các vị đã nắm trong tay một thỏa thuận đã được thu xếp đâu vào đấy, nhưng Arlette James... hãy nói đơn giản rằng muốn đóng đinh cô ta xuống thứ gì đó cũng chẳng khác gì cố đóng đinh một miếng thạch xuống sàn. Chúng ta cần nhớ tới câu Pop Bradlee từng nói, ông Lester. Sao chứ, lão ta quả là một thiên tài đầy chất thôn dã.”
“Tôi có thể nhìn qua một chút trong nhà không?”
Tôi lại bật cười, lần này không hề gượng gạo. Tay luật sư quả là bạo gan, tôi phải thừa nhận chuyện này, và việc ông ta không muốn tay trắng quay về là hoàn toàn có thể hiểu được. Ông ta đã lang thang hai mươi dặm trên một chiếc xe tải chẳng có cửa giả gì, và sẽ phải chịu đựng thêm hai mươi dặm nữa trước khi trở lại được thành phố Hemingford (và sau đó phải đáp thêm một chuyến tàu, không nghi ngờ gì nữa), ông ta có đôi bàn tọa đang ê ẩm, và những kẻ đã phái ông ta đến đây hiển nhiên sẽ không mấy vui vẻ với bản báo cáo về những gì ông ta thu được sau khi đã trải qua toàn bộ cuộc hành trình cực nhọc đó. Tay luật sư khốn khổ!
“Tôi sẽ hỏi lại ông một câu: ông có thể tụt quần xuống để tôi có thể chiêm ngưỡng của quý của ông không?”
“Tôi thấy đòi hỏi đó thật xúc phạm.”
“Tôi không trách ông. Hãy nghĩ về nó như một... không phải một sự so sánh, nói thế không đúng, mà như một cách ẩn dụ.”
“Tôi không hiểu ông muốn nói gì.”
“Được thôi, ông có cả một tiếng đồng hồ trên đường quay về thành phố để nghĩ về nó - cũng có thể là hai, nếu Red Baby của Lars xịt mất một lốp. Và tôi có thể cam đoan với ông, ông Lester, rằng nếu thực sự tôi cho phép ông lượn lờ quanh nhà tôi - chốn riêng tư của tôi, lâu đài của tôi, của quý của tôi - ông sẽ không tìm thấy xác vợ tôi trong tủ quần áo hay...” Lúc đó có một khoảnh khắc khủng khiếp khi thiếu chút nữa tôi đã nói hay dưới giếng. Tôi cảm thấy mồ hôi đang túa ra trên trán mình. “Hay dưới gầm giường.”
“Tôi chưa bao giờ nói...”
“Henry!” tôi gọi. “Lại đây một phút nào!”
Henry bước tới, đầu cúi gằm, hai bàn chân kéo lê đi trong bụi đất. Trông thằng bé có vẻ lo lắng, thậm chí còn có chút tội lỗi, nhưng thế cũng ổn. “Vâng, bố gọi con ạ?”
“Nói cho ông đây biết mẹ mày đang ở đâu.”
“Con không biết. Khi bố gọi con dậy ăn sáng hôm thứ Sáu, mẹ đã đi rồi. Sắp xếp đồ đạc và bỏ đi.”
Lester nhìn chằm chằm vào con trai tôi. “Cậu bé, có thật thế không?”
“Vâng, thưa ông.”
“Toàn bộ sự thật và không gì ngoài sự thật, như đứng trước Chúa chứ?”
“Bố, con vào nhà được không? Con còn bài tập phải làm bù cho thời gian bị ốm.”
“Thế thì đi đi,” tôi nói, “nhưng đừng rề rà quá đấy. Hãy nhớ hôm nay đến lượt mày vắt sữa bò.”
“Vâng, con nhớ rồi.”
Thằng bé leo lên bậc thềm và đi vào trong nhà. Lester theo dõi con trai tôi quay đi, rồi trở lại với tôi. “Ở đây còn có nhiều thứ hơn những gì đập vào mắt.”
“Tôi thấy là ông không đeo nhẫn cưới, ông Lester. Nếu có lúc nào đó ông đã đeo nó lâu như tôi phải đeo, ông sẽ biết trong gia đình luôn có những chuyện như thế xảy ra. Và ông cũng sẽ biết cả một việc khác: ông sẽ chẳng bao giờ có thể nói chắc chắn một con điếm sẽ chạy theo hướng nào.”
Tay luật sư đứng dậy. “Chuyện này vẫn chưa xong đâu.”
“Xong rồi,” tôi nói. Và biết rõ không phải như vậy. Nhưng nếu mọi thứ xuôi chèo mát mái, chúng tôi sẽ tới gần đoạn kết hơn so với lúc trước. Nếu.
Ông ta bắt đầu đi qua sân, rồi lại quay trở lại. Ông ta lại lấy cái khăn tay lụa ra lau mặt, rồi nói, “Nếu ông nghĩ 100 mẫu đất kia giờ là của ông chỉ vì ông đã dọa vợ mình phát hãi đến mức phải bỏ đi...gửi đồ của bà ấy tới chỗ cô bà ấy ở Des Moines hay tới chỗ một người chị ở Minnesota...”
“Hãy tìm ở Omaha,” tôi mỉm cười nói. “Hay St Louis. Cô ta chẳng bao giờ viện đến các mối quan hệ gia đình, nhưng vợ tôi luôn phát cuồng lên với ý tưởng được sống ở St Louis. Chỉ có Chúa mới biết tại sao.”
“Nếu ông nghĩ rằng ông sẽ gieo trồng và thu hoạch trên khu đất đó, tốt hơn ông nên nghĩ lại. Khu đất đó không phải là của ông. Nếu ông gieo dù chỉ một hạt giống xuống chỗ đó, ông sẽ phải gặp tôi ở tòa.”
Tôi nói, “Tôi chắc ông sẽ nhận được tin từ cô ta ngay khi cô ta hết nhẵn tiền.”
Những lời tôi muốn nói là, Không, nó không phải là của tôi... nhưng cũng không phải là của các người. Nó chỉ đơn giản là ở đó thôi. Và thế là ổn cả, vì nó sẽ là của tôi sau bảy năm nữa, khi tôi ra tòa yêu cầu chính thức tuyên bố cô ta đã chết trước pháp luật. Tôi có thể đợi. Bảy năm không phải ngửi mùi phân lợn khi gió thổi từ phía tây tới. Bảy năm không phải nghe tiếng kêu của những con lợn sắp chết (thật giống với tiếng kêu của một người đàn bà sắp chết) và thấy bộ lòng của chúng nổi bồng bềnh trôi xuống một cái rãnh đỏ ngầu máu. Với tôi, xem chừng đó sẽ là bảy năm tuyệt vời.
“Chúc ông một ngày tốt lành, ông Lester, và cẩn thận với mặt trời khi quay về. Nó thường trở nên rất khắc nghiệt vào cuối buổi chiều, và sẽ chiếu thẳng vào mặt ông đấy.”
Tay luật sư không trả lời, im lặng đi ra xe tải. Lars vẫy tay chào tôi, và Lester bực bội vặc anh ta. Lars ném trả lại tay luật sư một cái nhìn như muốn nói Cứ việc quạu cọ thế nào tùy thích, vẫn sẽ là hai mươi dặm để quay trở lại thành phố Hemingford.
Khi bọn họ đã khuất hẳn khỏi tầm nhìn, ngoại trừ quầng bụi trông giống như cái đuôi gà trống, Henry lại quay ra cửa. “Con làm có đúng không, bố?”
Tôi cầm lấy cổ tay thằng bé, bóp nhẹ, và giả bộ như không cảm thấy bàn tay nó căng cứng lên trong khoảnh khắc dưới bàn tay tôi, như thể con trai tôi đang phải cố gồng mình vượt qua cảm giác muốn giật bàn tay của nó ra. “Đúng như cần phải làm. Hoàn hảo.”
“Mai chúng ta sẽ lấp giếng chứ ạ?”
Tôi đã suy nghĩ cẩn thận về việc này, vì rất có thể tính mạng của hai bố con tôi sẽ phụ thuộc vào quyết định tôi đưa ra. Cảnh sát trưởng Jones đang dần già đi và phát tướng ra. Ông ta không lười biếng, nhưng khó lòng buộc ông ta cựa quậy nếu không có một lý do xác đáng. Lester cuối cùng thế nào cũng sẽ thuyết phục được Jones tìm tới đây, nhưng rất có thể chỉ sau khi Lester đã thuyết phục được một trong hai đứa con trai sẵn sàng nhảy xuống địa ngục vì da của Cole Farrington gọi điện tới nhắc ông cảnh sát trưởng nhớ rằng công ty nào chính là kẻ đóng thuế lớn nhất tại hạt Hemingford (chưa nói tới các hạt lân cận Clay, Fillmore, York vả Seward). Tóm lại, tôi nghĩ chúng tôi có tối thiểu hai ngày.
“Không phải ngày mai,” tôi nói. “Mà là ngày kia.”
“Bố, nhưng tại sao?”
“Vì ông cảnh sát trưởng sẽ có mặt tại đây, và cảnh sát trưởng Jones tuy già nhưng không ngốc. Một cái giếng bị lấp rất có thể sẽ khiến ông ta nghi ngờ về chuyện tại sao nó bị lấp, và lại mới gần đây đến thế. Nhưng một cái giếng đang lấp dở... và vì một lý do xác đáng...”
“Lý do nào vậy bố? Nói cho con biết đi!”
“Sớm thôi,” tôi nói. “Sớm thôi.”
[10] Tên thường gọi của Montgomery Ward, một hệ thống phân phối bán lẻ ở Mỹ thành lập năm 1872.
[11] Một loại xe giá rẻ của Ford, là loại xe đầu tiên được lắp ráp theo dây chuyền, được sản xuất trong giai đoạn 1908 - 1927.