← Quay lại trang sách

Chương 7

Nhưng chắc chắn, tôi thầm nghĩ, con vật kia quá to để có thể chui vừa qua đường ống. Chắc chắn nó phải ở ngoài vào - có lẽ là từ một cái ổ trong đống phân.

Con chuột nhảy tới bên miệng đường ống, và trong lúc nó làm thế, con chuột kéo dài thân hình của nó ra một cách thật đáng kinh ngạc. Tôi vung báng khẩu súng săn lên một lần cuối cùng và nện trúng vào miệng đường ống. Tôi đã đánh trượt hoàn toàn con chuột. Khi tôi hạ cây đèn xuống sát miệng ống, tôi thoáng nhìn thấy ánh sáng phản chiếu trên cái đuôi trơ trụi không lông của nó đang trườn dần vào bóng tối, và nghe thấy tiếng những chiếc móng vuốt nhỏ bé của nó cạo lên thành kim loại đã bị ăn mòn. Rồi im hẳn. Tim tôi đập thình thịch mạnh đến mức khiến hai mắt tôi hoa lên. Tôi hít một hơi thật sâu, nhưng cùng với lần hô hấp đó, một thứ mùi thối rữa mục ruỗng xộc vào mũi tôi mạnh đến mức khiến tôi phải bịt mũi bật lùi lại. Nhu cầu muốn hét lên thật to bị bóp nghẹt bởi nhu cầu muốn nôn ọe. Với thứ mùi khủng khiếp do đậm đặc trong khoang mũi, tôi gần như có thể hình dung ra rõ mồn một Arlette ở đầu kia của đường ống, da thịt cô ta giờ đây tràn ngập giòi bọ, đang dần dần tan rữa chảy nước; khuôn mặt cô ta bắt đầu bị bong rời ra khỏi xương sọ, nụ cười trên đôi môi cô ta dần nhường chỗ cho nụ cười sẽ lưu lại lâu hơn trên bộ xương hàm nằm phía dưới.

Tôi cuống cuồng bò lùi trên bốn chân rời xa khỏi cái ống ghê rợn đó, nôn tung tóe ra, đầu tiên là sang bên trái, rồi bên phải, và khi toàn bộ bữa tối đã ra hết sạch, tôi bắt đầu nôn ra từng bãi mật dài. Qua đôi mắt ướt nhòe, tôi thấy Achelois đã quay trở lại ngăn chuồng của nó. Thật tốt. Ít nhất tôi sẽ không phải đuổi theo nó qua khắp cánh đồng ngô và choàng dây ách để lôi nó trở về.

Điều đầu tiên tôi muốn làm là trám kín đường ống đó lại - tôi muốn làm việc này trước bất cứ việc gì khác - nhưng khi cơn nôn mửa ngừng lại, ý nghĩ của tôi cũng trở nên bình tĩnh hơn. Achelois là ưu tiên hàng đầu. Nó là một con bò sữa tốt. Hơn nữa, nó thuộc phần trách nhiệm của tôi. Tôi có một chiếc rương nhỏ đựng thuốc trong gian phòng nhỏ ở chuồng gia súc nơi tôi hay ngồi tính toán sổ sách. Trong rương, tôi tìm thấy một can lớn thuốc sát trùng Rawleigh Antiseptic Salve. Có một cuộn vải sạch để trong góc. Tôi lấy ra một nửa và quay lại ngăn chuồng của Achelois. Tôi đóng cửa ngăn chuồng của nó lại để giảm thiểu nguy cơ bị đá, rồi ngồi xuống ghế dùng để ngồi vắt sữa. Tôi nghĩ một phần của chính tôi lúc đó cảm thấy tôi xứng đáng bị ăn đá. Nhưng cô nàng Achelois già cả đáng mến đứng im khi tôi vỗ vào hông nó và thì thầm, “Im nào, im nào, sẽ tốt thôi,” và cho dù con bò rùng mình khi tôi bôi thuốc sát trùng lên vết thương của nó, nó vẫn đứng yên.

Khi tôi đã làm xong những bước cần thiết để ngăn nguy cơ nhiễm trùng, tôi dùng giẻ lau sạch những bãi nôn của mình đi. Cần dọn dẹp cho sạch sẽ, vì bất cứ người nông dân nào cũng có thể nói cho bạn biết những bãi nôn mửa của con người thu hút những con thú hoang săn mồi chẳng kém gì một hố rác không được che đậy cẩn thận. Tất nhiên cũng không thiếu mặt gấu trúc và chuột chũi, nhưng chủ yếu là chuột. Lũ chuột đặc biệt mê những gì do con người thải ra.

Tôi còn lại một ít giẻ nữa, nhưng chúng là đồ thải ra từ nhà bếp của Arlette và quá mỏng cho công việc tiếp theo của tôi. Tôi với lấy cái liềm treo trên móc, cầm đèn đi ra chỗ đống gỗ của chúng tôi, và cắt một miếng vuông từ tấm vải bạt đang dùng để phủ lên gỗ. Quay vào trong chuồng, tôi cúi xuống, kề cây đèn vào sát miệng đường ống, vì tôi muốn đảm bảo chắc chắn rằng con chuột lúc nãy (hay một con khác; nơi nào có một con chuột, chắc chắn cũng sẽ còn nhiều hơn) không còn nấp đó, sẵn sàng bảo vệ lãnh địa của nó, song bên trong lòng ống trống rỗng, ít nhất là xa hết tầm tôi có thể nhìn thấy, nghĩa là chừng một mét hai. Không có phân chuột bên trong, và chuyện này không hề khiến tôi ngạc nhiên. Đường ông này là một lối ra vào được sử dụng thường xuyên - lúc này chính là lối ra vào duy nhất của chúng - và lũ chuột sẽ không làm bẩn nó chừng nào chúng có thể giải quyết nhu cầu cá nhân ở bên ngoài.

Tôi nhét miếng vải bạt vào trong ống. Miếng vải cứng đơ, kềnh càng, và cuối cùng tôi buộc phải dùng một cái cán chổi để nhét nó sâu vào trong ống, nhưng tôi đã xoay xở được. “Hay lắm,” tôi nói. “Xem chúng mày sẽ thích nó thế nào. Hãy chết ngạt đi.”

Tôi quay trở lại và quan sát Achelois. Nó đứng im lặng, và quay đầu lại nhìn tôi bình thản khi tôi vỗ về nó. Lúc đó tôi đã biết và bây giờ vẫn biết nó chỉ là một con bò cái - rồi các vị sẽ thấy những người nông dân không có nhiều ý tưởng lãng mạn về thế giới tự nhiên - nhưng cái nhìn đó vẫn khiến tôi trào nước mắt, và tôi đã phải cố kìm mình để không nấc lên. Tôi biết ông đã làm hết sức có thể, cái nhìn đó nói. Tôi biết không phải lỗi của ông.

Nhưng đó đúng là lỗi của tôi.

Tôi nghĩ chắc hẳn mình sẽ nằm thao thức rất lao, và khi ngủ được tôi sẽ mơ thấy con chuột đang chạy trên sàn chuồng bò đầy cỏ khô hướng về phía lối thoát của nó với miếng đầu vú ngậm chặt trong mồm, nhưng kỳ thực tôi ngủ thiếp đi ngay lập tức, và giấc ngủ của tôi vừa chẳng có chút mộng mị nào vừa thật sâu và ngon giấc. Tôi thức dậy khi ánh sáng ban ngày đã tràn ngập trong phòng, còn mùi hôi thối từ cơ thể đang phân hủy của người vợ đã chết của tôi đặc quánh trên hai bàn tay tôi, trên chăn, ga trải giường và vỏ gối. Tôi ngồi bật dậy, há hốc miệng ra thở nhưng rồi nhận ra thứ mùi đó chỉ là một ảo giác. Thứ mùi đó chính là giấc mơ tồi tệ của tôi. Tôi không hề bị nó ám ảnh trong đêm mà lại trong luồng ánh sáng đầu tiên, tỉnh táo nhất của ban ngày, với hai mắt đã mở to.

Tôi đã lo con bò bị nhiễm trùng từ vết thương do chuột cắn bất chấp thuốc sát trùng, song không có chuyện gì xảy ra. Achelois sau đó cũng chết cùng vào năm này, nhưng không phải vì vết thương đó. Tuy vậy, nó không bao giờ cho sữa nữa; không một giọt. Đáng ra tôi nên giết thịt nó, nhưng tôi không nhẫn tâm làm thế. Con bò khốn khổ đã phải chịu đựng quá nhiều vì tôi.

Ngày hôm sau, tôi đưa cho Henry một danh sách những món cần mua và bảo thằng bé lái chiếc xe tải tới Hemingford Home mua chúng. Một nụ cười hết cỡ ngỡ ngàng bừng nở trên khuôn mặt nó.

“Cái xe tải ư? Con? Chỉ mình con?”

“Con vẫn nhớ cách vào các số tiến đấy chứ? Và vẫn tìm được số lùi đúng không?”

“Chúa ơi, tất nhiên rồi ạ!”

“Vậy thì bố nghĩ con sẵn sàng rồi. Có thể là chưa để đi tới Omaha - hay thậm chí tới Lincoln - nhưng nếu con đi thật từ tốn, chắc chắn con sẽ không gặp khó khăn gì khi đi tới Hemingford Home.”

“Cảm ơn bố!” Con trai tôi đưa hai cánh tay ôm lấy tôi và hôn lên má tôi. Trong chốc lát, dường như chúng tôi đã trở lại là những người bạn. Thậm chí tôi còn tự cho phép mình ít nhiều tin vào chuyện đó, cho dù trái tim tôi hiểu rõ hơn. Bằng chứng có thể đã bị lấp kín dưới lòng đất, nhưng sự thật vẫn nằm giữa hai chúng tôi, và sẽ luôn như thế.

Tôi đưa cho thằng bé một cái ví da có tiền bên trong. “Đây là ví của ông nội con. Con có thể cứ giữ lại cũng được; đằng nào bố cũng định sẽ tặng nó cho con vào dịp sinh nhật mùa thu năm nay. Trong đó có tiền rồi. Con có thể giữ lại tiền thừa, nếu còn thừa ít nhiều.” Tôi thiếu chút nữa đã nói thêm, Và đừng có mang về con chó lạc nào đấy, nhưng đã kịp kìm lại đúng lúc. Đó từng là câu châm chọc quen thuộc của mẹ thằng bé.

Thằng bé cố gắng cảm ơn tôi lần nữa, nhưng không thể. Như thế chỉ đơn giản là quá nhiều.

“Hãy dừng lại chỗ cây xăng của Lars Olsen trên đường về và đổ thêm xăng vào xe. Nhớ lấy, nếu không con sẽ phải đi bộ thay vì ngồi sau tay lái khi về đến nhà đấy.”

“Con không quên đâu. Con muốn xin phép bố một chuyện được không?”

“Được.”

Thằng bé di di bàn chân, rồi rụt rè nhìn tôi. “Con có thể ghé qua chỗ nhà Cotterie và mời Shan tới chơi nhà mình không?”

“Không,” tôi nói, và con trai tôi xịu mặt xuống trước khi tôi nói thêm: “Con hãy hỏi Sallie hay Harlan xem Shan có thể tới nhà mình được không. Và hãy đảm bảo rằng con nói với họ trước đó con chưa bao giờ lái xe vào thành phố. Bố đặt niềm tin vào danh dự của con, con trai.”

Cứ như thể ai đó trong hai chúng tôi vẫn còn lại chút ít vậy.

Tôi đứng bên cổng nhìn theo cho tới khi chiếc xe tải cũ của chúng tôi biến mất trong đám bụi mù mịt do chính nó tạo ra. Có thứ gì đó vương vướng trong cổ họng mà tôi không thể nuốt vào được. Tôi có một dự cảm ngu ngốc nhưng rất mạnh mẽ rằng tôi sẽ không bao giờ gặp lại con trai mình nữa. Tôi cho rằng đó là những gì hầu hết các ông bố bà mẹ cảm thấy khi lần đầu tiên họ chứng kiến con cái một mình rời khỏi nhà và đối diện với việc ý thức ra rằng nếu một đứa con đã đủ lớn để có thể sai đi lo việc mà không cần ai trông nom, đứa con đó không còn là trẻ con nữa. Nhưng tôi không thể dành quá nhiều thời gian cho việc đắm chìm trong cảm xúc của mình; tôi có một việc quan trọng phải làm, và tôi đã sai Henry đi khỏi nhà để tôi có thể tự mình thực hiện việc đó. Rồi đây có thể thằng bé sẽ biết được chuyện gì đã xảy ra với con bò cái, tất nhiên rồi, và nhiều khả năng nó sẽ đoán ra điều gì là nguyên do gây ra chuyện đó, nhưng tôi nghĩ tôi vẫn có thể giảm nhẹ đi một chút gánh nặng cho thằng bé khi nó biết việc đã xảy ra.

Đầu tiên, tôi kiểm tra lại tình hình Achelois, con bò dường như có vẻ bất an, nhưng ngoài ra vẫn ổn cả. Sau đó tôi kiểm tra đường ống. Nó vẫn bị nút chặt, song tôi không hề có chút ảo tưởng nào; có thể việc này sẽ tốn nhiều thời gian, nhưng cuối cùng kiểu gì lũ chuột cũng sẽ gặm thủng lớp vải bạt. Tôi cần làm tốt hơn thế. Tôi mang một túi xi măng hiệu Portland tới chỗ cái giếng cạnh nhà và trộn thành vữa trong một cái xô cũ. Quay trở lại chuồng bò, trong lúc đợi vữa đặc lại, tôi đẩy cho cái nút vải bạt chui sâu hơn nữa vào trong đường ống. Tôi nhét nó vào sâu ít nhất sáu mươi phân, và khoảng sáu mươi phân cuối cùng này được tôi trám đầy xi măng vào. Khi Henry quay trở về (và với tinh thần rất phấn chấn; đúng là thằng bé đã đón được Shannon, và hai đứa đã chia sẻ cùng nhau một cái kem sô đa mua bằng tiền thừa còn lại sau khi đi mua đồ), lớp xi măng đã cứng lại. Tôi đoán hẳn có một vài con chuột đã mò ra ngoài kiếm ăn, song tôi tin chắc đã nhốt kín được phần lớn chúng - trong đó có cả con chuột đã làm Achelois khốn khổ bị tàn phế - ở dưới kia trong bóng tối. Và dưới kia, trong bóng tối, chúng sẽ chết. Nếu không phải chết ngạt thì sẽ là chết đói, một khi chỗ thực phẩm không thể mô tả thành lời của chúng cạn kiệt.

Ít nhất đó là những gì tôi đã nghĩ khi ấy.

Vào những năm từ 1916 đến 1922, thậm chí cả những nông dân ngớ ngẩn nhất tại Nebraska cũng phất to. Harlan Cotterie, còn xa mới là người ngớ ngẩn, đã phát tài hơn nhiều so với hầu hết những người khác. Trang trại của ông ta đã thể hiện rõ điều đó. Ông ta xây thêm một khu trại nhốt gia súc và một si lô chứa ngũ cốc vào năm 1919, và đến năm 1920 khoan một cái giếng sâu có thể cho phép bơm lên lượng nước khó tin tới sáu gallon[21] mỗi phút. Một năm sau đó, ông ta lắp hệ thống ống nước vào tận trong nhà (cho dù vẫn tế nhị giữ nhà vệ sinh ngoài sân sau). Sau đó, ba lần mỗi tuần, anh ta và những người phụ nữ trong gia đình mình có thể tận hưởng điều vốn là một thú vui xa xỉ không thể tin nổi ở vùng đồng quê xa xôi này: tắm nước nóng trong bồn và vòi hoa sen, được cung cấp không phải nhờ những siêu nước được đun nóng trên bếp mà từ những đường ống thoạt tiên lấy nước từ dưới giếng lên, sau đó mang nước đi tới hố hứng nước thải. Chính việc tắm vòi hoa sen đó đã làm lộ ra bí mật Shannon Cotterie đã giữ kín, mặc dù tôi cho rằng tôi đã biết từ trước, từ cái ngày cô bé nói, Được thôi, anh ấy đã tán tỉnh cháu - với một giọng nói vô cảm, khô khan hoàn toàn không giống cô bé chút nào, và nói ra mà không nhìn tôi mà đưa mắt nhìn về phía cái máy thu hoạch ngô của bố cô bé và những người đi thu nhặt ngô đang lần bước đằng sau nó.

Lúc ấy đã gần cuối tháng Chín, tất cả các cánh đồng trồng ngô đã được cày cho một năm nữa nhưng vẫn còn vô số công việc thu hoạch trong vườn cần phải làm. Một buổi chiều thứ Bảy, trong lúc Shannon đang khoan khoái tắm vòi hoa sen, mẹ cô bé đi qua lối vào sau nhà, mang theo một đống quần áo bà vừa kéo sớm ngoài dây phơi vào, vì có vẻ như trời sắp mưa. Shannon hẳn nghĩ rằng mình đã đóng kín cửa buồng tắm - phần lớn phụ nữ luôn kín đáo trong khi tắm rửa, và Shannon Cotterie có một lý do đặc biệt để cảm thấy như thế khi mùa hè năm 1922 nhường chỗ cho mùa thu - nhưng có thể cánh cửa đã bị tuột then cài và mở hé ra. Mẹ cô bé tình cờ liếc mắt nhìn vào trong, và mặc dù tấm ga trải giường cũ được dùng làm màn che khi tắm vòi hoa sen đã được kéo kín quanh chiếc giá hình chữ U của nó, những tia nước bắn ra đã làm nó trở nên trong mờ. Sallie không cần phải nhìn thấy chính cô bé; bà mẹ đã nhìn thấy hình dáng của cô con gái, lần này không còn được chiếc váy phồng kiểu Quaker che dấu. Và chỉ cần có thế. Cô bé đã có thai chừng năm tháng, hoặc gần như thế; trong bất cứ trường hợp nào, chắc chắn cô bé cũng không thể giấu diếm bí mật của mình lâu hơn nữa.

Hai ngày sau, Henry từ trường trở về nhà (giờ đây thằng bé lái chiếc xe tải đi học) với vẻ hoảng sợ và đầy tội lỗi. “Hai hôm vừa rồi Shan không đi học,” con trai tôi nói, “vậy là con ghé qua nhà Cotterie hỏi xem bạn ấy có khỏe không. Con nghĩ có thể bạn ấy đã bị mắc phải bệnh cúm Tây Ban Nha. Họ không cho con vào nhà. Bà Cotterie chỉ bảo con hãy về đi, và nói tối nay chồng bà ấy sẽ tới nói chuyện với bố, sau khi ông ấy đã xong việc. Con hỏi liệu con có thể làm gì được không, và bà ấy nói, “Cậu đã làm quá đủ rồi, Henry.”“

Thế rồi tôi nhớ lại những gì Shan đã nói. Henry úp mặt vào hai lòng bàn tay và nói, “Bạn ấy có thai, bố ơi, và họ phát hiện ra. Con biết là thế. Chúng con muốn cưới nhau, nhưng con sợ là họ sẽ không cho phép.”

“Đừng bận tâm đến họ”, tôi nói, “bố sẽ không cho phép con.”

Thằng bé nhìn tôi với đôi mắt ướt nhòe, đau khổ. “Tại sao lại không?”

Tôi thầm nghĩ: Con đã thấy điều gì đã xảy đến giữa mẹ con và bố, vậy mà con còn cần phải hỏi sao? Nhưng những gì tôi nói lại là, “Cô bé mới 15 tuổi, còn con thậm chí còn chưa tới từng ấy tuổi trong hai tuần nữa.”

“Nhưng bọn con yêu nhau!”

Ôi, cái tiếng kêu giống như của một con chim lặn đó. Tiếng la hét nhu nhược đó. Hai bàn tay tôi đang siết chặt lại túm chặt lấy hai bên ông chiếc quần yếm, và tôi phải lấy hết sức buộc chúng xòe thẳng ra. Nổi giận sẽ chẳng giải quyết được việc gì. Một cậu bé cần đến người mẹ của nó để cùng nó trao đổi một chuyện như thế này, song mẹ của nó đang ngồi dưới đáy một cái giếng bị lấp kín, và không nghi ngờ gì nữa, được làm bạn với một bầy chuột chết.

“Bố biết là thế, Henry...”

“Hank! Và có những người khác đã kết hôn khi cũng còn trẻ như thế!”

Đã từng có thời người ta làm như thế; nhưng chuyện đó không còn xảy ra nhiều nữa kể từ khi thế kỷ sang trang và các tuyến biên giới khép lại. Nhưng tôi không nói về những chuyện này. Những gì tôi nói là tôi không có tiền để giúp hai đứa khởi đầu cuộc sống. Có thể đến năm 25, nếu các vụ mùa và giá cả tiếp tục tốt, nhưng lúc này thì chẳng có gì hết. Và với một đứa trẻ chuẩn bị ra đời...

“Đáng ra sẽ có đủ!” thằng bé nói. “Nếu bố không gây ra trở ngại nhiều đến thế với trăm mẫu đất kia, hẳn đã có vô khối tiền! Mẹ chắc hẳn đã cho con ít nhiều trong số tiền ấy! Và mẹ hẳn sẽ không nói với con theo cách như thế này!”

Thoạt đầu, tôi choáng váng đến mức không thể nói được gì. Đã sáu tuần hay hơn thế trôi qua kể từ lần cuối tên của Arlette - hay thậm chí cách ám chỉ mơ hồ bà ấy - được nhắc đến giữa hai bố con tôi.

Thằng bé đang nhìn tôi đầy thách thức. Rồi sau đó, phía cuối con đường dẫn vào nhà chúng tôi, tôi nhìn thấy Harlan Cotterie đang tới. Tôi luôn coi ông ta như một người bạn, nhưng một cô con gái bị phát hiện mang thai có thể làm những chuyện như thế thay đổi.

“Không, bà ấy hẳn sẽ không nói với con theo cách như thế này”, tôi đồng ý, và nhìn thẳng vào mắt thằng bé. “Bà ấy sẽ nói với con còn tồi tệ hơn. Và cười, mà cũng có thể không. Nếu con tự hỏi trái tim mình, con trai, con sẽ biết ngay thôi.”

“Không!”

“Mẹ con gọi Shannon là con ranh, và sau đó khuyên con nên giữ của quý của con ở trong quần. Đó là lời khuyên cuối cùng của bà ấy, và cho dù nó cũng thô kệch và làm người nghe bị tổn thương như hầu hết những gì bà ấy từng nói, đáng ra con nên làm theo lời khuyên ấy.”

Cơn bực bội của Henry xẹp xuống. “Chỉ sau...sau buổi tối đó...mà bọn con...Shan không muốn, nhưng con thuyết phục bạn ấy làm việc đó. Và khi bọn con đã bắt đầu, bạn ấy cũng thích nó chẳng kém gì con. Khi bọn con đã bắt đầu, bạn ấy đòi hỏi chuyện đó.” Con trai tôi kể ra tất cả với một vẻ tự hào lạ lùng, nửa như ân hận, rồi uể oải lắc đầu. “Giờ thì trăm mẫu đất chỉ nằm đó cho cỏ mọc, còn con gặp rắc rối to. Nếu mẹ còn ở đây, mẹ sẽ giúp con thu xếp. Tiền có thể thu xếp mọi thứ, đó là những gì ông ấy nói.” Henry hất đầu về phía đám bụi đang lại gần.

“Nếu con không nhớ mẹ con chặt chẽ đến thế nào với một đô la, vậy thì quả là con đã lãng quên quá nhanh cho lợi ích của chính con,” tôi nói. “Và nếu con đã quên bà ấy tát vào mặt con thế nào lần đó...”

“Con không quên,” thằng bé lầm lì nói. Rồi tiếp tục với giọng điệu còn cau có hơn: “Con đã nghĩ bố sẽ giúp con cơ đấy.”

“Bố rất muốn thử. Ngay lúc này, bố muốn con lánh mặt đi chỗ khác. Sự có mặt của con ở đây khi bố Shannon tới sẽ chẳng khác gì vẫy một miếng vải đỏ trước mặt bò tót. Hãy để bố tìm hiểu xem chúng ta đang ở đâu - và thái độ của ông ấy ra sao - và có thể bố sẽ gọi con ra ngoài cửa.” Tôi nắm lấy cổ tay thằng bé. “Bố sẽ làm tốt nhất có thể vì con, con trai.”

Nó giật cổ tay khỏi bàn tay tôi. “Tốt hơn bố nên làm thế.”

Con trai tôi đi vào trong nhà, và ngay trước khi Harlan xuất hiện trong chiếc xe hơi mới của ông ta (một chiếc Nash với nước sơn dưới lớp bụi phủ bên trên cũng xanh lục và bóng loáng như lưng một con ruồi xanh), tôi nghe thấy tiếng cánh cửa trước đóng sầm lại.

Chiếc Nash dừng lại, tắt máy, rồi nằm im lặng. Harlan ra khỏi xe, cởi áo khoác, gấp lại để trên ghế. Ông ta mặc áo khoác vì đã ăn bận tươm tất cho chuyến tới thăm: sơ mi trắng, cà vạt, quần đẹp chuyên dành để mặc ngày Chủ nhật với chiếc thắt lưng có khóa bạc. Ông ta kéo mạnh thắt lưng lên, thu xếp để cái quần được chỉnh về đúng tư thế ông muốn, ngay dưới cái bụng nhỏ gọn gàng của mình. Ông ta vẫn luôn tử tế với tôi, và tôi cũng luôn coi hai chúng tôi không chỉ là bạn mà còn là bạn tốt, ấy vậy mà vào khoảnh khắc đó tôi thấy căm ghét ông ta. Không phải vì ông ta tới trách cứ tôi vì con trai tôi; Chúa biết rõ hẳn tôi cũng sẽ làm điều tương tự, nếu vị thế của hai chúng tôi đảo ngược lại. Không, nguyên nhân là chiếc Nash mới tinh màu xanh lục bóng loáng kia. Là cái khóa thắt lưng bạc hình một con cá heo. Là cái si lô mới sơn màu đỏ tươi, là hệ thống ống nước trong nhà. Và hơn tất thảy là bà vợ có khuôn mặt tẻ nhạt nhưng vâng lời ông ta để lại trang trại của mình, hẳn lúc này đang làm bữa chiều bất chấp nỗi lo âu bà ta đang cảm thấy. Một người vợ luôn dịu dàng đưa ra câu trả lời mỗi khi đối diện với bất cứ khó khăn nào, Những gì anh nghĩ là tốt nhất, anh yêu.Hỡi các phụ nữ, hãy ghi nhớ: một người vợ như thế không bao giờ cần lo sợ sẽ phải ú ớ những âm thanh cuối cùng của đời mình qua một cái cổ họng bị cắt đứt lìa.

Ông ta bước tới bậc thềm. Tôi đứng lên, chìa tay ra, chờ đợi được chứng kiến xem liệu ông ta sẽ bắt lấy nó hay bỏ qua. Có một thoáng do dự trong khi ông hàng xóm của tôi cân nhắc giữa được và mất, nhưng cuối cùng ông ta vẫn nắm lấy tay tôi trong giây lát trước khi buông ra. “Chúng ta có một rắc rối đáng kể ở đây, Wilf,” ông ta nói.

“Tôi biết rồi. Henry vừa kể cho tôi nghe. Thà rằng muộn còn hơn không bao giờ.”

“Thà rằng không bao giờ còn hơn,” ông ta lầm lì nói.

“Mời anh ngồi.”

Trước lời mời này, ông ta cũng lại cân nhắc trước khi ngồi xuống chiếc ghế xích đu trước đây luôn thuộc về Arlette. Tôi biết ông ta không muốn ngồi - một người đàn ông đang phát điên lên vì bực bội không bao giờ cảm thấy dễ chịu khi ngồi - nhưng dẫu sao ông ta cũng vẫn ngồi.

“Anh muốn uống chút trà đá không? Không có nước chanh, Arlette là chuyên gia trong việc pha nước chanh, nhưng...”

Ông ta ra hiệu đề nghị tôi im lặng bằng cách giơ một bàn tay mập mạp ngắn ngủn lên. Mập mạp ngắn ngủn nhưng cứng rắn. Harlan là một trong những chủ trại giàu có nhất trong hạt Hemingford, nhưng ông ta không phải một ông chủ chỉ biết ngồi nhà; khi đến thời điểm phơi cỏ khô hay thu hoạch nông sản, ông ta luôn có mặt ngoài đồng cùng các nhân công được thuê. “Tôi muốn quay về trước khi mặt trời lặn. Tôi không thấy mấy cái đèn pha đó có chút ích lợi quái nào cả. Con gái tôi đang có thai, và tôi đoán anh biết ai là tác giả.”

“Có ích gì nếu tôi nói tôi rất xin lỗi không?”

“Không.” Đôi môi ông ta mím lại chặt hơn nữa, và tôi có thể trông thấy mạch máu nổi lên giật giật hai bên cổ ông ta. “Tôi còn điên hơn một con ong bắp cày, và điều làm cho sự tình tồi tệ hơn là tôi chẳng có ai để trút cơn điên lên. Tôi không thể nổi điên với lũ trẻ vì chúng chỉ là những đứa trẻ, mặc dù nếu không phải con bé đang có thai, chắc tôi sẽ bắt Shannon nằm úp lên đầu gối tôi và nện cho nó một trận vì đã không biết cư xử cho tốt hơn trong khi nó hiểu biết hơn. Nó cũng đã được nuôi dạy tốt hơn, được chịu lễ nhà thờ tử tế hơn.”

Tôi những muốn hỏi liệu có phải ông ta đang nói Henry đã được nuôi dạy không ra gì hay không. Nhưng thay vì thế tôi giữ im lặng, cho phép ông ta nói ra bằng hết những gì đã khiến ông ta sôi sùng sục trong suốt chặng lái xe tới đây. Hẳn ông ta đã nghĩ ra cả một bài diễn thuyết, và sau khi ông ta đã nói xong, rất có thể sẽ dễ nói lý với ông hàng xóm của tôi hơn.

“Tôi muốn trách cứ Sallie vì không phát hiện ra tình trạng của con bé sớm hơn, nhưng những người phụ nữ mang thai lần đầu luôn có bụng rất gọn, ai cũng biết thế... và lạy Chúa, anh cũng biết những cái váy Shan vẫn mặc đấy. Đó cũng chẳng phải chuyện gì mới mẻ. Con bé vẫn mặc những chiếc váy của các bà già đó từ khi nó mới 12 tuổi và bắt đầu có...”

Ông ta giơ bàn tay mập mạp ngắn ngủn của mình ra trước ngực. Tôi gật đầu.

“Và tôi cũng muốn trách cứ anh, vì dường như anh đã sao nhãng những cuộc trò chuyện mà các ông bố thường có với những cậu con trai của họ.” Cứ như thể anh biết gì về chuyện nuôi dạy những đứa con trai vậy, tôi thầm nghĩ. “Cuộc trò chuyện về việc nó có một khẩu súng ngắn trong quần và nên trông coi nó cho an toàn.” Ông ta nấc lên nghèn nghẹn trong cổ họng rồi hét lên, “Con gái... bé bỏng... của tôi còn quá trẻ để làm mẹ!”

Tất nhiên còn một lời trách cứ dành cho tôi mà Harlan không hề biết. Nếu tôi không đẩy Henry vào tình trạng thiếu vắng tình yêu thương của một người phụ nữ, Shannon rất có thể đã không lâm vào tình thế như hiện tại. Tôi cũng có thể hỏi liệu Harlan có nên dành lại một chút sự trách cứ cho chình ông ta trong lúc bận rộn phân phát nó ra khắp nơi xung quanh hay không. Nhưng tôi chỉ im lặng. Sự im lặng không bao giờ đến với tôi một cách tự nhiên, nhưng sống chung với Arlette đã cho tôi vô số cơ hội để thực hành.

“Chỉ có điều tôi cũng không thể trách cứ cả anh nữa, vì vợ anh đã bỏ đi hồi mùa xuân, và cũng tự nhiên khi sự chú ý của anh bị sao nhãng đi vào một thời điểm như thế. Vậy là tôi đã ra sau nhà và chẻ hết gần nửa cord[22] củi trước khi tới đây để cố gắng giải tỏa một phần cơn điên loạn đó ra ngoài, và hẳn cách này đã có tác dụng. Vì tôi đã bắt tay anh, phải không nào?”

Vẻ tự chúc mừng tôi bắt gặp trong giọng nói của ông ta làm tôi ngứa ngáy muốn nói, Trừ khi đó là một vụ hiếp dâm, tôi nghĩ muốn tạo ra một cái thai kiểu gì vẫn cần đến hai người. Nhưng rồi tôi chỉ nói, “Phải, anh đã làm thế,” rồi dừng lời ở đó.

“Được, điều đó dẫn chúng ta tới việc mà anh sẽ làm trong chuyện này. Anh và thằng nhóc từng ngồi bên bàn ăn nhà tôi, từng ăn thức ăn do vợ tôi nấu đó.”

Một con quỷ nào đó - tôi đoán đó là tạo vật vẫn len lỏi vào trong con người một gã đàn ông khi Kẻ Ma Quái rời đi - khiến tôi nói, “Henry muốn cưới con bé và cho đứa trẻ một cái tên.”

“Thực là một chuyện lố bịch quái đản đến mức tôi không muốn nghe. Tôi sẽ không nói rằng Henry thậm chí chẳng có một miếng đất để tè xuống hay một khung cửa sổ để nhảy qua - tôi biết anh đã làm đúng, Wilf, hay đúng hết mức anh có thể, nhưng đó cũng là điều tốt nhất tôi có thể nói. Những năm gần đây đều rất thuận lợi, vậy mà anh vẫn đang bị nợ ngân hàng đuổi sát gót. Anh sẽ đi đến đâu khi tình hình mùa màng trở nên khó khăn? Sẽ luôn có lúc như thế. Nếu anh có được tiền mặt từ việc bán chỗ trăm mẫu đất kia đi, thì tình hình có thể đã khác - tiền mặt cho phép vượt qua thời buổi khó khăn, ai cũng biết thế cả - nhưng cùng với việc Arlette biến mất, chúng nằm đó vô dụng, chẳng khác gì một bà già táo bón ở tịt trong nhà cầu vậy.”

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, một phần trong con người tôi cố gắng hình dung xem mọi thứ sẽ ra sao nếu tôi chiều theo ý Arlette về những mẫu đất mắc dịch đó, như tôi từng chiều ý cô ta trong vô số những chuyện khác. Mình sẽ phải sống trong mùi hôi thối, đó là những gì sẽ xảy ra. Mình có thể đã phải đào giếng lấy nước cho bò, vì lũ bò sẽ không đời nào chịu uống nước từ nguồn có lẫn máu với những bộ lòng lợn nổi lềnh bềnh trên đó.

Đúng thế. Nhưng khi đó tôi sẽ được sống thay vì chỉ tồn tại, Arlette sẽ vẫn còn sống cùng với tôi, và Henry hẳn sẽ không phải là thằng bé lầm lì, khổ sở, khó tính nó đã trở thành. Thằng bé đã khiến cô bạn thân từ hồi nhỏ của nó lâm vào cảnh rắc rối nghiêm trọng.

“Được thôi, vậy anh muốn làm gì?” tôi hỏi. “Tôi sợ rằng anh đã đánh xe tới đây mà chưa có ý tưởng nào trong đầu.”

Ông ta có vẻ chẳng nghe thấy những gì tôi nói. Ông hàng xóm của tôi đang nhìn qua cánh đồng về nơi cái si lô mới của ông ta hiện lên trên đường chân trời. Khuôn mặt ông ta rất nặng nề và buồn bã, nhưng tôi đã đi quá xa và viết ra quá nhiều để có thể nói dối; vẻ mặt ấy chẳng hề làm tôi xúc động bao nhiêu. Năm 1922 là năm tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi, năm tôi biến thành một người đàn ông mà tôi không còn nhận ra nữa, và Harlan Cotterie chỉ như một vết xói lở nữa trên một tảng đá và một quãng đường khốn khổ mà thôi.

“Con bé rất thông minh,” Harlan nói. “Cô McReady ở trường nói Shan là học sinh xuất sắc nhất cô ấy từng dạy trong cả đời mình, có nghĩa là từ gần 40 năm qua. Con bé giỏi môn tiếng Anh, và còn giỏi hơn trong môn toán, một điều cô McReady nói rất hiếm ở học sinh nữ. Thậm chí nó có thể làm được cả môn nượng dác[23], Wilf. Anh có biết môn đó không? Cả cô McReady cũng không biết môn nượng dác.”

Không, tôi không biết, nhưng tôi biết từ đó nói thế nào. Nhưng tôi cảm thấy đây có lẽ không phải là lúc để chỉnh sửa cách phát âm cho ông hàng xóm của tôi.

“Sallie muốn gửi con bé tới trường sư phạm ở Omaha. Họ đã nhận học sinh nữ vào học bên cạnh học sinh nam từ năm 1918, mặc dù tới giờ vẫn chưa có nữ sinh nào tốt nghiệp.” Ông ta dành cho tôi một cái nhìn thật khó chịu đựng nổi: trong đó có cả sự ghê tởm lẫn thù địch. “Phụ nữ lúc nào cũng muốn kết hôn, anh thấy đấy. Và có con. Gia nhập Ngôi sao Miền đông[24], rồi lúi húi lau chùi những cái sàn nhà chết dẫm.”

Ông ta thở dài.

“Shan có thể là đứa đầu tiên. Nó có năng khiếu và có đầu óc. Anh không thể biết điều đó, phải không nào?”

Không, thực ra tôi không hề biết. Tôi đã chỉ đơn thuần đưa ra một phỏng đoán - một trong rất nhiều phỏng đoán mà lúc này tôi biết rõ là sai - rằng cô bé có thể làm một bà vợ nông thôn tốt, và không hơn.

“Thậm chí nó có thể dạy ở trường cao đẳng. Chúng tôi đã lên kế hoạch gửi con bé tới học tại ngôi trường đó ngay khi nó 17 tuổi.”

Sallie lên kế hoạch, ý anh là vậy, tôi thầm nghĩ. Nếu để mặc cho anh, một ý tưởng điên rồ như thế sẽ chẳng bao giờ hiện lên trong đầu óc nông dân của anh.

“Shan cũng đồng ý, và tiền đã được để dành ra. Tất cả đã được thu xếp.” Ông ta quay sang nhìn tôi, và tôi nghe thấy cổ ông ta kêu răng rắc. “Và tất cả vẫn đang được thu xếp. Nhưng trước hết - gần như ngay lập tức - con bé sẽ tới Ngôi nhà Công giáo St. Eusebia dành cho nữ sinh ở Omaha. Nó vẫn chưa biết chuyện này đâu, nhưng việc đó sẽ được tiến hành. Sallie đã nói tới việc gửi con bé tới Deland - chị của Sal sống ở đó - hay tới chỗ cô chú tôi ở Lyme Biska, song tôi không thể đặt niềm tin vào bất cứ ai trong số họ trong việc thực hiện những gì chúng tôi đã quyết định. Và một đứa con gái đã gây ra thứ rắc rối kiểu này cũng không xứng đáng được tới chỗ những người nó biết và yêu quý.”

“Vậy ra đó là những gì anh đã quyết định sao, Harl? Bên cạnh việc gửi con gái anh tới một thứ... tôi không biết nữa... trại mồ côi?”

Ông ta nổi cáu. “Đó không phải là một trại mồ côi. Đó là một cơ sở sạch sẽ, lành mạnh, và bận rộn. Người ta đã nói với tôi như thế. Tôi đã trao đổi tìm hiểu, và mọi thông tin tôi có được đều tốt. Con bé sẽ có việc làm, được học hành, và sau bốn tháng nữa nó sẽ sinh con. Khi việc sinh nở đã xong, đứa trẻ sẽ được cho làm con nuôi. Các nữ tu ở St. Eusebia sẽ lo chuyện đó. Sau đó con bé có thể quay về nhà, và sau một năm rưỡi nữa nó có thể đăng ký vào học trường sư phạm đúng như Sallie mong muốn. Và cả tôi nữa, tất nhiên rồi. Sallie và tôi.”

“Thế còn vai trò của tôi trong chuyện này? Tôi đoán hẳn tôi phải đóng một vai nào đó.”

“Có phải anh đang bỡn cợt tôi không vậy, Wilf? Tôi biết anh vừa trải qua một năm khó khăn, nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận được việc anh bỡn cợt tôi.”

“Không phải tôi đang bỡn cợt anh, nhưng anh cần phải biết anh không phải là người duy nhất đang phát điên và cảm thấy xấu hổ ê chề. Hãy nói cho tôi biết anh muốn gì, và có thể chúng ta sẽ còn tiếp tục là bạn.”

Nụ cười mỉm lạnh lùng hiếm có ông ta dùng để đón nhận câu nói của tôi - chỉ một cử động uốn cong nho nhỏ của đôi môi và một thoáng xuất hiện ngắn ngủi của những nếp hằn trên khóe miệng - đã nói lên rất nhiều về chuyện ông ta nuôi dưỡng ít hy vọng đến thế nào về chuyện đó.

“Tôi biết anh không giàu, nhưng anh vẫn cần phải ghé vai vào gánh phần trách nhiệm của mình. Thời gian con bé lưu lại nơi đó - các nữ tu gọi là chăm sóc trước sinh - sẽ tốn mất 300 đô la. Xơ Camilla gọi đó là một khoản đóng góp khi tôi nói chuyện với bà ta qua điện thoại, nhưng tôi biết đâu là một khoản lệ phí khi nghe người ta nhắc đến chúng.”

“Nếu anh định yêu cầu tôi chia sẻ nó cùng anh...”

“Tôi biết anh không thể kiếm được 150 đô la, nhưng tốt hơn anh nên có thể xoay xở được 75 đô la, vì đó là khoản tiền sẽ phải tiêu tốn cho người gia sư. Người sẽ giúp con bé theo kịp các bài học.”

“Tôi không thể làm được. Arlette đã vét sạch tiền mặt của tôi khi cô ta bỏ đi.” Nhưng đó là lần đầu tiên tôi nhận ra mình đang tự hỏi liệu có thể vợ tôi đã giấu diếm đi một số tiền hay không. Câu chuyện về 200 đô la mà cô ta mang theo khi trốn khỏi nhà chỉ là một lời nói dối trắng trợn, nhưng vào tình thế như lúc này thậm chí vài khoản tiền nho nhỏ cất giấu đâu đó cũng rất hữu ích. Tôi thầm hình dung trong đầu các ngăn tủ bát và những chiếc hộp trong bếp.

“Hãy vay một khoản nữa từ ngân hàng,” ông ta nói. “Anh đã trả xong khoản vay cuối cùng rồi, tôi nghe nói thế.”

Tất nhiên ông ta đã nghe được chuyện đó. Những việc như thế đáng ra phải được coi là chuyện riêng tư, nhưng những người như Harlan Cotterie có tai mắt ở khắp nơi. Tôi lại cảm thấy bùng lên cảm giác khó chịu với ông ta. Ông ta đã cho tôi thuê cái máy thu hoạch ngô của mình và chỉ lấy có 20 đô la tiền thuê ư? Thế thì sao? Ông ta đang đòi tiền tôi và hơn nữa, với thái độ như thể cô con gái quý hóa của ông ta chưa từng bao giờ dạng chân ra và nói nào, tiến vào và sơn tường đi.

“Tôi đã dùng tiền thu được từ vụ thu hoạch để trang trải món vay đó,” tôi nói. “Giờ tôi không còn tiền nữa. Tôi có đất đai và ngôi nhà của mình để chăm lo, và như thế cũng tốn khá nhiều.”

“Anh phải tìm ra cách,” ông ta nói. “Hãy đem thế chấp ngôi nhà, nếu cần phải làm thế. 75 đô la là phần của anh, và nếu so sánh với việc con trai anh phải đi thay tã ở tuổi 15, tôi nghĩ anh đã thoát nạn với giá quá rẻ rồi đấy.”

Ông ta đứng dậy. Cả tôi cũng thế. “Thế nếu tôi không tìm ra cách? Khi đó thì sao, Harl? Anh sẽ gọi cảnh sát trưởng chăng?”

Đôi môi ông ta cong lên đầy khinh bỉ, khiến cảm giác khó chịu tôi dành cho ông ta trở thành căm ghét. Chuyện đó xảy ra trong khoảnh khắc, và tới tận hôm nay tôi vẫn cảm nhận được sự căm ghét ấy, khi đã có rất nhiều cảm xúc khác tắt lịm trong trái tim tôi. “Tôi sẽ không bao giờ tìm tới pháp luật với một việc như chuyện này. Nhưng nếu anh không chịu gánh vác phần trách nhiệm của mình, quan hệ giữa anh và tôi coi như chấm dứt.” Ông ta liếc mắt nhìn ra bầu trời đang dần tắt nắng bên ngoài. “Tôi về đây. Phải vậy thôi, nếu tôi muốn về tới nhà trước khi trời tối. Tôi chưa cần đến chỗ 75 đô la đó trong vài tuần tới, vì vậy anh còn chừng ấy thời gian. Và tôi sẽ không đến thúc giục anh vì khoản tiền đó đâu. Nếu anh không chịu bỏ tiền ra, thì cứ làm thế. Có điều đừng có nói là anh không thể, vì tôi biết rõ hơn thế. Đáng ra anh nên để cho vợ anh bán khu đất đó cho Farrington, Wilf. Nếu anh làm thế, cô ấy hẳn vẫn còn ở đây và anh hẳn đã có ít tiền trong tay. Và rất có thể con gái tôi đã không dính dáng gì đến gia đình anh.”

Trong tâm trí mình, tôi đẩy ông ta lộn nhào qua cửa và nhảy bổ lên cái bụng tròn xoe của ông ta bằng cả hai chân khi ông hàng xóm của tôi tìm cách bò dậy. Rồi tôi lấy cái liềm ra khỏi chuồng gia súc và đâm xuyên nó qua một bên mắt ông ta. Còn trên thực tế, tôi đứng chống một tay lên lan can và nhìn ông ta bước xuống các bậc thềm.

“Anh có muốn nói chuyện với Henry không?” tôi hỏi. “Tôi có thể gọi nó ra. Về chuyện này nó cũng khổ tâm chẳng kém gì tôi.”

Harlan vẫn không dừng bước. “Con gái tôi là đứa trong sạch và con trai anh đã làm vấy bẩn nó. Nếu anh lôi nó ra đây, có khi tôi sẽ nện nó nhừ tử. Rất có thể tôi sẽ không thể kiềm chế được bản thân.”

Tôi thầm suy nghĩ về chuyện đó. Henry đã lớn, thằng bé rất khỏe, và có lẽ quan trọng nhất nó đã biết thế nào là giết người. Còn Harl Cotterie thì chưa.

Ông ta không cần phải quay cần khởi động để nổ máy chiếc Nash mà chỉ cần bấm vào một cái nút. Giàu có quả là tuyệt đủ đường. “75 đô là những gì tôi cần để khép chuyện này lại,” ông ta gọi với lại qua tiếng động cơ nổ. Sau đó, ông hàng xóm của tôi lái xe lượn vòng quanh cái thớt bổ củi, làm George và đám gà mái của nó quýnh quáng bay loạn lên, rồi quay trở về trang trại của ông ta; với cái máy phát điện to tướng và hệ thống ống nước trong nhà của nó.

[21] 1 gallon Mỹ = 3,78 lít.

[22] Đơn vị dùng để đo thể tích củi. 1 cord = 3,63 m3.

[23] Lượng giác, trong nguyên tác Harlan phát âm sai từ này.

[24] Một tổ chức ái hữu thu nhận thành viên cả nam và nữ, do Rob Morris thành lập năm 1850.