← Quay lại trang sách

Chương 5

Cả ngày hôm sau chúng tôi đợi bụi tung lên trên con đường dẫn tới chỗ chúng tôi, không phải bị hất lên do chiếc xe tải của Lars, mà bởi cái xe của cảnh sát trưởng hạt. Nhưng nó không hề xuất hiện. Người xuất hiện là Shannon Cotterie, trông thật xinh xắn trong chiếc áo vải bông và váy kẻ sọc, cô bé tới hỏi thăm xem Henry có khỏe không, và nếu đã khỏe, liệu con trai tôi có vui lòng tới ăn tối cùng cô bé và bố mẹ cô hay không?

Henry nói nó đã hoàn toàn khỏe mạnh, và tôi nhìn theo hai đứa bước đi trên con đường, tay trong tay, mà lòng nặng trĩu lo âu. Thằng bé đang nắm giữ một bí mật khủng khiếp, và những bí mật khủng khiếp luôn đè nặng lên con người ta. Muốn tìm ai đó để chia sẻ gánh nặng ấy là điều tự nhiên nhất trên đời. Và con trai tôi yêu cô bé đó (hoặc nó nghĩ là thế, một điều hoàn toàn tương tự khi bạn mới bước sang tuổi mười lăm). Còn tồi tệ hơn nữa, thằng bé buộc phải nói dối, và cô bé có thể sẽ biết đó là một lời nói dối. Người ta vẫn hay nói đôi mắt đang yêu chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng đó chỉ là câu châm ngôn dành cho những kẻ ngốc mà thôi. Đôi khi chúng nhìn thấy quá nhiều.

Tôi rẫy cỏ ngoài vườn (và làm bật lên nhiều cây đậu hơn là cỏ dại), sau đó ngồi xuống trước cửa, hút một tẩu thuốc và đợi con trai tôi quay về. Thằng bé quay về ngay trước lúc trăng mọc. Đầu nó cúi gằm xuống, hai vai buông thõng, và con trai tôi trông như đang lê lết hơn là bước đi. Tôi ghét cay ghét đắng phải nhìn thấy nó trong bộ dạng đó, nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy nhẹ nhõm. Nếu thằng bé đã chia sẻ bí mật của nó - hay một phần bí mật đó - sẽ không bao giờ có chuyện nó bước đi như thế. Nếu con trai tôi đã chia sẻ bí mật nó đang phải mang, rất có thể nó đã không quay về nhà.

“Con nói đúng như cách hai bố con mình đã quyết định chứ?” tôi hỏi thằng bé khi nó ngồi xuống.

“Đúng như cách bố đã quyết định. Vâng.”

“Và cô bé hứa không nói cho gia đình nó biết?”

“Vâng.”

“Nhưng nó sẽ nói chứ?”

Con trai tôi thở dài. “Nhiều khả năng là thế. Bạn ấy yêu quý họ, và họ cũng yêu quý bạn ấy. Con cho là rồi họ sẽ thấy điều gì đó trên khuôn mặt bạn ấy, và sẽ dò hỏi. Ngay cả nếu họ không làm thế, nhiều khả năng bạn ấy sẽ nói cho ông cảnh sát trưởng biết. Tất nhiên là nếu ông ấy cất công tìm tới nhà Cotterie.”

“Lester sẽ đảm bảo để ông ta làm thế. Tay luật sư sẽ sủa ầm ĩ lên với cảnh sát trưởng Jones vì các ông chủ của hắn ở Omaha đang sủa ầm ĩ lên với hắn. Chuyện đó sẽ cứ thế chạy vòng quanh, và nó kết thúc ở đâu thì chẳng ai biết được.”

“Đáng ra chúng ta không bao giờ nên làm việc đó.” Con trai tôi trầm ngâm suy nghĩ, rồi thì thầm thật gay gắt.

Tôi không nói gì. Và trong một hồi lâu, con trai tôi cũng không nói gì. Hai bố con tôi cùng ngắm nhìn mặt trăng nhô lên khỏi cánh đồng ngô, đỏ quạch, nặng nề.

“Bố này? Con có thể uống một cốc bia chứ?”

Tôi đưa mắt nhìn thằng bé, vừa ngạc nhiên lại vừa không; Sau đó, tôi đi vào trong nhà, rót cho hai bố con mỗi người một cốc bia. Tôi đưa một cốc cho nó và nói, “Không cốc nào trong ngày mai và ngày kia, nhớ đấy.”

“Không cốc nào.” Thằng bé nhấp một ngụm, nhăn mặt, rồi lại uống một ngụm nửa. “Con ghét phải nói dối Shan, bố biết đấy. Mọi thứ liên quan tới chuyện này thật bẩn thỉu.”

“Mọi thứ bụi bẩn đều có thể rửa trôi đi được.”

“Thứ này thì không,” con trai tôi nói, rồi uống thêm một ngụm. Lần này nó không nhăn mặt nữa.

Một lúc sau, sau khi mặt trăng đã chuyển sang màu trắng bạc, tôi đứng dậy đi vòng ra sau nhà đi vệ sinh, và lắng nghe cánh đồng ngô cùng những làn gió đêm kể cho nhau nghe những bí mật xưa cũ của đất. Khi tôi quay trở lại trước cửa, Henry đã đi đâu mất. Cốc bia uống dở một nửa của nó đặt trên lan can bên các bậc thềm. Rồi tôi nghe thấy thằng bé đang ở trong chuồng gia súc, nói “Nào, ngoan. Nào.”

Tôi tới đó xem có chuyện gì xảy ra. Con trai tôi đang đưa hai cánh tay ôm lấy cổ Elphin và vuốt ve con vật. Tôi tin thằng bé đang khóc. Tôi đứng nhìn hồi lâu, nhưng cuối cùng vẫn không nói gì. Tôi quay trở vào nhà, cởi quần áo ngoài ra, nằm xuống chiếc giường nơi tôi đã cắt cổ vợ mình. Phải một lúc lâu trôi qua trước khi tôi ngủ thiếp đi. Và nếu các vị không hiểu tại sao - tất cả các lý do tại sao - thì đọc những dòng này sẽ chẳng ích gì cho các vị.

Tôi đã đặt tên tất cả những con bò sữa của chúng tôi theo các nữ thần Hy Lạp, nhưng Elphis hóa ra lại là một lựa chọn tồi tệ hay một trò đùa thật mỉa mai. Trong trường hợp các vị không còn nhớ câu chuyện cái ác đã đến với thế giới đáng buồn của chúng ta như thế nào, cho phép tôi nhắc lại để các vị nhớ: mọi thứ xấu xa thoát ra khi Pandora chiều theo sự tò mò của cô ta và mở chiếc vò đã được giao cho cô ta trông giữ ra. Thứ duy nhất còn lại khi cô ta lấy lại được đủ khôn ngoan để đậy nắp vò như cũ là Elphis, nữ thần của hy vọng. Nhưng vào mùa hè năm 1922 đó, không còn chút hy vọng nào cho Elphis của chúng tôi. Nó đã già và ốm yếu, không còn cho nhiều sữa, và chúng tôi đã gần như phải từ bỏ cố gắng vắt lấy những gì ít ỏi nó còn lại nữa; ngay khi có ai ngồi xuống cạnh cái xô hứng, con bò lập tức tìm cách đá người đó. Đáng ra chúng tôi nên chuyển nó thành bò thịt từ một năm trước, song tôi đã chần chừ trước cái giá phải trả cho Harlan Cotterie để giết thịt nó, trong khi tôi chẳng mấy khéo léo trong việc giết mổ khi quy mô vượt quá những con lợn... một đánh giá về bản thân mà các vị giờ đây hẳn cũng đồng ý.

“Và nó sẽ dai lắm,” Arlette (vốn tỏ ra thầm có cảm tình với Elphis, có thể vì cô ta chẳng bao giờ phải vắt sữa từ con bò này) nói. “Tốt hơn cứ để nó yên.” Nhưng giờ đây chúng tôi đã có cách để sử dụng Elphis - chính xác là dưới giếng - và cái chết của con bò già có thể trở nên hữu ích hơn nhiều so với việc cung cấp vài tảng thịt dai ngoách.

Hai ngày sau khi Lester ghé thăm, con trai tôi và tôi chằng rọ mõm vào nó và dắt nó đi vòng ra sau chuồng. Khi đi được nửa quãng đường tới giếng, Henry dừng phắt lại. Đôi mắt thằng bé lóe sáng như thể đang sợ hết hồn. “Bố! Con ngửi thấy bà ấy!”

“Vậy hãy vào trong nhà, và lấy ít bông vo viên lại bịt mũi. Bông ở trong ngăn kéo của bà ấy.”

Mặc dù thằng bé cúi mặt xuống, tôi vẫn thấy nó liếc mắt về phía tôi trong lúc lầm lũi quay đi. Đây là lỗi của ông, cái nhìn đó nói. Tất cả là lỗi của ông vì ông không chịu buông đám đất.

Thế nhưng tôi vẫn không nghi ngờ việc con trai tôi sẽ giúp tôi thực hiện công việc đang chờ đợi phía trước. Cho dù lúc này nó có nghĩ gì về tôi đi nữa, trong bức tranh toàn cảnh vẫn còn bóng dáng của một cô bé, và nó không muốn con bé biết những gì nó đã làm. Tôi đã ép buộc thằng bé phải tham gia vào việc đó, nhưng bạn gái nó sẽ không bao giờ hiểu.

Chúng tôi dẫn Elphis tới chỗ nắp giếng, đến đó con bò tỏ ra ngần ngại một cách hoàn toàn có lý. Chúng tôi đi vòng ra phía đối diện, giữ lấy dây dắt buộc vào rọ mõm như thể đang chơi trò nhảy quanh cây nêu[12], và ra sức kéo con bò đi lên trên mặt gỗ đã mục. Cái nắp kêu răng rắc dưới sức nặng của con bò... lún xuống... nhưng vẫn đứng vững. Con bò cái già đứng lên trên cái nắp, đầu cúi gằm xuống, trông vẫn ngu ngốc và bướng bỉnh như mọi khi, nhe những cái răng mòn trơ gốc màu vàng xỉn ngả xanh lục của nó.

“Giờ phải làm gì?” Henry hỏi.

Tôi đang định nói tôi cũng không biết nữa, thế rồi đúng lúc ấy cái nắp giếng vỡ làm đôi với một tiếng gãy răng rắc và tiếng rơi thật lớn. Hai bố con tôi giữ chặt lấy đầu dây, cho dù trong một khoảnh khắc tôi từng cảm thấy mình sắp bị lôi tuột xuống cái giếng đáng nguyền rủa đó với hai cánh tay trật khớp. Sau đó, cái rọ mõm cũng đứt tung ra và bị kéo văng trở lên. Nó bị đứt toạc ra cả hai bên. Phía dưới, Elphis bắt đầu rống lên đau đớn và đạp móng guốc của nó lên thành giếng lát đá.

“Bố!” Henry kêu thét lên. Hai bàn tay thằng bé siết chặt lại áp chặt vào miệng, và các khớp đốt ngón tay ép sâu vào môi trên.“Hãy làm cho nó ngừng lại đi!”

Elphis rống lên một tràng rên rỉ thật dài, vang vọng. Các móng guốc của nó tiếp tục gõ lên đá.

Tôi cầm lấy cánh tay Henry và lôi thằng bé đang run rẩy quay trở vào nhà. Tôi đẩy nó ngồi xuống chiếc trường kỷ được Arlette đặt mua qua bưu điện và ra lệnh cho con trai tôi ngồi lại đó cho tới khi tôi quay trở lại. “Và hãy nhớ, sắp kết thúc rồi.”

“Chuyện này sẽ chẳng bao giờ kết thúc,” thằng bé nói, và quay người nằm úp mặt xuống trường kỷ. Nó đưa hai bàn tay lên bịt tai, mặc dù ở trong nhà không thể nghe thấy tiếng Elphis nữa. Ngoại trừ việc Henry vẫn nghe thấy tiếng rên rỉ của con bò, và cả tôi cũng vậy.

Tôi lấy khẩu súng săn vẫn cất trên chiếc giá cao trong kho chứa đồ xuống. Nó chỉ là một khẩu súng cỡ nòng.22[13], nhưng hoàn toàn đủ cho mục đích sắp được sử dụng. Và nếu Harlan nghe thấy tiếng súng vang lên từ bên kia các cánh đồng ngăn cách giữa nhà anh ta và nhà tôi thì sao? Điều đó cũng sẽ khớp với câu chuyện của chúng tôi. Nghĩa là nếu Henry có thể giữ được sự tỉnh táo của nó đủ lâu để kể nó ra.

Dưới đây là một điều tôi đã nghiệm ra vào năm 1922: luôn có những thứ tồi tệ hơn chờ đợi phía trước. Bạn nghĩ bạn đã nhìn thấy điều kinh khủng nhất, điều đã hợp nhất mọi cơn ác mộng của bạn thành một nỗi kinh hoàng quái đản thực sự tồn tại, và chỉ có điều an ủi duy nhất là sẽ không thể có gì tồi tệ hơn được nữa. Thậm chí cho dù có đi nữa, tâm trí bạn sẽ tắt phụt khi nhìn thấy nó, và bạn sẽ không biết gì thêm nữa. Nhưng còn có thể tồi tệ hơn thế, khi tâm trí bạn không tắt phụt đi, và bằng cách nào đó bạn tiếp tục tỉnh táo. Bạn có thể sẽ hiểu mọi niềm vui đã biến mất khỏi thế giới của bạn, rằng những gì bạn đã làm đã đẩy tất cả hy vọng bạn muốn đạt tới ra ngoài tầm tay với, bạn có thể sẽ ước gì chính mình là kẻ đã chết - nhưng bạn vẫn tiếp tục sống. Bạn nhận ra bạn đang ở trong một địa ngục do chính tay mình tạo nên, nhưng dẫu vậy bạn vẫn tiếp tục sống. Bởi vì chẳng thể làm gì khác được.

Elphis đã rơi xuống phía trên người vợ tôi, song khuôn mặt đang cười nhăn nhở của Arlette vẫn có thể nhìn thấy rõ, vẫn tiếp tục ngước lên thế giới tràn ngập ánh mặt trời ở phía trên, vẫn dường như nhìn chằm chằm vào tôi. Và lũ chuột cũng đã quay trở lại. Con bò cái đột nhiên rơi xuống thế giới của chúng hiển nhiên đã làm chúng rút lui vào đường ống mà rốt cuộc tôi sẽ đi tới chỗ nghĩ về nó như Đại Lộ Chuột; nhưng rồi sau đó chúng đánh hơi thấy mùi thịt tươi, và hối hả bò ra để điều tra. Lũ chuột đã bắt đầu cắn xé con bò già Elphis tội nghiệp trong lúc nó rống lên và quẫy đạp (lúc này đã yếu hơn nhiều), và có một con ngồi chễm chệ lên đầu cô vợ đã chết của tôi như một chiếc vương miện ma quái xấu xí. Nó đã khoét một lỗ qua cái bao tải và lôi một mớ tóc của cô ta ra bằng các móng vuốt khôn ngoan của mình. Hai gò má của Arlette, đã từng có lúc thật tròn trịa xinh đẹp, giờ đây rách nát là thành từng dải.

Không thứ gì có thể tồi tệ hơn chuyện này, tôi thầm nghĩ. Hiển nhiên mình đã tới tận cùng của sự ghê rợn.

Nhưng có đấy, luôn có những điều tồi tệ hơn chờ đợi phía trước. Trong lúc tôi cúi xuống, cứng người như hóa đá vì choáng váng và kinh tởm, Elphis lại vung chân đạp lần nữa, và một móng guốc của con bò chạm vào những gì còn lại của khuôn mặt Arlette. Một tiếng răng rắc vang lên khi hàm vợ tôi vỡ ra, và mọi thứ nằm bên dưới mũi cô ta giờ đây bị xô lệch sang bên trái, như thể nằm trên một thứ bản lề. Nhưng nụ cười ngoạc ra từ tai bên này sang tai bên kia vẫn còn nguyên đó. Việc giờ đây nó không còn nằm thẳng hàng với đôi mắt của cô ta càng làm cho nó thêm ghê rợn. Như thể lúc này vợ tôi đang sở hữu hai khuôn mặt để ám ảnh tôi thay vì chỉ một. Cơ thể cô ta dịch chuyển chạm vào tấm đệm, làm nó trượt sang bên. Con chuột đang ngồi trên đầu cô ta chui xuống bên dưới cái đệm. Elphis lại rống lên lần nữa. Tôi thầm nghĩ, nếu lúc này Henry quay lại đây và nhìn xuống dưới giếng, rất có thể thằng bé sẽ giết tôi vì đã biến nó thành một phần của chuyện này. Có lẽ tôi cũng đáng bị giết. Nhưng như thế con trai tôi sẽ chỉ còn lại một mình, và khi một mình nó sẽ không thể tự vệ được.

Một phần cái nắp đã rơi xuống giếng; một phần vẫn đang nằm ở trên. Tôi nạp đạn vào khẩu súng săn, tỳ súng vào miệng giếng, và nhắm xuống Elphis, đang nằm với cái cổ gãy và đầu bị đập vào thành giếng lát đá. Tôi chờ đến khi hai bàn tay đã chắc chắn, rồi siết cò.

Một phát đạn là đủ.

Quay vào trong nhà, tôi thấy Henry đã ngủ tiếp đi trên trường kỷ. Bản thân tôi đang ở trong trạng thái quá sốc để có thể thấy việc này kỳ lạ. Vào lúc ấy, với tôi thằng bé dường như là nguồn hy vọng duy nhất trên thế gian này: đã nhuốm chàm, nhưng không bị hoen ố tới mức không thể bao giờ trở lại sạch sẽ được nữa. Tôi cúi xuống hôn lên má con trai mình. Thằng bé rên rỉ và quay đầu tránh đi. Tôi để nó nằm đấy và quay vào chuồng gia súc tìm các dụng cụ của mình. Khi nó đến tìm tôi ba giờ sau đó, tôi đã lôi hết những mảnh nắp giếng vỡ còn nằm lại trên miệng giếng ra ngoài và xúc đất lấp lòng giếng lại.

“Con sẽ giúp bố một tay,” con trai tôi nói với giọng ủ ê rầu rĩ.

“Tốt. Hãy lấy chiếc xe tải và lái tới chỗ đống đá phế thải ở West Fence...”

“Mình con sao?” Vẻ không tin nổi trong giọng nói của thằng bé chỉ thoáng qua, nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn khi nghe thấy bất cứ cảm xúc nào trong đó.

“Con biết hết về các số tiến rồi, và con có thể tự tìm ra số lùi, phải không nào?”

“Vâng...”

“Vậy thì con sẽ ổn thôi. Bố sẽ có đủ thứ việc phải làm trong thời gian đó, và khi con quay trở về, việc kinh khủng nhất cũng sẽ xong rồi.”

Tôi chờ đợi thằng bé nói với tôi lần nữa rằng việc tồi tệ nhất sẽ chẳng bao giờ kết thúc, nhưng nó không nói gì. Tôi lại tiếp tục xúc đất. Tôi vẫn có thể nhìn thấy đỉnh đầu Arlette và cái bao tải với lọn tóc kinh khủng bị lôi ra bên trên nó. Có khi lúc này trong tổ ấm nằm giữa hai đùi cô vợ đã chết của tôi đã lúc nhúc cả một bầy chuột sơ sinh mới đẻ.

Tôi nghe thấy máy chiếc xe tải nổ lọc xọc một lần, rồi hai. Tôi hy vọng cái tay quay không văng lại và đánh gãy tay Henry.

Lần thứ ba con trai tôi quay tay quay, và chiếc xe tải cũ kỹ của chúng tôi rùng rùng sống dậy. Nó vào số hơi chậm một chút, làm động cơ gằn lên một hay hai lần, rồi lái xe đi. Con trai tôi đi mất gần một giờ đồng hồ, nhưng khi nó quay về, thùng xe đã chở đầy đá vụn và đất. Thằng bé lái xe tới sát bờ giếng và tắt máy. Nó đã cởi áo sơ mi ra, và thân hình bóng nhẫy mồ hôi của con trai tôi trông có phần quá gầy; tôi có thể đếm được từng cái xương sườn của nó. Tôi cố nhớ lại xem lần cuối cùng tôi nhìn thấy nó ăn một bữa ra hồn là khi nào, và lúc đầu không thể nhớ nổi. Sau đó tôi nghĩ hẳn đó là bữa sáng hôm sau khi chúng tôi đã ra tay với vợ tôi.

Mình sẽ chú ý để thằng bé có một bữa ăn ra hồn vào tối nay, tôi thầm nghĩ. Mình sẽ chú ý để cả hai đều ăn uống tử tế. Không có thịt bò, nhưng vẫn còn thịt lợn trong hộp đá...

“Bố, nhìn đằng kia xem,” con trai tôi lên tiếng bằng giọng nói ủ ê mới xuất hiện của nó, rồi chỉ tay ra phía xa.

Tôi nhìn thấy một quầng bụi hướng về phía chúng tôi. Tôi nhìn xuống giếng. Vẫn chưa ổn, chưa hề. Một nửa thân hình của Elphis vẫn còn đang giãy. Chuyện đó tất nhiên cũng chẳng hề hấn gì, song một góc của cái đệm thấm máu vẫn còn nhô ra ngoài đống đất được hất xuống.

“Giúp bố một tay,” tôi nói.

“Liệu bố con mình có đủ thời gian không hả bố?” Giọng con trai tôi chỉ thoáng chút bận tâm.

“Bố không biết nữa. Có thể. Nhưng đừng đứng đực ra đó nữa, lại đây giúp bố nào.”

Cái xẻng thứ hai đang được để dựa vào tường chuồng gia súc, bên cạnh những mảnh vỡ của cái nắp giếng. Henry cầm lấy xẻng, và chúng tôi bắt đầu xúc đất và đá vụn từ thùng xe tải hất xuống giếng nhanh hết sức có thể.

Khi chiếc xe của cảnh sát trưởng hạt với ngôi sao vàng sơn trên cửa và đèn nháy gắn trên nóc dừng lại bên cái thớt bổ củi (thêm một lần nữa làm George và đám gà mái nháo nhào bay loạn lên), Henry và tôi đang ngồi trên bậc cửa, cả hai bố con đều đã cởi áo sơ mi ra, và đang cùng nhau chia sẻ thứ cuối cùng Arlette James đã làm trên đời: một bình nước chanh. Cảnh sát trưởng James bước ra khỏi xe, xốc lại thắt lưng, bỏ cái mũ cao bồi hiệu Stetson đang đội trên đầu ra, vuốt mái tóc hoa râm của ông ta ra sau gáy, rồi lại đội mũ xuống, chỉnh trang lại nó dọc theo đường ranh giới nơi nước da trắng trên trán kết thúc và thay vào đó là nước da màu đồng hun. Ông ta chỉ có một mình. Tôi coi đây là một tín hiệu tốt.

“Chúc hai bố con một ngày tốt lành.” Ông cảnh sát trưởng quan sát khuôn ngực trần, những bàn tay nhem nhuốc và khuôn mặt đẫm mồ hôi của hai bố con tôi. “Công việc chiều nay có vẻ vất vả quá nhỉ?”

Tôi nhổ bọt. “Đó là do lỗi lầm đáng nguyền rủa của tôi.”

“Thật vậy sao?”

“Một con bò cái của nhà cháu ngã xuống cái giếng cũ dùng cấp nước cho gia súc,” Henry nói.

Jones lại hỏi, “Thật vậy sao?”

“Đúng thế,” tôi nói. “Ông có muốn uống một cốc nước chanh không, ông cảnh sát trưởng? Của Arlette đấy.”

“Của Arlette sao? Vậy bà nhà đã quay về rồi phải không?”

“Không,” tôi nói. “Cô ta mang theo những món váy áo ưa thích của mình, song bỏ lại nước chanh. Ông uống một chút đi.”

“Tôi sẽ uống. Nhưng trước hết tôi cần dùng nhà vệ sinh của các vị một chút. Vì tôi đã năm mươi lăm tuổi rồi, nên dường như hễ gặp bụi cây nào là tôi phải dừng lại tưới vậy. Quả là một chuyện bất tiện đáng nguyền rủa.”

“Nó ở đằng sau nhà. Cứ men theo lối đi và tìm hình trăng lưỡi liềm trên cửa.”

Ông ta phá lên cười như thể đây là câu pha trò hài hước nhất ông ta được nghe cả năm vừa qua, rồi đi vòng ra sau nhà. Liệu trên đường ông ta có dừng lại để ngó vào qua các cửa sổ không? Ông ta sẽ làm thế nếu có chút năng lực với công việc của mình, và tôi cũng nghe nói ông ta từng làm thế thật. Ít nhất khi ông ta còn trẻ.

“Bố,” Henry nói. Giọng nó thật khẽ.

Tôi quay sang nhìn nó.

“Nếu ông ấy tìm ra, chúng ta không thể làm gì khác nữa. Con có thể nói dối, nhưng sẽ không có chuyện giết thêm ai nữa.”

“Được thôi,” tôi nói. Đó là một cuộc nói chuyện ngắn, nhưng tôi vẫn thường xuyên nghĩ về nó trong suốt tám năm vừa qua.

Cảnh sát trưởng Jones quay trở lại, vẫn đang cài dở khuy quần.

“Đi vào rót cho ông cảnh sát trưởng một cốc,” tôi bảo Henry.

Henry đi vào trong nhà. Jones hoàn tất việc cài khuy quần, bỏ mũ ra, lại đưa tay lên vuốt tóc ra sau vài lần nữa, rồi đội mũ trở lại. Tấm phù hiệu của ông ta lấp lánh trong ánh nắng đầu giờ chiều. Khẩu súng ông ta mang bên hông trông rất to, và cho dù Jones quá già để có thể từng tham gia cuộc Đại Chiến[14], cái bao đeo súng trông giống như loại của AEF[15]. Có thể là của con trai ông ta. Con trai ông cảnh sát trưởng đã chết trong cuộc chiến đó.

“Nhà vệ sinh có mùi thật dễ chịu,” ông ta nói. “Luôn thật dễ chịu trong một ngày nóng nực.”

“Arlette vẫn thường xuyên cho vôi sống xuống đó,” tôi nói. “Tôi sẽ cố duy trì thói quen này nếu cô ta tiếp tục vắng nhà. Ông hãy lên thềm này ngồi cho mát.”

“Bóng mát nghe có vẻ hay đấy, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ đứng. Tôi cần kéo dãn cột sống của mình ra.”

Tôi ngồi xuống chiếc ghế xích đu có phủ đệm của mình. Ông cảnh sát trưởng đứng bên cạnh tôi, cúi mặt nhìn xuống. Tôi không thích phải ở trong vị trí này chút nào, song cũng cố kiên nhẫn chịu đựng. Henry quay ra mang theo một cái cốc. Cảnh sát trưởng Jones tự rót nước chanh cho mình, nếm thử, rồi ực một hơi gần cạn cốc và liếm môi.

“Ngon thật đấy, đúng không nào? Không chua quá, không ngọt quá, vừa đúng độ.” Ông ta bật cười. “Tôi giống như Goldilocks[16] vậy, phải không nào?” Rồi uống nốt chỗ nước chanh còn lại, nhưng lắc đầu khi Henry định rót thêm vào cốc cho ông ta. “Cậu muốn tôi đái vào tất cả các cọc rào trên đường quay lại Hemingford Home chắc? Rồi trên suốt quãng đường sau đó về thành phố Hemingford nữa?”

“Vậy là ông đã di chuyển văn phòng rồi sao?” tôi hỏi. “Tôi cứ nghĩ ông ở ngay Home kia.”

“Chẳng lẽ không phải thế sao? Cái ngày họ bắt tôi chuyển Văn phòng Cảnh sát trưởng về thủ phủ của hạt cũng sẽ là ngày tôi từ chức và chuyển lại nó cho Hap Birdwell đúng như anh ta muốn. Không, không, chỉ là một phiên tòa tôi phải tham dự trong thành phố thôi. Chỉ đơn thuần là việc giấy tờ, nhưng vậy đấy. Và anh biết ông thẩm phán Cripps là người thế nào rồi...mà cũng có thể là không, tôi đoán là anh không biết, vì anh vốn là kiểu người cố tránh xa phải dính dáng đến luật pháp. Ông ta là người nóng tính, và nếu có anh chàng nào có mặt không đúng giờ, tính tình ông ta còn trở nên tệ hại hơn nhiều. Vì thế cho dù chỉ là chuyện nói câu tuyên thệ trước Chúa rồi ký tên tôi lên một mớ giấy tờ pháp lý vớ vẩn, tôi cũng phải thu xếp thật khẩn trương công việc của tôi ở đây, phải không nào? Và hy vọng rằng cái xe mắc dịch của tôi không giở quẻ trên đường quay về.”

Tôi không nói gì sau khi lắng nghe tất cả. Ông ta nói năng không giống như một người đang vội vã, song có lẽ đó chỉ đơn giản là thói quen của ông ta.

Ông cảnh sát trưởng lại nhấc mũ lên, vuốt tóc vài cái nữa, nhưng lần này ông ta không đội mũ xuống. Ông ta chăm chú nhìn tôi, rồi chuyển sang Henry, rồi lại quay lại tôi. “Tôi đoán hai người cũng biết tôi tự ý mò đến đây. Tôi tin rằng những gì xảy ra giữa một người đàn ông và vợ anh ta là chuyện riêng của họ. Nên như thế, phải không nào? Kinh Thánh nói người đàn ông là cái đầu của một người phụ nữ, và nếu một người phụ nữ cần học điều gì, điều đó nên do chồng cô ta dạy tại nhà. Sách Corinthian. Nếu Kinh Thánh là ông chủ duy nhất của tôi, tôi sẽ làm đúng như Kinh Thánh và cuộc đời hẳn sẽ đơn giản hơn nhiều.”

“Tôi lấy làm ngạc nhiên khi ông Lester không tới đây cùng ông,” tôi nói.

“Ồ, ông ta muốn đến lắm, nhưng tôi gạt phắt đi. Ông ta cũng muốn tôi xin một trát khám nhà, nhưng tôi nói với ông ta rằng tôi không cần tới thứ đó. Tôi nói rằng hoặc anh sẽ cho phép tôi nhìn quanh một chút, hoặc có thể không.” Ông ta nhún vai. Khuôn mặt ông cảnh sát trưởng có vẻ bình thản, song đôi mắt ông ta thật sắc sảo, luôn luôn chuyển động: tìm kiếm và dò xét, dò xét và tìm kiếm.

Khi Henry hỏi tôi về cái giếng, tôi đã nói, Chúng ta sẽ quan sát ông ta và quyết định xem ông ta sắc sảo đến mức nào. Nếu ông ta sắc sảo, chúng ta sẽ tự dẫn ông ta tới xem. Chúng ta không thể để mình trông có vẻ như đang có gì đó cần giấu diếm. Nếu con thấy bố giơ ngón tay cái lên, có nghĩa là bố nghĩ chúng ta buộc phải thử vận may. Nhưng chúng ta cần nhất trí với nhau, Hank. Nếu bố không thấy con giơ ngón cái lên đáp lại, bố sẽ im lặng không nói gì.

Tôi giơ cốc của mình lên và uống nốt chỗ nước chanh còn lại. Khi tôi thấy Henry đang nhìn mình, tôi giơ ngón cái lên. Chỉ hơi nhích lên một chút. Hoàn toàn có thể coi như một cú co cơ.

“Cái ông Lester đó nghĩ gì vậy?” Henry hỏi, giọng có vẻ phẫn nộ. “Rằng bố con cháu trói mẹ cháu dưới hầm chắc?” Hai bàn tay thằng bé vẫn nằm im hai bên sườn nó, không hề động đậy.

Cảnh sát trưởng Jones bật cười thực sự, cái bụng tròn trịa của ông ta rung lên sau chiếc thắt lưng. “Tôi đâu thể biết ông ta nghĩ gì, phải không nào? Mà thực lòng tôi cũng không mấy bận tâm về điều đó. Đám luật sư chính là những con bọ chét bám trên làn da của bản chất con người. Tôi có thể nói như vậy, vì tôi từng làm việc cho bọn họ - và chống lại bọn họ nữa - trong suốt quãng đời trưởng thành của tôi. Nhưng...” Đôi mắt sắc sảo dán chặt vào mắt tôi. “Tôi không quan tâm tới chuyện kiểm tra, chính vì ông đã không cho ông ta vào nhìn ngó. Ông ta rất bực bội về chuyện đó.”

Henry gãi lên cánh tay nó. Ngón cái của thằng bé giơ lên hai lần trong lúc nó làm như thế.

“Tôi không cho phép ông ta vào nhà vì tôi không thích ông ta,” tôi nói. “Mặc dù nói một cách công bằng, tôi đoán chắc tôi cũng sẽ chống lại cả thánh Tông đồ John nếu ông ấy tìm đến đây vì quyền lợi của nhà Cole Farrington.”

Nghe đến đây, cảnh sát trưởng Jones bật cười to: Ha, ha, ha! Nhưng đôi mắt ông ta lại chẳng hề cười.

Tôi đứng dậy. Thật nhẹ nhõm khi đứng trên hai chân của mình. Khi đứng lên, tôi cao hơn Jones ba hay bốn inch. “Ông có thể nhìn vào trái tim mình.”

“Tôi đánh giá cao chuyện đó. Như thế cuộc sống của tôi sẽ dễ dàng hơn nhiều, phải không nào? Tôi đã có thẩm phán Cripps để đối phó khi quay về rồi, như thế cũng là quá đủ. Không cần phải nghe thêm một trong những gã chó săn luật sư của Farrington ngoạc mồm ra sủa vào mặt tôi, nếu tôi có thể tránh được chuyện đó.”

Chúng tôi cùng đi vào trong nhà, tôi dẫn đầu, và Henry đi sau cùng. Sau vài lời khen ngợi vị khách dành cho sự sạch sẽ của phòng khách và ngăn nắp của nhà bếp, chúng tôi đi xuống cuối lối đi. Cảnh sát trưởng Jones liếc mắt nhìn chiếu lệ vào phòng Henry, sau đó chúng tôi tới nơi quan trọng nhất. Tôi đẩy mở cánh cửa dẫn vào phòng ngủ của mình với một cảm giác chắc chắn thật lạ lùng: tất cả máu sẽ quay trở lại. Sẽ lênh láng dưới sàn, bắn lên tường, ướt sũng tấm đệm mới. Cảnh sát trưởng Jones sẽ nhìn thấy. Sau đó ông ta sẽ quay sang tôi, lấy cái còng tay đang treo lủng lẳng bên phía đối diện với khẩu súng ổ quay trên vòng hông mập mạp của mình, và nói: Tôi sẽ bắt giữ ông vì tội sát hại Arlette James, được chứ?

Không còn vết máu hay chút mùi máu nào trong đó, vì căn phòng đã được thông khí suốt nhiều ngày qua. Giường đã được sắp lại, cho dù không phải theo cách Arlette vẫn làm; cách sắp giường của tôi giống theo kiểu quân đội hơn, cho dù hai bàn chân của tôi đã giữ tôi đứng ngoài cuộc chiến đã cướp đi con trai của ông cảnh sát trưởng. Không thể đi giết bọn Kraut[17] khi anh có hai bàn chân bẹt. Những gã đàn ông có bàn chân bẹt chỉ có thể giết vợ.

“Phòng đẹp lắm,” Cảnh sát trưởng Jones nhận xét. “Cho phép đón ánh sáng buổi sớm, phải không?”

“Phải,” tôi nói. “Và mát mẻ gần hết buổi chiều, thậm chí cả vào mùa hè, vì mặt trời đã ngả về phía bên kia.” Tôi đi lại tủ quần áo và mở nó ra. Cảm giác chắc chắn lúc trước lại quay trở lại, mạnh hơn bao giờ hết. Tấm mền đâu rồi? ông ta sẽ hỏi. Cái mền vốn để ở giữa tầng giá trên cùng ấy?

Tất nhiên, ông ta không hề hỏi vậy, song ông cảnh sát trưởng bước tới khá hăng hái khi tôi mời ông ta. Đôi mắt sắc sảo của ông - màu xanh lục rất sáng, gần như mắt mèo - quan sát chỗ này, chỗ kia, mọi chỗ. “Nhiều đồ quá,” ông ta nói.

“Phải,” tôi thừa nhận. “Arlette thích váy áo và cô ta cũng thích những cuốn ca ta lô đặt hàng qua bưu điện. Nhưng vì cô ta chỉ mang theo có một cái va li - chúng tôi có hai cái, và chiếc còn lại vẫn ở kia, ông có thấy nó trong góc đằng sau không? - tôi buộc phải nói rằng cô ta đã chỉ mang theo những món cô ta thích nhất. Và những món thực sự hữu dụng, tôi đoán vậy. Cô ta có hai cái quần ống rộng và một cái quần bò màu xanh, và tất cả đều biến mất rồi, cho dù cô ta không quan tâm đến mấy cái quần vải.”

“Tuy thế, quần vải rất tiện lợi khi đi đường, phải không nào? Cho dù là đàn ông hay đàn bà, quần vải cũng rất tiện lợi khi đi đường. Và một phụ nữ hoàn toàn có thể lựa chọn chúng. Ý tôi là khi cô ta vội.”

“Tôi đoán là thế.”

“Mẹ cháu đã mang theo những món trang sức đắt giá của mẹ cùng bức ảnh mẹ chụp chung với ông bà ngoại,” Henry lên tiếng sau lưng chúng tôi. Tôi hơi giật mình; tôi hầu như đã quên khuấy mất thằng bé cũng đang có mặt.

“Thật thế sao? Được lắm, ta đoán là bà ấy sẽ có thể làm vậy.”

Ông cảnh sát trưởng liếc qua lần nữa đống quần áo, rồi đóng cửa tủ lại. “Căn phòng đẹp lắm,” ông ta nói, quay trở ra lối đi, chiếc mũ cao bồi hiệu Stetson vẫn cầm trên tay. “Ngôi nhà đẹp lắm. Một người phụ nữ hẳn phải điên mới rời khỏi một căn phòng và một ngôi nhà đẹp thế này.”

“Mẹ cháu nói rất nhiều về thành phố,” Henry nói, rồi thở dài. “Mẹ cháu từng có ý định mở một cửa hiệu gì đó.”

“Thật vậy sao?” Cảnh sát trưởng Jones chăm chú nhìn thằng bé với đôi mắt mèo xanh lục của ông ta. “Được lắm! Nhưng một việc như thế sẽ cần đến tiền, phải không nào?”

“Cô ta có khu đất được thừa kế từ bố mình,” tôi nói.

“Phải rồi, phải rồi.” Ông ta mỉm cười rụt rè, như thể đã quên mất khu đất đó. “Và có thể như thế lại tốt hơn. “Thà rằng sống ở một vùng đất hoang còn hơn sống với một người đàn bà cay nghiệt luôn cáu bẳn”. Sách Cách ngôn. Cháu có thấy vui vì mẹ cháu đã bỏ đi không, chàng trai?”

“Không,” Henry nói, và nước mắt trào ra từ đôi mắt thằng bé. Tôi thầm tạ ơn từng giọt.

Cảnh sát trưởng Jones nói, “Thôi nào, thôi nào”. Sau khi đã an ủi qua loa như thế, ông ta cúi xuống, chống hai bàn tay lên hai bên đầu gối mập mạp, và nhìn vào dưới gầm giường. “Xem ra dưới này có một đôi giày nữ. Giày đế bằng. Loại phù hợp cho đi bộ. Ông không nghĩ rằng bà nhà đi chân đất bỏ đi đấy chứ?”

“Cô ta đi đôi giày vải,” tôi nói. “Đôi đó đã biến mất.”

Đúng thế. Đôi giày màu xanh lá cây đã bạc màu mà vợ tôi hay gọi là đôi giày làm vườn của cô ta. Tôi nhớ rõ đã thấy chúng trước khi bắt đầu lấp đất xuống giếng.

“À!” ông ta thốt lên. “Thêm một bí ẩn nữa được sáng tỏ.” Ông cảnh sát trưởng lấy từ trong túi áo vét ra một cái đồng hồ vỏ bạc và xem giờ. “Được rồi, tốt hơn tôi nên quay về. Thời gian trôi đi nhanh quá.”

Chúng tôi lại quay trở ra qua trong nhà, Henry đi sau cùng, có lẽ để nó có thể lau khô mắt một cách riêng tư. Chúng tôi đi cùng ông cảnh sát trưởng tới chỗ chiếc sedan Maxwell có ngôi sao trên cánh cửa của ông ta. Tôi đang định hỏi ông ta có muốn xem qua cái giếng hay không - thậm chí tôi còn biết chắc mình sẽ gọi nó bằng cái tên nào - thì ông ta dừng lại và dành cho con trai tôi một cái nhìn tử tế khủng khiếp.

“Ta đã ghé qua chỗ nhà Cotterie,” ông ta nói.

“Vậy ư?” Henry hỏi. “Ông đã ghé qua đó thực sao?”

“Ta đã nói với hai người là dạo này qua bụi cây nào ta cũng phải dừng lại để xả nước rồi còn gì, nhưng ta sẽ dùng nhà vệ sinh bất cứ khi nào có trong tầm tay, luôn với điều kiện là chủ nhân của chúng giữ chúng sạch sẽ và ta không phải lo ngại ong bắp cày trong lúc chờ cái vòi của ta thả nốt những giọt cuối cùng xuống. Và gia đình Cotterie là những con người sạch sẽ. Cô con gái cũng rất xinh nữa. Cô bé cũng trạc tuổi cháu, đúng không?”

“Vâng, thưa ông,” Henry nói, hơi lên giọng một chút khi nói đến thưa ông.

“Ta đoán là cháu cũng có cảm tình với cô bé, phải không? Và cô bé cũng có cảm tình với cháu, theo như những gì mẹ cô bé nói.”

“Cô ấy nói vậy thật sao ạ?” Henry hỏi. Giọng nói của thằng bé có vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng rất vui sướng.

“Đúng vậy. Bà Cotterie nói cháu rất buồn phiền về mẹ cháu, và Shannon đã kể cho bà ấy nghe chuyện gì đó cháu đã nói về việc này. Ta đã hỏi bà ấy chuyện đó là gì, và bà ấy nói đó là chuyện bà ấy không tiện nói ra, nhưng ta có thể hỏi Shannon. Và ta đã làm thế.”

Henry nhìn chằm chằm xuống dưới chân nó. “Cháu đã bảo bạn ấy không kể lại với ai khác.”

“Cháu sẽ không phiền lòng với cô bé chứ, phải không nào?” Cảnh sát trưởng Jones hỏi. “Ý ta là, khi một người to con như ta với một ngôi sao trên ngực ông ta hỏi một cô bé những gì cô ta biết, cô bé thật khó lòng mà giữ mồm giữ miệng được, phải không nào? Cô bé đành phải kể ra thôi, phải không?”

“Cháu không biết,” Henry nói, vẫn cúi gằm mặt xuống. “Có thể lắm.” Thằng bé không chỉ đơn thuần tỏ vẻ bất hạnh; nó đangthực sự bất hạnh. Cho dù đó đúng là bộ dạng chúng tôi đã hy vọng thể hiện ra được.

“Shannon nói mẹ cháu và bố cháu đã cãi cọ nhau dữ dội về việc bán khu đất trăm mẫu đó, và khi cháu đứng về phía bố cháu, mẹ đã tát cháu rất mạnh.”

“Vâng,” Henry nói một cách vô cảm. “Mẹ cháu đã uống quá nhiều.”

Cảnh sát trưởng Jones quay sang tôi. “Bà nhà uống say khướt hay chỉ chếnh choáng thôi?”

“Ở đâu đó giữa hai mức độ đó,” tôi nói. “Nếu cô ta đã say mềm hẳn, thì chắc cô ta sẽ ngủ yên cả đêm thay vì bò dậy, xếp đồ vào vali và lén lút bỏ đi như kẻ trộm vậy.”

“Ông có nghĩ bà nhà sẽ quay về khi tỉnh rượu không?”

“Tôi đã nghĩ thế. Chỗ này cách đường nhựa chừng hơn bốn dặm. Tôi đã nghĩ chắc chắn cô ta sẽ quay về. Chắc hẳn phải có ai đó đi ngang qua và cho cô ta đi nhờ xe trước khi đầu óc cô ta tỉnh hẳn. Theo tôi đoán thì đó là một tay tài xế xe tải chạy tuyến Lincoln - Omaha.”

“Hẳn rồi, hẳn rồi, tôi cũng đoán thế. Tôi tin chắc thế nào ông cũng được biết tin của bà nhà khi bà ấy liên lạc với ông Lester. Nếu bà nhà muốn tách ra sống riêng, nếu vợ ông đã có ý tưởng đó trong đầu, bà nhà sẽ cần đến tiền để thực hiện việc này.”

Vậy là ông ta cũng biết cả việc đó nữa.

Đôi mắt ông cảnh sát trưởng bỗng trở nên sắc lạnh. “Ông có biết liệu bà nhà có tiền không, ông James?”

“À...”

“Đừng xấu hổ. Xưng tội là điều tốt cho linh hồn. Những người Công giáo cần bám lấy thứ gì đó ngoài kia, phải không nào?”

“Tôi có cất một cái hộp trong ngăn kéo. Trong đó có 200 đô la, dùng để trả tiền cho những người thu hoạch thuê khi họ bắt đầu làm việc vào tháng tới.”

“Và trả cho ông Cotterie nữa,” Henry nhắc cho tôi nhớ. Quay sang cảnh sát trưởng Jones, thằng bé nói: “Ông Cotterie có một máy thu hoạch ngô. Một cái máy hiệu Harris Giant. Gần như còn mới tinh. Một cái máy rất tuyệt.”

“Phải rồi, phải rồi, ta đã thấy nó ở ngoài sân nhà ông ấy. Quả là một cái máy bự con, phải không nào? Thứ lỗi cho giọng Ba Lan của tôi. Tiền đã biến mất hết khỏi cái hộp rồi, phải không?”

Tôi mỉm cười chua chát - chỉ có điều không thực sự là tôi chường ra nụ cười đó; Kẻ Ma Quái đã ra tay đảm nhiệm mọi sự kể từ lúc cảnh sát trưởng Jones dừng xe bên cái thớt bổ củi. “Cô ta để lại hai mươi đô la. Quả là rộng rãi. Nhưng hai mươi là số tiền tối đa Harlan Cotterie sẽ lấy để cho thuê cái máy thu hoạch ngô của ông ấy, vậy nên cũng ổn thôi. Và khi cần tiền thuê người thu hoạch, tôi đoán Stoppenhauser tại nhà băng sẽ ứng cho tôi một khoản vay. Trừ khi ông ta có nợ nần gì đó với Công ty Farrington, tất nhiên rồi. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng có tay nhà nông giỏi nhất của mình ở đây rồi.”

Tôi cố làm bộ xoa đầu Henry. Thằng bé bối rối lảng ra.

“Được rồi, tôi đã có đủ tin tức để báo lại cho ông Lester rồi, phải không nào? Ông ta sẽ chẳng thích thú gì với bất cứ tin nào trong số này, nhưng nếu ông ta khôn ngoan đúng như ông ta tự nghĩ về mình, tôi đoán ông ta sẽ biết phải chờ đợi bà nhà tại văn phòng của mình, và sớm thôi chứ không lâu nữa. Con người ta thường có xu hướng chường mặt ra sớm khi thiếu những tờ xanh gấp trong ví, phải không nào?”

“Đó là kinh nghiệm của chính tôi,” tôi nói. “Nếu chúng ta đã xong rồi, thưa cảnh sát trưởng, tốt hơn con trai tôi và tôi nên quay lại làm việc. Đáng ra cái giếng vô dụng đó phải được lấp đi từ ba năm trước rồi. Một con bò cái già của tôi...”

“Elphis,” Henry nói như một cậu nhóc đang nằm mơ. “Tên nó là Elphis.”

“Elphis,” tôi đồng ý. “Nó mò ra khỏi chuồng và quyết định thử leo lên nắp giếng, và cái nắp sụp xuống. Mà con bò già đó còn chẳng chịu tự chết đi nữa. Tôi đã phải bắn nó. Mời ông đi ra đằng sau chuồng gia súc, tôi sẽ chỉ cho ông thấy con vật lười nhác đó với những cái chân chết tiệt của nó chĩa cả lên trời. Chúng tôi sẽ chôn nó luôn ở đúng chỗ nó đang nằm, và từ giờ trở đi tôi sẽ gọi cái giếng cũ đó là Cơn Điên của Wilfred.”

“À, liệu tôi có nên đi xem không nhỉ? Cũng là một thứ đáng ngó qua đấy. Nhưng tôi còn phải làm hài lòng ông thẩm phán già khó tính kia nữa. Để lúc khác vậy.” Ông ta ì ạch chui vào trong xe, vừa chui vào vừa lầm bầm. “Cảm ơn ông vì nước chanh, và vì cuộc đón tiếp chu đáo. Ông hoàn toàn có thể tỏ ra ít mến khách hơn thế nhiều, nếu tính đến người đã đưa tôi tới đây.”

“Không sao đâu,” tôi nói. “Chúng ta ai cũng có công việc của mình mà.”

“Và gánh nặng phải mang nữa.” Đôi mắt sắc sảo của ông cảnh sát trưởng lại dừng lại ở Henry. “Con trai, ông Lester nói với ta rằng cháu đang giấu diếm điều gì đó. Ông ta tin chắc về chuyện đó. Và có đúng vậy không?”

“Đúng thế, thưa ông,” Henry nói với giọng nói vô cảm và có phần khó chịu. Như thể mọi cảm xúc của thằng bé đã bay biến hết cả, như những thứ ở trong chiếc vò của Pandora khi cô ta mở nó ra. Nhưng không còn Elphis nào cho Henry và tôi; Elphis của chúng tôi đã chết ở dưới giếng.

“Nếu ông ấy hỏi ta, ta sẽ nói với ông ấy rằng ông ấy đã nhầm,” cảnh sát trưởng Jones nói. “Một luật sư của công ty không cần phải biết mẹ của một cậu bé đã đánh nó khi bà ta đang say.” Ông ta lục lọi dưới gầm ghế ngồi của mình, rồi lôi ra một món đồ hình chữ S dài mà tôi biết quá rõ, rồi đưa nó cho Henry. “Cháu có thể giúp một chút cho cái lưng và đôi vai của một lão già không, con trai?”

“Có chứ, thưa ông, rất sẵn lòng.” Henry cầm lấy cần khởi động và đi ra phía trước chiếc Maxwell.

“Cẩn thận cổ tay cháu đấy!” Jones lớn tiếng. “Nó quật lại như một con bò tót ấy!” Rồi ông ta quay sang tôi. Tia dò hỏi đã biến mất khỏi đôi mắt ông ta. Cả màu xanh lục cũng thế. Đôi mắt giờ đây trở nên đờ đẫn, ngả màu xám và thật cứng rắn, giống như mặt nước hồ vào một ngày đầy mây. Đó là khuôn mặt của một người đàn ông có thể lao vụt qua đường ray chỉ cách đoàn tàu một inch và chẳng bao giờ mất ngủ dù chỉ một phút vì chuyện đó. “Ông James,” ông ta nói. “Tôi cần hỏi ông một điều. Như hai người đàn ông với nhau.”

“Được thôi,” tôi nói. Tôi cố trấn tĩnh lại để đón nhận câu hỏi mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ tới tiếp theo: Có phải còn một con bò cái nữa dưới giếng không? Một con bò cái có tên Arlette? Nhưng tôi đã lầm.

“Tôi có thể chuyển họ tên và bản mô tả đặc điểm cá nhân của bà nhà đi theo đường điện tín, nếu ông muốn. Chắc chắn bà nhà sẽ không đi xa hơn Omaha, phải không nào? Không thể, với chỉ một trăm tám mươi đô trong túi. Và một người phụ nữ đã trải qua phần lớn cuộc đời làm việc nội trợ trong nhà hiển nhiên không thể biết cách lẩn trốn. Có lẽ bà nhà đang ở trong một nhà trọ tại khu đông, nơi giá phòng rẻ. Tôi có thể đưa cô ta về nhà. Túm tóc lôi về, nếu ông muốn.”

“Đúng là một lời đề nghị hào phóng, nhưng...”

Đôi mắt xám đờ đẫn chăm chú nhìn tôi. “Hãy nghĩ cho kỹ trước khi ông trả lời có hay không. Đôi khi cần nói chuyện với một người đàn bà bằng tay chân, nếu ông hiểu ý tôi muốn nói gì? và sau đó họ sẽ ổn cả. Một trận đòn ra trò đôi khi lại làm một số người đàn bà trở nên dịu dàng hơn. Hãy thử cân nhắc đi.”

“Tôi sẽ làm thế.”

Động cơ chiếc Maxwell nổ giòn. Tôi chìa bàn tay ra - chính bàn tay đã cắt cổ vợ tôi - nhưng cảnh sát trưởng Jones không để ý đến. Ông ta đang bận rộn với việc vào số và chỉnh chân ga của chiếc Maxwell.

Hai phút sau, ông ta chỉ còn là một đám bụi bốc lên trên con đường chạy từ trang trại ra.

“Ông ấy thậm chí còn chẳng hề muốn nhìn qua,” Henry ngỡ ngàng.

“Không.”

Và hóa ra đó lại là chuyện tốt.

Chúng tôi đã xúc đất rất lấp giếng rất nhanh khi thấy ông cảnh sát trưởng tới, và giờ đây không còn gì thò lên ngoài một bên chân sau của Elphis. Móng guốc của cái chân đó nằm cách miệng giếng chừng một mét hai. Ruồi bu đầy xung quanh nó như một đám mây. Vậy đấy, ông cảnh sát trưởng đã hoàn toàn có thể bận tâm xem qua, và thậm chí còn bận tâm hơn nữa khi đám đất phía trước cái móng guốc còn nhô lên đó bắt đầu phập phồng nhô lên hạ xuống.

Henry đánh rơi cái xẻng của nó và bám chặt lấy tay tôi. Chiều hôm đó rất nóng, nhưng bàn tay thằng bé lại lạnh toát. “Là bà ấy!” nó thì thầm. Dường như trên khuôn mặt nó chỉ còn lại đôi mắt đang mở to hết cỡ. “Bà ấy đang cố thoát ra!”

“Thôi ngay trò ngu ngốc đáng nguyền rủa đó đi,” tôi nói? nhưng tôi cũng không thể rời mắt khỏi khoảng đất hình tròn đang phập phồng đó. Như thể cái giếng đang sống dậy; và chúng tôi đang trông thấy trái tim bị vùi kín của nó đập.

Sau đó, đất và đá vụn bắn tung ra xung quanh và một con chuột nhô lên. Đôi mắt của nó, đen nhán như hai giọt dầu, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Con chuột phải to gần bằng một con mèo trưởng thành. Mắc vào bộ ria của nó là một mảnh bao tải màu nâu dính máu.

“Ôi, chết tiệt!” Henry gào lên.

Có thứ gì đó rít lên lao qua sát bên tai tôi, rồi lưỡi chiếc xẻng của Henry chém vỡ đôi đầu con chuột trong lúc nó ngước mắt nhìn lên bầu trời nắng chói chang.

“Bà ấy gửi nó tới,” Henry nói. Thằng bé đang cười hết cỡ. “Giờ những con chuột đã trở thành của bà ấy.”

“Không thể có chuyện như thế. Chỉ là con quá kích động thôi.”

Con trai tôi buông rơi cái xẻng xuống và bước tới chỗ đống đá chúng tôi định dùng để hoàn tất công việc khi cái giếng đã được lấp gần đầy. Thằng bé ngồi xuống đó và bắt đầu nhìn tôi chăm chú. “Bố có chắc vậy không? Bố có chắc chắn không phải bà ấy đang ám ảnh chúng ta không? Người ta nói một người bị sát hại sẽ quay trở lại để ám ảnh bất cứ ai...”

“Người ta nói nhiều thứ lắm. Sét không bao giờ đánh hai lần xuống cùng một chỗ, một cái gương vỡ mang tới bảy năm đen đủi, một con chim đớp muỗi hót lúc nửa đêm có nghĩa là ai đó trong gia đình sắp qua đời.” Tôi nói với vẻ đầy lý trí, song tôi vẫn không rời mắt được khỏi con chuột đã chết. Và vết máu trên mảnh bao tải đó. Từ cái bao tải chụp trên đầu vợ tôi. Cô ta vẫn còn đeo nó trên đầu khi bị ném xuống giếng, chỉ có điều giờ đây trên chiếc bao tải đã có một lỗ thủng với tóc của cô ta dựng lên thò qua đó. Vẻ mặt đó thật hay gặp ở những người đàn bà đã chết vào mùa hè này, tôi thầm nghĩ.

“Khi con còn bé, con đã thực sự tin rằng nếu con giẫm lên một đốt sống lưng, con sẽ làm gãy lưng mẹ,” Henry trầm ngâm nói.

“Đằng kia - bố thấy không?”

Thằng bé phủi bụi đá khỏi đũng quần, và đứng dậy bên cạnh tôi. “Con nghĩ con đã giết được nó - con đã giết được con chuột khốn kiếp đó rồi, đúng không?”

“Đúng rồi!” Và vì tôi không hề thích cách thằng bé nói - không, không hề - tôi vỗ lên lưng nó.

Henry vẫn đang cười. “Nếu ông cảnh sát trưởng quay lại đây để nhìn qua như bố đã mời ông ấy và thấy con chuột đó đào đất chui lên, có khi ông ấy đã lại có thêm vài câu hỏi nữa, bố có nghĩ thế không?”

Có điều gì đó trong ý tưởng này làm Henry phá lên cười sằng sặc đầy kích động. Phải mất bốn hay năm phút để thằng bé cười xong, và nó khiến lũ quạ trên hàng rào sợ chết khiếp đến mức không dám bén mảng lại gần đồng ngô, nhưng cuối cùng con trai tôi cũng bình tâm lại. Khi hai bố con tôi hoàn tất việc lấp giếng, mặt trời đã lặn từ lâu, và chúng tôi có thể nghe thấy tiếng những con cú so giọng với nhau trong khi bắt đầu những chuyến săn đêm trước lúc trăng mọc từ nóc chuồng gia súc. Những tảng đá đổ lên trên cái giếng đã biến mất được đầm chặt vào nhau, và tôi không nghĩ còn có con chuột nào sẽ có thể thò được lên bề mặt. Hai bố con tôi cũng chẳng buồn thay cái nắp giếng cũ đã vỡ; chẳng cần thiết phải làm thế. Henry dường như đã trở lại bình thường, và tôi nghĩ có lẽ cả hai chúng tôi sẽ được hưởng một giấc ngủ ngon ban đêm.

“Con nói sao về xúc xích, đậu hạt và bánh ngô?” tôi hỏi thằng bé.

“Con có thể bật máy phát điện và mở bài Hayride Party trên radio không ạ?”

“Tất nhiên, thưa quý ông, ông có thể.”

Nghe thấy câu trả lời, thằng bé mỉm cười, nụ cười đáng yêu thuở trước. “Cảm ơn bố.”

Tôi nấu đủ đồ ăn cho bốn người, và hai bố con tôi ăn hết nhẵn.

Hai giờ sau, trong lúc tôi đang ngồi trên chiếc ghế tựa trong phòng khách gật gù đọc Silas Marner[18], Henry từ phòng nó đi vào, chỉ mặc độc có đồ lót mùa hè. Nó nhìn tôi hoàn toàn tỉnh táo. “Mẹ luôn khăng khăng buộc con phải cầu nguyện, bố có biết chuyện đó không?”

Tôi ngạc nhiên nháy mắt với thằng bé. “Vẫn chưa ngủ sao? Không. Bố không biết.”

“Đúng thế đấy. Ngay cả sau khi mẹ chỉ nhìn con khi con đã mặc quần tử tế, bởi vì bà ấy nói con đã quá lớn và sẽ không phải nếu không làm thế. Nhưng bây giờ con không thể cầu nguyện, hay sau này cũng thế. Nếu con quỳ xuống, con nghĩ Chúa sẽ đánh chết con.”

“Nếu như có Chúa thật,” tôi nói.

“Con hy vọng là không có. Nghe thật cô độc, nhưng con hy vọng là không có. Con nghĩ tất cả những kẻ sát nhân đều hy vọng như thế. Bởi vì nếu không có Thiên Đường, cũng sẽ chẳng có Địa Ngục.”

“Con trai, bố mới là người giết bà ấy.”

“Khộng - chúng ta đã cùng nhau làm việc đó.”

Không đúng thế - con trai tôi mới chỉ là một đứa trẻ, và tôi đã ép buộc nó - nhưng với nó đúng là như thế, và tôi nghĩ sẽ luôn là như thế.

“Nhưng bố sẽ không phải lo về con đâu. Con biết bố nghĩ con sẽ làm lộ chuyện - nhiều khả năng là với Shannon. Hoặc có thể con sẽ cảm thấy tội lỗi đến mức đi tới Hemingford và thú tội với ông cảnh sát trưởng.”

Tất nhiên những ý nghĩ đó đã thoáng qua đầu tôi.

Henry chậm rãi lắc đầu đầy thông cảm. “Ông cảnh sát trưởng đó - bố có thấy ông ta nhìn mọi thứ như thế nào không? Bố có thấy đôi mắt của ông ta không?”

“Có.”

“Ông ta cố đẩy cả hai chúng ta lên ghế điện, con nghĩ thế, và không hề bận tâm tới chuyện con chưa đủ mười lăm tuổi cho tới tận tháng Tám. Ông ta rồi cũng sẽ có mặt ở đó, nhìn chằm chằm vào chúng ta với đôi mắt khắc nghiệt của mình khi người ta chằng dây điện vào chúng ta và...”

“Thôi đi, Hank. Đủ rồi đấy.”

Song như thế với thằng bé vẫn là chưa đủ. “... và sập cầu giao. Con sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra, nếu con có thể làm gì đó. Những con mắt ấy sẽ không bao giờ là thứ cuối cùng con nhìn thấy.” Thằng bé nghĩ lại những gì nó vừa nói. “Không bao giờ, ý con là vậy đấy. Không bao giờ.”

“Lên giường đi ngủ đi, Henry.”

[12] Một trò chơi diễn ra vào ngày 1 tháng 5 ở nhiều nước phương Tây, trong đó một cây nêu được dựng lên, có buộc nhiều dải vải màu dài, những người tham gia chơi cầm lấy các dải vải và nhảy vòng quanh cây nêu.

[13] 5,6 mm.

[14] Thế chiến thứ nhất (1914 - 1918).

[15] American Expeditionary Force: Lực lượng viễn chinh Mỹ được gửi tới châu Âu tham chiến trong Thế chiến thứ nhất.

[16] Tên nhân vật cô bé lạc trong rừng vào nhà của gia đình gấu, ăn cháo rồi leo lên giường của gấu con ngủ. Thường dùng để ám chỉ người không được hoan nghênh, chào đón.

[17] Đức (cách gọi mỉa mai).

[18] Tên một cuốn tiểu thuyết của nhà văn nữ người Anh Mary Anne Evans (1819 - 1880) xuất bản dưới bút danh George Eliot.