← Quay lại trang sách

Chương 6

“Hank.”

“Hank. Đi ngủ đi con. Bố yêu con.”

Thằng bé mỉm cười. “Con biết, nhưng con không mấy xứng đáng với nó.” Rồi bỏ đi trước khi tôi kịp trả lời.

Vậy là đi ngủ, như ông Pepys[19] nói. Chúng tôi ngủ thiếp đi trong lúc những con cú săn mồi và Arlette ngồi dưới bóng tối sâu thẳm của cô ta với nửa dưới khuôn mặt bị móng guốc của con bò cái đá lệch sang một bên. Ngày hôm sau mặt trời xuất hiện, một ngày tốt cho những cây ngô, và chúng tôi cùng bắt tay vào làm việc.

Khi tôi quay vào nhà, nóng bức, mệt nhoài, để chuẩn bị cho hai bố con một bữa trưa, có một cái xoong đậy nắp đặt trên ngưỡng cửa. Một tờ giấy ghi lời nhắn bay phấp phới được kê vào dưới một bên cái xoong. Trên đó viết: Wilf - Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì những rắc rối anh gặp phải và sẵn sàng giúp đỡ anh theo mọi cách có thể. Harlan nói anh đừng lo về việc trả tiền thuê máy thu hoạch ngô vụ hè năm nay. Nếu anh biết được tin tức gì từ vợ anh, làm ơn hãy cho chúng tôi biết. Chào anh, Sallie Cotterie.

Tái bút: Nếu Henry tới thăm Shan, tôi sẽ gửi cho hai bố con một cái bánh quả việt quất.

Tôi nhét tờ giấy vào trong túi trên chiếc quần yếm tôi đang mặc và mỉm cười. Cuộc sống của chúng tôi không còn Arlette đã bắt đầu.

Nếu Chúa tưởng thưởng cho chúng ta trên thế gian này vì những việc tốt - Kinh Cựu Ước cho là như thế, và chắc chắn những người Thanh Giáo cũng tin vào điều này - thì rất có thể Satan tưởng thưởng cho chúng tôi vì những việc xấu. Tôi không thể nói chắc chắn, nhưng tôi có thể nói rằng mùa hè năm đó thật tuyệt, với rất nhiều nắng ấm và mặt trời cho cánh đồng ngô và vừa đủ mưa để giữ cho những mẫu ruộng rau của chúng tôi xanh tốt. Cũng có sấm chớp xảy ra vào một vài buổi chiều, song không hề xuất hiện lần nào những cơn gió lốc làm xóa sổ hết mùa màng mà nông dân vùng Trung Tây vẫn e sợ. Harlan Cotterie đến cùng chiếc máy Harris Giant, và cái máy đã không bị trục trặc lần nào. Tôi có được khoản vay từ ngân hàng mà không gặp bất cứ rắc rối nào, và trả lại đầy đủ vào tháng Mười, vì năm đó giá ngô đột nhiên cao vọt lên tới khó tin và phí vận chuyển của công ty đường sắt Miền Tây lại hạ thấp kỷ lục. Nếu các vị nhớ rõ môn lịch sử, các vị hẳn còn nhớ rằng hai thứ đó - giá của sản phẩm và chi phí vận chuyển - đã đảo chỗ cho nhau từ năm 1923 và vẫn giữ nguyên như thế kể từ đó. Với những người nông dân của vùng Trung Tây, cuộc Đại Suy Thoái bắt đầu khi Thị trường Hàng hóa Nông nghiệp Chicago sụp đổ vào mùa hè tiếp theo. Nhưng mùa hè năm 1922 quả là hoàn hảo như mơ ước của bất cứ người nông dân nào. Chỉ một biến cố duy nhất phủ bóng đen lên nó, và lại liên quan tới một con bò cái khác của chúng tôi, và tôi sẽ kể ngay cho quý vị biết về biến cố này.

Ông Lester có tìm đến hai lần nữa. Ông ta cố quấy rầy chúng tôi, nhưng ông ta chẳng có gì đưa ra làm cớ để quấy rầy, và hẳn là tay luật sư cũng biết thế, vì trong ông ta rất vội vã vào tháng Bảy năm ấy. Tôi hình dung ra các ông chủ của tay luật sư cũng đang quấy quả ông ta quyết liệt, và ông ta chỉ đơn giản là chuyển tải lại chúng tới chúng tôi. Hay cố gắng làm như thế.

Lần thứ nhất, ông ta hỏi rất nhiều những câu hỏi mà kỳ thực cũng chẳng phải là câu hỏi, mà là những câu ám chỉ bóng gió. Tôi có cho rằng vợ tôi đã gặp phải một tai nạn hay không? Chắc chắn phải là như thế, tôi có đồng ý vậy không, vì nếu không vợ tôi hoặc đã phải liên lạc ông ta nhằm thu xếp việc thanh toán bằng tiền mặt cho lô đất 100 mẫu kia hoặc chỉ đơn giản là cúp đuôi, theo nghĩa bóng, quay trở về trang trại. Hoặc tôi có nghĩ vợ tôi đã mắc bẫy một kẻ lừa đảo nào đó trên đường không? Những chuyện như thế thỉnh thoảng vẫn hay xảy ra, phải không nào? Và như thế chắc chắn sẽ rất tiện lợi cho tôi, chẳng đúng vậy sao?

Lần thứ hai tay luật sư chường mặt đến, ông ta trông cũng tuyệt vọng ngang với mức độ hối hả của mình, và thẳng thừng hỏi tuột ra luôn: có phải vợ tôi đã bị tai nạn ngay tại trang trại hay không? Có phải đó là những gì đã xảy ra không? Có phải đó là lý do tại sao không ai phát hiện ra cô ta dù còn sống hay đã chết hay không?

“Ông Lester, nếu như ông đang muốn hỏi liệu có phải tôi đã sát hại vợ tôi hay không, thì câu trả lời là không.”

“À, tất nhiên ông sẽ nói thế rồi, phải không nào?”

“Đó là câu hỏi cuối cùng của ông dành cho tôi, thưa ông. Hãy trèo lên cái xe tải kia, biến đi, và đừng có vác mặt trở lại đây nữa. Nếu ông còn quay lại, tôi sẽ dành cho ông một cái cán rìu vào mặt.”

“Ông sẽ phải vào tù vì tội hành hung người khác!” Hôm đó, tay luật sư mặc một chiếc áo có cổ cồn hồ bột, và cái cổ cồn lúc ấy đã hoàn toàn xộc xệch xiên xẹo. Gần như có thể cảm thấy cám cảnh cho ông ta khi ông ta đứng đó với cái cổ cồn chọc vào dưới cằm và mồ hồi vạch thành từng dòng trên khuôn mặt phì nộn bê bết bụi, đôi môi méo mó và đôi mắt lồi ra.

“Không thể có chuyện đó. Tôi đã cảnh cáo ông tránh xa tư gia của tôi, vì đó là quyền hợp pháp tôi được phép, và tôi dự định sẽ gửi một lá thư bảo đảm tới tận văn phòng của ông nêu rõ điều này. Cứ thử quay lại lần nữa đi, hành động đó sẽ là phạm pháp và tôi sẽ nện cho ông một trận. Hãy nhớ lấy, thưa ông.” Lars Olsen, người vẫn tiếp tục chở Lester tới trên cái xe tải Red Baby của anh ta, chỉ còn thiếu nước giơ hai tay lên trên vành tai để hóng hớt được rõ hơn.

Khi Lester đến bên ghế dành cho hành khách không có cánh cửa của chiếc xe tải, ông ta quay ngoắt lại, duỗi thẳng một cánh tay ra với một ngón tay chĩa ra trước, giống như một luật sư trước tòa ưa thích những cử chỉ mang chất sân khấu. “Tôi nghĩ ông đã giết bà ấy! Và sớm hay muộn, một vụ án mạng cũng sẽ bị phát giác!”

Henry - hay Hank, như thằng bé giờ đây ưa được gọi - từ trong chuồng gia súc đi ra. Con trai tôi đang bận rộn xúc cỏ khô và nó cầm cây chĩa ba xúc cỏ ngang trước ngực như một khẩu súng trường. “Tôi nghĩ tốt hơn ông nên biến khỏi đây trước khi bị chảy máu,” nó nói. Cậu bé hiền lành và có phần nhút nhát tôi từng biết cho tới mùa hè năm 1922 hẳn sẽ không bao giờ nói ra những lời như thế, nhưng đứa trẻ này thì có, và Lester thấy rõ thằng bé không đùa. Ông ta chui tọt lên xe. Không có cánh cửa nào để đóng sập vào, tay luật sư chỉ còn biết khoanh hai tay trước ngực.

“Cứ việc quay lại bất cứ lúc nào, Lars,” tôi vui vẻ nói, “nhưng đừng mang ông ta theo, cho dù ông ta có trả cho anh bao nhiêu để tha đôi mông vô dụng của ông ta đến đây đi nữa.”

“Không bao giờ, ông James,” Lars nói, và bọn họ quay đi.

Tôi quay sang Henry. “Con định dùng cây chĩa ba đó đâm ông ta thật sao?”

“Vâng, bố. Để ông ta kêu ré lên.” Rồi thằng bé quay vào trong chuồng gia súc, không hề mỉm cười.

Nhưng không phải nụ cười lúc nào cũng vắng bóng trên khuôn mặt con trai tôi mùa hè đó, và nguyên nhân chính là Shannon Cotterie. Nó gặp cô bé rất thường xuyên (quá thường xuyên để tốt cho bất cứ ai trong hai đứa; tôi đã phát hiện ra điều đó vào mùa thu). Cô bé bắt đầu tới nhà chúng tôi chơi vào các buổi chiều thứ Ba và thứ Năm, mặc váy dài, đội một cái mũ sạch tinh tươm, và đeo một cái túi đựng những món đồ ăn ngon lành. Cô bé nói nó biết “đàn ông nấu ăn như thế nào” - như thể nó đã 30 tuổi chứ không phải 15 - và nói cô bé định sẽ quan tâm để hai bố con tôi ít nhất cũng có được hai bữa chiều tử tế mỗi tuần. Và cho dù tôi chỉ có duy nhất một món ăn do mẹ cô bé làm để so sánh, tôi phải nói rằng cho dù ở tuổi 15 cô con gái đã là một đầu bếp xuất sắc hơn. Henry và tôi chỉ đơn thuần ném những tảng bít tết vào một cái chảo đặt trên bếp; cô bé có một cách nêm gia vị khiến cho món thịt quen thuộc nhạt nhẽo đó trở nên thật ngon lành. Cô bé mang theo rau tươi trong cái túi đeo bên hông - không chỉ cà rốt và đậu mà cả những thứ thật mới lạ (với chúng tôi) như măng tây và món đậu xanh béo ngậy cô bé nấu với hành tây và thịt muối. Thậm chí còn có cả món tráng miệng. Trong căn phòng khách sạn tồi tàn này, tôi có thể nhắm mắt lại và ngửi thấy mùi món bánh ngọt của cô bé. Tôi có thể hình dung ra cô bé đứng bên bàn bếp, hông không ngừng đưa qua đưa lại trong lúc đánh trứng hay trộn kem.

Rộng rãi là từ thích hợp để dành cho Shannon: phần hông, khuôn ngực, trái tim. Cô bé thật dịu dàng với Henry, và chăm lo cho thằng bé. Điều đó khiến tôi để tâm chăm lo đến cô bé... chỉ có điều sự chăm lo đó quá mong manh, các vị biết đấy. Tôi yêu cô bé, và cả hai chúng tôi đều yêu Henry. Sau những bữa ăn cho chiều thứ Ba và thứ Năm đó, tôi luôn khăng khăng dành phần rửa bát và đuổi cả hai đứa ra ngoài cửa. Đôi lúc tôi nghe thấy hai đứa thì thầm nói chuyện với nhau, và ngó đầu ra để trông thấy chúng ngồi bên nhau trên chiếc ghế xích đu, nhìn ra cánh đồng phía tây, nắm tay nhau như một cặp vợ chồng đã cưới lâu năm. Có những lần khác tôi bắt gặp hai đứa hôn nhau, và trong những nụ hôn đó chẳng có chút gì của một cặp vợ chồng đã cưới lâu năm. Trong những cái hôn ấy có sự gấp gáp ngọt ngào chỉ thuộc về những con người còn rất trẻ, và tôi lén nhìn với trái tim nhói đau.

Vào một chiều thứ Ba nóng bức, cô bé đến sớm hơn bình thường. Bố cô bé đang có mặt ngoài cánh đồng phía bắc của chúng tôi cùng cái máy thu hoạch ngô của ông ta, Henry cũng đi theo ông hàng xóm của chúng tôi, theo sau là một nhóm nhỏ những người Indian tới từ Khu Định cư dành cho người Indian Shoshone ở Lyme Biska... và đằng sau họ, Đậu Già[20] lái chiếc xe tải dùng để chuyên chở ngô. Shannon hỏi xin một gầu nước mát, và tôi vui vẻ cung cấp. Cô bé ngồi đó, bên phía ngôi nhà có bóng mát, trông dễ thương đến khó tin trong một chiếc váy phồng che kín người từ cổ tới tận ống chân và từ vai tới cổ tay - gần như một chiếc váy của người Quaker. Trông cô bé có vẻ nghiêm trọng, thậm chí là sợ sệt, và trong khoảnh khắc chính tôi cũng thầm run sợ. Thằng bé đã nói hết với nó, tôi thầm nghĩ. Nhưng hóa ra không đúng như vậy. Ngoại trừ, theo một cách khác, đúng là thế.

“Ông James, có phải Henry bị ốm không?”

“Ốm ư? Sao lại có thể thế chứ, không đâu. Nó khỏe như một con ngựa vậy, chú dám nói như thế. Và ăn cũng không khác gì. Chính cháu cũng thấy rồi đấy. Mặc dù chú nghĩ thậm chí cả một anh chàng đang ốm cũng khó lòng từ chối được những món ăn do cháu nấu, Shannon.”

Câu nói giúp tôi nhận được một nụ cười, nhưng là một nụ cười thật lơ đãng. “Hè năm nay anh ấy khác lắm. Trước đây cháu luôn biết anh ấy đang nghĩ gì, nhưng bây giờ thì không. Anh ấy lúc nào cũng ủ rũ.”

“Thật thế sao?” tôi hỏi (một cách quá chân thật)

“Chẳng lẽ chú không thấy sao?”

“Không, thưa tiểu thư.” (tôi có thấy). “Với chú, dường như trông nó vẫn như trước. Nhưng nó quan tâm đến cháu nhiều lắm, Shan. Có thể cái mà cháu cảm thấy là ủ rũ với nó chẳng qua chỉ là si tình thôi.”

Tôi đã cho rằng câu pha trò ấy sẽ giúp tôi có được một nụ cười thực sự từ cô bé, nhưng không. Cô bé đưa bàn tay đặt lên cánh tay tôi. Bàn tay cô bé mát lạnh sau khi vừa cầm lấy cái gầu. “Cháu đã nghĩ về chuyện đó, nhưng...” Rồi buột miệng nói ra một thôi. “Ông James, nếu anh ấy đang có cảm tình với ai khác - một trong những cô gái ở trường - ông sẽ nói cho cháu biết chứ? Ông sẽ không cố tìm cách... cách tránh cho cháu khỏi xúc động chứ?”

Nghe đến đó, tôi bật cười, và có thể thấy khuôn mặt xinh xắn của cô bé sáng lên nhẹ nhõm. “Shan, nghe chú nói này. Vì chú là bạn cháu. Mùa hè luôn là thời khắc người ta phải làm việc vất vả, và bây giờ khi Arlette không còn ở nhà nữa, Hank và chú sẽ còn phải bận rộn hơn nữa. Khi hai bố con chú quay về nhà buổi tối, chúng ta cùng ăn bữa tối - một bữa ăn thật ngon, nếu tình cờ hôm đó có cháu sang - rồi đọc sách trong một giờ. Sau đó, bố con chú lên giường đi ngủ, và hôm sau chúng ta thức dậy, lặp lại tất cả các hoạt động của ngày hôm trước. Thậm chí con trai chú còn chẳng có lúc nào để tán tỉnh cháu, chứ nói gì tới một cô gái khác.”

“Được rồi, anh ấy đã tán tỉnh cháu,” cô bé nói, và đưa mắt nhìn về phía chiếc máy thu hoạch ngô của bố mình đang di chuyển theo đường chân trời trong tiếng động cơ nổ bình bịch.

“À... chuyện đó cũng thú vị đấy chứ, phải không nào?”

“Cháu chỉ nghĩ là... bây giờ anh ấy im lặng quá... ủ rũ quá... đôi khi anh ấy nhìn ra phía xa, và cháu phải gọi tên anh ấy hai ba lần trước khi anh ấy nghe thấy cháu và đáp lại.” Cô bé đỏ bừng mặt. “Thậm chí cả những cái hôn của anh ấy dường như cũng khác. Cháu không biết phải diễn tả như thế nào, nhưng đúng vậy đấy. Và nếu ông kể lại cho anh ấy biết cháu đã nói như thế, cháu sẽ chết mất. Cháu sẽ chết mất.”

“Chú sẽ không bao giờ làm thế,” tôi nói. “Bạn bè không mách lẻo về nhau.”

“Cháu đoán cháu là một con bé ngốc nghếch. Và tất nhiên anh ấy thấy thiếu vắng mẹ anh ấy, cháu biết chắc là thế. Nhưng ở trường có rất nhiều cô gái xinh đẹp hơn cháu... xinh đẹp hơn cháu...”

Tôi đưa tay nâng cằm cô bé lên, vậy là lúc này cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi. “Shannon Cotterie, khi con trai chú nhìn cháu, nó nhìn thấy cô gái xinh đẹp nhất trên thế giới này.Và nó hoàn toàn đúng. Sao chứ, nếu chú còn ở độ tuổi của nó, chú cũng sẽ tá n tỉnh cháu.”

“Cảm ơn ông,” cô bé nói. Những giọt nước mắt giống như những hạt kim cương nhỏ đọng lại trên khóe mắt nó.

“Điều duy nhất cháu cần lo lắng là đưa nó về đúng chỗ khi nó chệch ra ngoài. Các cậu bé có thể trở nên rất bốc đồng, cháu biết đây. Và nếu chú lâm vào tình trạng đó, cháu cứ việc nói thẳng với chú điều đó. Còn nếu ổn cả thì lại là chuyện khác, nếu đó là giữa những người bạn.”

Cô bé ôm hôn tôi, và tôi cũng ôm hôn lại cô bé. Một cái ôm hôn mạnh mẽ đem lại cảm giác thật dễ chịu, nhưng có lẽ cho Shannon hơn là cho tôi. Vì có Arlette ở giữa chúng tôi. Cô ta luôn ở giữa tôi và bất cứ ai khác vào mùa hè năm 1922, và với Henry cũng vậy. Shannon vừa cho tôi biết điều đó.

Vào một buổi tối tháng Tám, việc thu hoạch ngô đã xong và những người làm thuê trong toán của Đậu Già được trả công đầy đủ để quay về khu định cư, tôi bừng tỉnh vì tiếng một con bò cái đang rống lên. Mình đã ngủ quên mất giờ vắt sữa, tôi nghĩ, nhưng khi tôi với lấy cái đồng hồ đeo tay của bổ tôi để trên mặt cái bàn kê cạnh giường và xem giờ trên đó, tôi thấy đồng hồ chỉ ba giờ mười lăm phút sáng. Tôi đưa cái đồng hồ lên ghé sát tai để xem nó còn chạy không, nhưng chỉ cần đưa mắt nhìn qua cửa sổ vào màn đêm tối mịt của một đêm không trăng là đủ biết. Những âm thanh đó thực ra cũng không phải là tiếng kêu chỉ hơi khiến người ta bực bội khó chịu một chút của một con bò cái đang cần được giải thoát khỏi chỗ sữa của nó. Đó là tiếng kêu của một con vật đang đau đớn. Những con bò cái đôi lúc vẫn kêu như thế khi chúng đẻ, nhưng những vị nữ thần của chúng tôi đã qua giai đoạn đó của cuộc đời từ lâu.

Tôi nhổm dậy, định đi ra cửa, rồi lại quay trở vào tới chỗ tủ quần áo để lấy khẩu súng săn cỡ.22 của mình. Tôi nghe thấy tiếng Henry đang ngáy như kéo gỗ sau cánh cửa đóng kín của phòng nó trong khi hối hả băng qua, một tay cầm súng, tay kia cầm đôi ủng. Tôi hy vọng thằng bé không bị thức giấc và muốn đi cùng tôi trong một chuyến ra ngoài rất có thể sẽ nguy hiểm. Vào thời đó chỉ còn lại vài con sói ít ỏi lảng vảng ngoài thảo nguyên, nhưng Đậu Già từng kể với tôi đã có dịch ốm mùa hè xuất hiện trên một số con cáo dọc khe núi Platte và Medicine. Đó là cách những người Shoshone gọi bệnh dại, và một con vật mắc bệnh dại trong chuồng gia súc có nhiều khả năng nhất là nguyên nhân đã gây ra những tiếng kêu đó.

Khi tôi ra ngoài nhà, tiếng kêu khổ sở đó vang lên thật to, và có vẻ gì đó trống rỗng. Như một tiếng vọng. Như một con bò dưới giếng, tôi thầm nghĩ. Ý nghĩ làm cả hai cánh tay tôi lạnh ngắt và siết chặt hơn nữa lấy khẩu súng săn.

Khi tôi tới trước cửa chuồng gia súc và dùng vai huých mở cánh cửa bên phải, tôi có thể nghe thấy những con bò còn lại bắt đầu rống lên như thể thông cảm, nhưng những tiếng kêu này chỉ là tiếng hỏi han bình thản nếu so sánh với những tiếng kêu la não ruột đã làm tôi thức giấc... và hẳn sẽ đánh thức cả Henry nếu tôi không chấm dứt được nguyên nhân đã gây ra nó. Có một ngọn đèn hồ quang sợi than treo trên móc bên phải cửa vào - chúng tôi không dùng lửa mở trong chuồng gia súc trừ khi nhất thiết chúng tôi phải cần đến, nhất là vào mùa hè, khi tầng áp mái chất đầy cỏ khô và thân cây ngô cho tới tận sát mái nhà.

Tôi sờ tìm nút bật đèn và bấm vào nó. Một quầng sáng chói lọi màu trắng xanh bừng lên. Thoạt đầu, hai mắt tôi bị chói tới mức chẳng nhìn ra gì cả; tôi chỉ có thể nghe thấy những tiếng kêu đau đớn và tiếng móng guốc giậm thình thịch khi một trong số các nữ thần của chúng tôi cố vùng vẫy thoát khỏi nguyên nhân đang làm nó bị đau. Đó là Achelois. Khi mắt tôi đã quen một chút, tôi thấy con bò đang liên tục lắc đầu sang hai bên, không ngừng lùi lại cho tới khi hai chân sau của nó chạm vào cửa ngăn chuồng - ngăn thứ ba bên phải, khi đi dọc từ đầu lối đi vào - rồi lại lao về phía trước. Những con khác cũng đang ở vào trạng thái hoảng hốt cao độ.

Tôi nhấc chân lên, rồi bước về phía ngăn chuồng, khẩu súng săn cắp dưới cánh tay trái. Tôi đẩy mở cửa, rồi lùi lại. Achelois có nghĩa là “người xua đuổi nỗi đau”, nhưng vị nữ thần Achelois này đang chìm trong đau đớn. Khi nó loạng choạng mò ra ngoài lối đi, tôi nhìn thấy hai chân sau của nó đỏ lòm máu. Con bò cái nhảy dựng hai chân sau lên như một con ngựa (một việc trước đó tôi chưa bao giờ thấy ở một con bò), và khi nó làm vậy, tôi thấy một con chuột to tướng đang bám lủng lẳng vào một núm vú của nó. Sức nặng của con chuột đã kéo đầu vú màu hồng dài ra thành một đoạn dài ngoằng. Lạnh cóng người lại vì sững sờ (và kinh hoàng), tôi chợt nhớ tới chuyện hồi còn bé, Henry thỉnh thoảng vẫn kéo một chiếc kẹo cao su màu hồng thành một dải dài ra khỏi mồm. Đừng có làm như thế, Arlette khi đó thế nào cũng sẽ quát thằng bé. Không ai muốn nhìn thấy những thứ mày đã nhai qua.

Tôi giơ súng lên, rồi lại hạ xuống. Làm sao tôi có thể bắn được khi con chuột cứ liên tục đung đưa qua lại như một quả lắc sống vậy?

Đứng trên lối đi, Achelois cúi gằm đầu xuống, lắc qua lắc lại, như thể làm như thế sẽ ít nhiều có ích. Khi nó đặt cả bốn chân xuống đất trở lại, con chuột có thể đứng xuống trên sàn chuồng rải đầy cỏ khô. Trông nó giống như một con chó con quái dị kỳ lạ với những giọt sữa loang máu đính trên các sợi ria. Tôi nhìn quanh tìm thứ gì đó có thể dùng để đánh nó, nhưng trước khi tôi kịp chộp lấy cái chổi Henry để lại dựa vào ngăn chuồng của Phemonoe, Achelois lại nhảy dựng hai chân sau lên và con chuột rơi bịch xuống sàn. Thoạt đầu, tôi nghĩ nó đã thoát khỏi con chuột, nhưng rồi tôi nhìn thấy đầu vú màu hòng nhăn nheo thò ra khỏi mõm con chuột, trông tựa như một điếu xì gà bằng thịt. Con chuột khốn kiếp đã rứt đứt một đầu vú của Achelois tội nghiệp. Con bò tựa đầu vào một chiếc cột chống trong chuồng và nhìn tôi ậm ò một cách mệt mỏi, như thể muốn nói: Tôi đã cho ông sữa suốt những năm qua và không gây ra bất cứ rắc rối nào, không giống như một số kẻ mà tôi có thể kể tên ra được, vậy tại sao ông lại để chuyện này xảy đến với tôi? Máu đang chảy xuống thành vũng dưới bầu vú của nó. Thậm chí cả trong cơn sốc và cảm giác ghê tởm, tôi cũng không nghĩ nó có thể chết vì vết thương, nhưng bộ dạng của nó - cũng như của con chuột, với đầu vú của con bò ngậm trong mõm - làm tôi giận sôi lên.

Tôi vẫn không bắn vào nó, một phần vì sợ gây ra hỏa hoạn, nhưng phần lớn là vì, trong khi một tay đang phải cầm cái đèn, tôi sợ mình sẽ bắn trượt. Thay vì bắn, tôi lật báng súng xuống dưới, hy vọng sẽ giết chết kẻ xâm nhập này giống như Henry đã giết chết kẻ sống sót dưới giếng bằng cái xẻng của thằng bé. Nhưng Henry là một đứa trẻ với phản ứng nhanh nhẹn, còn tôi là một người đàn ông trung niên vừa tỉnh dậy khỏi một giấc ngủ say. Con chuột dễ dàng né tránh được tôi và nghênh ngang chạy đi theo lối đi giữa chuồng. Mảnh đầu vú bị rứt đứt không ngừng vung vẩy lên xuống trong miệng nó, và tôi hiểu ra con chuột đang ăn mảnh thịt này - vẫn nóng hổi, và không nghi ngờ gì nữa vẫn đầy ắp sữa - ngay trong lúc đang chạy. Tôi đuổi theo, đập nó thêm hai lần nữa, và trượt cả hai lần. Sau đó tôi nhìn ra nó đang chạy đi đâu: đường ống dẫn vào cái giếng đã bị lấp kín. Tất nhiên rồi! Đại lộ Chuột! Một khi cái giếng đã bị lấp kín, đây là lối ra duy nhất của chúng. Không có nó, hẳn chúng đã bị chôn sống. Chôn sống cùng với cô ta.

[19] Samuel Pepys (1633 - 1703): quan chức hải quân, nghị sĩ Anh, nổi tiếng với những cuốn nhật ký được ghi đều đặn qua hàng chục năm liền.

[20] Tên một người da đỏ trong nhóm đến thu hoạch ngô.