← Quay lại trang sách

Chương 8

Khi tôi quay lại, Henry đang đứng cạnh tôi, mặt tái xám đầy phẫn nộ. “Bọn họ không thể gửi cô ấy đi như thế.”

Vậy là thằng bé đã nghe tất cả. Tôi không thể nói rằng tôi cảm thấy ngạc nhiên.

“Có thể và sẽ,” tôi nói. “Và nếu con thử làm gì đó ngu ngốc và cứng đầu, con sẽ chỉ làm tồi tệ thêm một tình thế vốn đã chẳng hay ho gì.”

“Bọn con có thể bỏ trốn. Chúng con sẽ không để bị bắt lại. Nếu chúng ta đã có thể trót lọt với... với việc chúng ta đã làm... thì con đoán con có thể thực hiện suôn sẻ việc bỏ trốn tới Colorado cùng cô gái của con.”

“Con không thể,” tôi nói, “vì con không có tiền. Tiền thu xếp mọi thứ, ông ta nói vậy. Được lắm, còn đây là những gì bố nói: không tiền làm hỏng mọi thứ. Bố biết vậy, và Shannon cũng sẽ biết thế. Lúc này cô ấy phải bận tâm tới đứa con của mình...”

“Không đâu, nếu họ ép cô ấy cho đứa bé đi.”

“Điều đó cũng không làm thay đổi những gì một phụ nữ cảm nhận khi cô ta có một đứa con trong bụng. Một đứa con sẽ làm họ trở nên khôn ngoan theo cách mà những người đàn ông không thể hiểu nổi. Bố không hề mất đi chút tôn trọng nào với con hay với cô bé chỉ vì nó sắp có một đứa con - hai đứa bọn con không phải là trường hợp đầu tiên, và cũng sẽ không phải là cuối cùng, cho dù nếu Quý ông Cao cả và Toàn năng đã nảy ra ý tưởng là cô ta sẽ chỉ được sử dụng thứ nằm giữa hai chân mình để đi tiểu. Nhưng nếu con yêu cầu một cô gái đang mang thai năm tháng bỏ trốn cùng con... và cô ấy đồng ý... khi đó bố sẽ không còn sự tôn trọng dành cho cả hai đứa nữa.”

“Bố thì biết gì?” thằng bé hỏi với giọng vô cùng coi thường. “Bố thậm chí còn chẳng thể cắt một cái cổ mà không gây ra đủ thứ lôi thôi.”

Tôi cứng họng không biết nói sao. Thằng bé thấy rõ như thế, và bỏ mặc tôi ở đó.

Con trai tôi tới trường ngày hôm sau không chút cự nự, cho dù người yêu của nó không còn tới trường nữa. Có thể vì tôi để cho nó dùng chiếc xe tải. Một thằng bé sẽ chấp nhận bất cứ cớ nào để được lái một chiếc xe tải, khi chuyện lái xe còn là mới mẻ. Nhưng tất nhiên, sự mới mẻ rồi cũng qua đi. Sự mới mẻ luôn dần biến mất khỏi mọi thứ, và thường không mất nhiều thời gian. Những gì nằm bên dưới luôn xám xịt, tàn tạ, thường như vậy nhiều hơn là không. Giống như một cái ổ chuột.

Khi thằng bé đã đi học, tôi vào trong bếp. Tôi trút đường, bột và muối ra khỏi các hộp đựng bằng thiếc, rồi bới tìm cả trong những thứ bị đổ ra. Chẳng có gì. Tôi quay vào phòng ngủ, lục tìm trong quần áo của vợ tôi. Chẳng có gì. Tôi tìm trong các đôi giày của cô ta và cũng không thấy gì. Nhưng mỗi lần tôi không tìm thấy gì, tôi lại trở nên chắc chắn hơn là nhất định phải có gì đó.

Tôi còn việc cần làm ngoài vườn, nhưng thay vì đi làm những việc đó, tôi ra đằng sau chuồng gia súc, nơi từng là chỗ của cái giếng cũ. Giờ đây cỏ dại đã mọc lên trên: cỏ phù thủy và những cây bụi hoa vàng mọc thưa thớt. Elphis đang nằm ở dưới đó, và Arlette cũng vậy. Arlette với khuôn mặt bị xô lệch sang bên. Arlette với nụ cười như một gã hề của cô ta. Arlette với cái bao tải chụp lên đầu.

“Nó ở đâu, hả đồ điếm cứng đầu?” tôi hỏi cô ta. “Cô đã giấu nó ở đâu rồi?”

Tôi cố gắng dọn quang đãng đầu óc mình, đó là điều bố tôi vẫn khuyên tôi làm khi tôi để quên đâu đó một công cụ hay một trong những cuốn sách quý báu của tôi. Sau một lát, tôi quay trở vào trong nhà, lên buồng ngủ, rồi tới chỗ tủ quần áo. Có hai cái hộp đựng mũ đặt trên tầng giá cao nhất. Trong cái hộp thứ nhất tôi không tìm thấy gì ngoài một cái mũ - cái mũ trắng vợ tôi vẫn đội đi nhà thờ (khi cô ta chịu khó cất công làm điều đó, thường mỗi tháng một lần). Cái mũ trong hộp thứ hai màu đỏ, và tôi chưa bao giờ thấy vợ tôi đội nó. Với tôi trông nó giống như cái mũ của một ả điếm. Lồng vào trong lớp vải satin lót trong mũ, được gấp lại thành hình vuông chỉ không to hơn viên thuốc là mấy, là hai tờ 20 đô la. Lúc này đây, khi ngồi trong căn phòng khách sạn rẻ tiền này và lắng nghe lũ chuột rúc rích bò đi trong tường (phải, các bạn cũ của tôi đang ở đây), tôi có thể nói với các vị rằng hai tờ 20 đô la đó chính là dấu triện quyết định kết án nguyền rủa tôi.

Bởi vì chúng không đủ. Các vị đã nhận ra rồi, phải không nào? Tất nhiên các vị đã nhận ra. Người ta chẳng cần phải là là chuyên gia trong môn nượng dác để biết rằng cần phải thêm 35 đô la vào 40 để có được 75 đô la. Nghe cũng chẳng nhiều nhặn gì cho lắm, phải không nào? Nhưng vào thời đó các vị có thể mua được lượng lương thực đủ ăn trong hai tháng với 35 đô la, hay một bộ nông cụ tốt đã qua sử dụng tại xưởng rèn của Lars Olsen. Các vị có thể mua một vé tàu tới tận Sacramento... điều mà đôi lúc tôi ước gì mình đã làm.

Ba mươi lăm.

Và đôi lúc khi tôi nằm trên giường buổi tối, tôi có thể thực sự nhìn thấy con số đó. Nó lóe lên ánh sáng màu đỏ, giống như đèn báo hiệu không được băng qua đường khi có một đoàn tàu sắp tới. Nếu mỗi chúng ta đều có một Kẻ Ma Quái bên trong mình, thì mỗi chúng ta cũng có một Kẻ Điên Rồ. Và vào những buổi tối như thế, khi tôi không thể ngủ được vì con số nhấp nháy đó không cho tôi ngủ, Kẻ Điên Rồ của tôi nói đó là một âm mưu: rằng Cotterie, Stoppenhauser, và gã luật sư đê tiện của nhà Farrington đều can dự vào trong đó. Tất nhiên, tôi ý thức được khá hơn thế nhiều (ít nhất là vào ban ngày). Cotterie và ông luật sư Lester rất có thể sau này đã có một cuộc trao đổi cùng Stoppenhauser - sau khi tôi đã làm những gì tôi đã làm - nhưng chắc chắn ban đầu bọn họ chẳng có can hệ gì; Stoppenhauser thực ra đã cố giúp đỡ tôi... và thực hiện một vụ làm ăn nhỏ cho Home Bank & Trust, tất nhiên rồi. Nhưng khi Harlan hay Lester - hoặc cả hai người bọn họ - nhìn thấy một cơ hội, bọn họ đã nắm lấy nó. Kẻ Ma Quái cũng đồng lõa vào: các vị có thấy thích chuyện này không? Đến lúc đó hầu như tôi chẳng còn bận tâm nữa, vì đến lúc đó tôi đã mất đi con trai tôi, nhưng các vị có biết ai là kẻ tôi thực sự buộc tội không?

Arlette.

Phải.

Bởi vì chính cô ta là kẻ đã để lại hai tờ giấy bạc đó trong cái mũ đỏ đĩ thõa của cô ta để tôi tìm thấy. Và các vị có thấy vợ tôi khôn ngoan một cách ma quái đến mức nào không? Vì không phải món 40 đô la đó đã làm hại tôi; chính là món tiền còn thiếu giữ nó và những gì Cotterie đòi hỏi để thuê gia sư cho cô con gái chửa hoang của ông ta; những gì ông ta muốn để con bé có thể học tiếng Latinh và theo kịp môn nượng dác của nó.

35, 35, 35.

Tôi nghĩ về số tiền ông ta muốn để trả cho gia sư trong suốt phần còn lại của tuần đó? và trong suốt dịp cuối tuần nữa. Đôi lúc tôi lấy hai tờ bạc ra - tôi đã gỡ phẳng chúng ra song các nếp gấp vẫn còn hằn lại - và ngắm nghía chúng. Đến tối Chủ nhật tôi đã đi tới quyết định. Tôi nói với Henry rằng nó sẽ phải dùng chiếc Model T đi học vào sáng thứ Hai; tôi cần tới Hemingford Home gặp ông Stoppenhauser tại ngân hàng để thu xếp một khoản vay. Một khoản vay nhỏ. Chỉ 35 đô la.

“Để làm gì?” Henry đang ngồi trên cửa sổ, trầm ngâm nhìn về phía cánh đồng phía tây đang chìm dần vào bóng tối.

Tôi cho nó biết nguyên nhân. Tôi nghĩ việc này sẽ thổi bùng lên một cuộc cãi cọ nữa về Shannon, và theo một cách nào đó, đây chính là thứ tôi muốn. Thằng bé không nói gì về cô bạn gái của nó trong suốt cả tuần, mặc dù tôi biết Shan đã đi khỏi nhà. Mert Donovan đã kể cho tôi biết khi ông ta tới mua ngô hạt. “Tới một trường học kỳ quặc nào đó ở tận Omaha,” ông ta kể. “Tốt thôi, càng thêm sức mạnh cho cô bé, đó là những gì tôi nghĩ. Nếu bọn họ rồi đây sẽ bỏ phiếu, tốt hơn họ nên học hành tử tế. Mặc dù,” ông ta nói thêm sau một khoảnh khắc cân nhắc suy nghĩ, “con gái tôi luôn làm những gì tôi bảo nó. Sẽ tôt hơn cho nó nếu nó biết điều gì là có lợi cho mình.”

Nếu tôi biết cô bé đã rời khỏi nhà, chắc chắn Henry cũng biết, thậm chí có lẽ còn trước cả tôi - những đứa trẻ ở trường học đều là những kẻ buôn chuyện hăng hái. Nhưng thằng bé không nói gì. Tôi cho rằng tôi đang cố cung cấp cho nó một lý do để nói ra hết mọi cảm xúc đau khổ và những lời buộc tội của nó. Hẳn sẽ chẳng vui vẻ gì, song về lâu về dài rất có thể như vậy lại có ích. Như thế, sẽ không còn cơn đau nào trên trán hoặc trong bộ óc đằng sau vầng trán còn cơ hội tiếp tục mưng mủ. Nếu chúng tiếp tục tụ lại trong đó, căn bệnh truyền nhiễm nhiều khả năng sẽ lan rộng.

Nhưng thằng bé chỉ cười gằn trước tin này, vậy là tôi quyết định chọc tức nó mạnh hơn chút nữa.

“Con và bố sẽ chia đôi gánh nặng,” tôi nói. “Có lẽ sẽ không lên đến quá 38 đô la nếu chúng ta hoàn lại khoản vay vào Giáng sinh. Có nghĩa là 19 đô mỗi người. Bố sẽ lấy phần của con từ tiền công lao động con được hưởng.”

Tất nhiên, tôi nghĩ, việc này sẽ dẫn tới một cơn giận dữ... nhưng nó chỉ đem lại thêm một tiếng cười gằn khó chịu nữa. Thậm chí con trai tôi còn không cãi cọ về chuyện phải lái chiếc Model T tới trường, mặc dù thằng bé từng nói những đứa trẻ khác lôi chuyện này ra làm trò đùa, gọi cái xe là “máy đập mông của Hank”.

“Con trai?”

“Gì cơ ạ.”

“Con không sao chứ?”

Thằng bé quay sang tôi và mỉm cười - hay ít nhất môi nó cũng cong lên. “Con ổn cả. Chúc bố may mắn ở ngân hàng ngày mai. Con đi ngủ đây.”

Khi nó đứng dậy, tôi nói: “Con có thể hôn bố một cái không?”

Nó hôn lên má tôi. Đó là cái hôn cuối cùng.

Con trai tôi lấy chiếc T tới trường, còn tôi lái chiếc xe tải tới Hemingford Home, tại đây ông Stoppenhauser dẫn tôi vào văn phòng của ông ta chỉ sau năm phút chờ đợi. Tôi trình bày những gì tôi cần, nhưng từ chối không nói rõ tôi cần nó để làm gì, mà chỉ nói chung chung là lý do cá nhân. Tôi nghĩ với một khoản tiền cỏn con như thế hẳn tôi sẽ không cần phải giải thích cụ thể hơn, và tôi đã đúng. Nhưng khi tôi khai xong thủ tục, ông ta đan hai bàn tay vào nhau áp lên cái thấm mực đặt trên mặt bàn và nhìn tôi với cái nhìn nghiêm khắc gần như của một ông bố. Trong góc, chiếc đồng hồ hiệu Regulator tích tắc đếm từng thời khắc đang lặng lẽ trôi qua. Ngoài phố - to hơn đáng kể - vang lên tiếng nổ của một động cơ. Nó dừng lại, tất cả trở nên im lặng, rồi sau đó lại một động cơ khác khởi động. Liệu có phải đó là con trai tôi, thoạt đầu tới trên chiếc Model T, sau đó xoáy chiếc xe tải của tôi hay không? Tôi không tài nào biết chắc được, song tôi nghĩ là vậy.

“Wilf,” ông Stoppenhauser nói, “cậu đã có chút thời gian để vượt qua chuyện vợ cậu bỏ đi như thế - thứ lỗi cho tôi vì đã gợi lại một chủ đề có thể khiến cậu đau khổ, nhưng dường như lúc này là thời điểm thích hợp, và bên cạnh đó, văn phòng của một chủ ngân hàng cũng ít nhiều giống như chỗ nghe xưng tội của một mục sư vậy - vì thế tôi sẽ nói chuyện với cậu như một người chân thành thẳng thắn[25]. Một vai trò hoàn toàn thích hợp, vì bố mẹ tôi vốn cũng từ Hà Lan tới đây.”

Tôi đã nghe những lời này trước đây - và tôi đoán hầu hết những người từng ghé qua nơi này cũng vậy - và để đáp lại, tôi nở một nụ cười ngoan ngoãn, có nghĩa là mời chào ông chủ nhà tiếp tục diễn thuyết.

“Liệu Home Bank &Trust có cho cậu vay 35 đô la không? Tất nhiên rồi. Thậm chí tôi còn muốn xử lý vụ này như giữa hai người đàn ông với nhau và cho cậu vay ngay từ ví của tôi, chỉ có điều tôi chẳng bao giờ mang theo trong người nhiều hơn số tiền cần thiết cho bữa trưa của tôi ở quán Splendid Diner và cho việc đánh bóng đôi giày. Quá nhiều tiền là một sự cám dỗ thường trực, thậm chí cả với một lão già khôn ngoan như tôi, và bên cạnh đó, công việc là công việc. Nhưng!” Ông ta giơ một ngón tay lên. “Anh không cần 35 đô la.”

“Rất buồn phải thú nhận, nhưng đúng là tôi có cần.” Tôi băn khoăn tự hỏi liệu có phải ông ta đã biết lý do tôi đi vay tiền hay không. Có thể lắm; ông ta quả thực là một con cáo già. Nhưng Harl Cotterie cũng thế, và Harl cũng là một con cáo già đáng xấu hổ vào mùa thu năm đó.

“Không; cậu không cần chừng đó. Cậu cần 750 đô, đó là thứ cậu cần, và cậu có thể có nó ngay hôm nay. Hoặc cậu gửi luôn vào ngân hàng, hoặc đi ra ngoài mang theo nó trong túi, với tôi thế nào cũng được. Cậu đã thanh toán hết khoản vay thế chấp bằng trang trại của cậu 3 năm trước. Bây giờ nó đã hoàn toàn tự do và sạch sẽ. Vì thế hoàn toàn không có bất cứ lý do nào ngăn cản cậu quay vòng lại và vay một khoản thế chấp nữa. Chuyện này luôn xảy ra, chàng trai trẻ, và thậm chí cả với những người khá giả nhất. Cậu sẽ rất ngạc nhiên nếu được thấy vài món giấy tờ chúng tôi đang giữ ở đây. Toàn là của những người khá giả hạng nhất. Phải đấy, thưa quý ông.”

“Tôi cảm ơn ông rất nhiều, ông Stoppenhauser, nhưng tôi không nghĩ thế. Khoản vay thế chấp đó chẳng khác gì một đám mây xám xì luôn lơ lửng trên đầu tôi trong suốt thời gian nó còn hiệu lực, và...”

“Wilf, điểm đáng nói chính là chỗ này đấy!” Cái ngón tay lại giơ lên lần nữa. Lần này nó không ngừng đảo qua đảo lại, giống như cần quả lắc của chiếc đồng hồ Regulator. “Đó chính là điểm quan trọng nhất! Chính những anh chàng cầm về một khoản vay thế chấp rồi sau đó cảm thấy như thể lúc nào họ cũng đang nhởn nhơ chơi bời là những kẻ cuối cùng luôn lỡ kỳ hạn và mất trắng món tài sản giá trị của mình! Còn những anh chàng như cậu, những kẻ coi tờ giấy vay ngân hàng đó như một bao đá phải mang trên lưng vào một ngày u ám, lại luôn thanh toán đúng kỳ hạn! Và chẳng lẽ cậu muốn nói với tôi rằng cậu không thể cải thiện được bất cứ cái gì sao? Một mái nhà cần chữa lại? Thêm ít đầu gia súc nữa?” Ông ta ném về phía tôi một cái nhìn ranh mãnh tinh quái. “Thậm chí có thể là hệ thống ống dẫn nước trong nhà, giống như nhà hàng xóm phía dưới đường của cậu ấy chẳng hạn? Những thứ như thế rồi sẽ tự trang trải cho chúng, cậu biết mà. Cuối cùng cậu sẽ có được những cải thiện vượt xa giá trị khoản vay thế chấp. Giá trị cho tiền bạc, Wilf! Giá trị cho tiền bạc!”

Tôi suy nghĩ một hồi. Và cuối cùng tôi nói, “Tôi cũng rất muốn, thưa ông. Tôi sẽ không nói dối về điều đó...”

“Đâu cần phải thế. Văn phòng của chủ ngân hàng, nơi nghe xưng tội của mục sư - sự khác biệt là rất nhỏ. Những người khá giả hạng nhất ở vùng này cũng từng ngồi vào cái ghế cậu đang ngồi, Wilf. Những người khá giả hạng nhất.”

“Nhưng tôi chỉ tới để vay một khoản nhỏ - và được ông vui lòng chấp nhận - mà đề nghị mới này cần được cân nhắc thêm chút nữa. Một ý tưởng mới vừa lóe lên trong đầu tôi, một ý tưởng thú vị đến mức đáng ngạc nhiên. “Và tôi nhất thiết phải trao đổi với con trai tôi, Henry - Hank, như bây giờ nó thích được gọi. Thằng bé đã đến tuổi cần được hỏi ý kiến, bởi vì những gì tôi có đến một ngày nào đó sẽ là của nó.”

“Tôi hiểu, hoàn toàn hiểu. Nhưng đó là việc đúng đắn nên làm, tin tôi đi.” Ông ta đứng dậy và chìa bàn tay ra. Tôi cũng đứng dậy và bắt tay ông ta. “Cậu tới đây để mua một con cá, Wilf. Tôi đề nghị bán cho cậu một cái cần câu. Một vụ làm ăn tốt hơn nhiều.”

“Cảm ơn ông.” Và trước khi rời khỏi ngân hàng, tôi thầm nghĩ: Mình sẽ trao đổi chuyện này với con trai mình. Một ý nghĩ thật tuyệt. Một ý nghĩ làm ấm lên trái tim đã lạnh giá suốt nhiều tháng vừa qua.

Đầu óc con người ta quả là một thứ thật buồn cười, phải không nào? Vì mải mê bận rộn với lời đề nghị tự nguyện từ ông Stoppenhauser về một khoản cho vay thế chấp, tôi đã chẳng hề nhận ra chiếc xe tôi dùng để đi tới ngân hàng đã bị thay thế bằng chiếc xe Henry đã lái đến trường. Tôi cũng không chắc liệu mình có nhận ra chuyện đó ngay lập tức không, thậm chí cho dù trong tâm trí tôi lúc ấy chỉ có những mối bận tâm ít quan trọng hơn. Nói gì thì nói, cả hai chiếc xe đều quá quen thuộc với tôi; chúng đều là của tôi. Tôi chỉ nhận ra sự thay đổi khi cúi người vào trong xe lấy cần khởi động và nhìn thấy một tờ giấy được gấp lại, đặt trên ghế lái xe và có một hòn đá chặn đè lên.

Tôi đờ người ra trong khoảnh khắc ở tư thế đó, nửa người ở trong, nửa người ở ngoài chiếc T, một bàn tay áp lên thành xe, bàn tay kia đang thò xuống dưới gầm ghế, nơi chúng tôi vẫn để cần khởi động. Tôi cho rằng tôi đã biết tại sao Henry lại rời khỏi trường vòng tới đây từ trước khi tôi lấy tờ giấy nó để lại ra từ dưới hòn đá và mở ra. Chiếc xe tải đáng tin cậy hơn cho một chuyến đi dài. Như một chuyến đi tới Omaha chẳng hạn.

Bố,

Con đã lấy xe tải. Con đoán bố biết con sẽ đi đâu. Hãy để con yên. Con biết bố có thể yêu cầu cảnh sát trưởng Jones đuổi theo con để bắt con về, nhưng nếu bố làm thế con sẽ kể ra tất cả. Có thể bố nghĩ rồi con sẽ đổi ý vì con “chỉ là một thằng nhóc”, NHƯNG CON SẼ KHÔNG ĐỔI Ý. Không có Shan, con chẳng còn quan tâm tới gì khác nữa. Con yêu bố dù con không biết tại sao, vì mọi thứ chúng ta làm đã khiến con rất đau khổ.

Con trai yêu quý của bố,

Henry “Hank” James

Tôi lái xe về trang trại trong trạng thái đờ đẫn mụ mị. Tôi nghĩ đã có vài người vẫy tay chào cho tôi - tôi nghĩ thậm chí cả Sallie Cotterie, người đang chăm chút cho vườn rau ven đường của nhà Cotterie, cũng vẫy tay chào tôi - và rất có thể tôi đã vẫy tay chào lại, nhưng tôi không còn nhớ gì về việc có làm thế hay không. Lần đầu tiên kể từ khi cảnh sát trưởng Jones tìm tới trang trại, đưa ra những câu hỏi vui vẻ, không cần đến câu trả lời của ông ta, và nhìn ngó qua mọi thứ với đôi mắt lạnh lùng soi mói, chiếc ghế điện dường như lại trở thành một khả năng có thật với tôi, thật đến mức gần như tôi có thể cảm nhận thấy những cái khóa sắt áp lên da tôi khi những dây đai da được siết chặt lên hai bên cổ tay và phía trên khuỷu tay tôi.

Thằng bé có thể bị bắt cho dù tôi có giữ mồm giữ miệng hay không đi chăng nữa. Với tôi, khả năng đó dường như là không thể tránh khỏi. Thằng bé không có tiền, thậm chí chẳng có đủ sáu đồng xu để đổ đầy bình xăng của chiếc xe tải, vì thế nó sẽ buộc phải cuốc bộ thậm chí từ rất lâu trước khi tới được Elkhorn. Nếu nó tìm cách ăn trộm được xăng, con trai tôi rồi sẽ bị bắt khi nó mò tới nơi con bé đang sống (Henry đoán như một tù nhân; trong đầu óc chưa đủ chín chắn của mình, thằng bé không bao giờ nghĩ có thể bạn gái nó là một vị khách tự nguyện). Tất nhiên Harlan đã cung cấp cho người phụ trách ở đó - xơ Camilla - mô tả đặc điểm ngoại hình của Henry. Thậm chí cho dù ông ta có không cân nhắc tới khả năng anh chàng bạn trai đang bất bình sẽ xuất hiện ở nơi người đẹp trong mộng của cậu ta bị cầm tù, thì xơ Camilla chắc chắn cũng sẽ tính đến khả năng này. Trong nghề của mình, trước đây bà ta hiển nhiên đã từng phải đối phó với những anh chàng bạn trai đang bất bình.

Hy vọng duy nhất của tôi là khi bị nhà chức trách bắt giữ, Henry sẽ giữ được im lặng đủ lâu để hiểu ra nó đã rơi vào bẫy vì chính những suy nghĩ lãng mạn ngu ngốc của chình mình chứ không phải vì sự can thiệp của tôi. Hy vọng một thằng bé vị thành niên suy nghĩ một cách chín chắn cũng chẳng khác gì nhắm mắt đặt cược bừa vào một cuộc đua ngựa, nhưng tôi còn có lựa chọn nào khác đây?

Khi tôi lái xe vào trong sân, một ý nghĩ điên rồ chợt lóe lên trong đầu tôi: để nguyên chiếc T nổ máy, chạy vào nhà gói ghém hành lý, rồi lái xe trốn tới Colorado. Ý nghĩ đó tồn tại trong không quá hai giây. Tôi có tiền - trên thực tế là 75 đô la - nhưng chiếc Model T hẳn đã hỏng từ lâu trước khi tôi kịp vượt qua biên giới tiểu bang ở Julesburg. Và đó cũng chưa phải là điều quan trọng; nếu chỉ có vậy, tôi luôn có thể lái xe tới Lincoln, rồi dùng chiếc T kèm thêm 60 đô la nữa đổi lấy một chiếc xe đáng tin cậy. Không, điều quan trọng chính là nơi này. Là ngôi nhà này. Ngôi nhà của tôi. Tôi đã sát hại vợ mình để giữ lấy nó, và giờ đây sẽ không có chuyện tôi bỏ nó đi chỉ vì kẻ đồng lõa ngu ngốc và non nớt của tôi đâm đầu vào một cuộc phiêu lưu lãng mạn. Nếu tôi rời khỏi trang trại, thì sẽ không phải để tới Colorado; khi đó điểm đến sẽ là nhà tù tiểu bang. Và tôi sẽ bị xích lại giải tới đó.

Hôm ấy là thứ Hai. Không có tin tức gì trong suốt ngày thứ Ba và thứ Tư. Cảnh sát trưởng Jones không hề xuất hiện để báo cho tôi biết Henry đã bị bắt trong lúc đi nhờ xe trên xa lộ Lincoln - Omaha, và Harl Cotterie cũng không chường mặt tới để nói với tôi (với vẻ hài lòng đặc chất Thanh giáo, không nghi ngờ gì nữa) rằng cảnh sát Omaha đã bắt giữ Henry theo yêu cầu của xơ Camilla, và lúc này thằng bé đang ngồi trong đồn cảnh sát, lải nhải đủ thứ chuyện kỳ quái về những con dao, cái giếng và bao tải. Mọi thứ đều tĩnh lặng ở trang trại. Tôi ở ngoài vườn thu hoạch rau, tôi sửa hàng rào, vắt sữa bò, cho gà ăn - và làm tất cả như thể trong một cơn mộng du. Một phần của tôi, và là một phần không hề nhỏ, tin rằng tất cả những điều đã xảy ra là một cơn ác mộng dài khủng khiếp rối rắm mà rồi tôi sẽ tỉnh dậy khỏi nó với Arlette nằm ngáy bên cạnh cùng tiếng Henry chẻ củi để nhóm lửa buổi sáng.

Thế rồi, vào thứ Năm, cô McReady - bà góa bệ vệ đáng mến dạy các môn khoa học tại trường Hemingford - lái chiếc Model T của bà tới hỏi tôi liệu có phải Henry vẫn ổn cả hay không. “Có một... một căn bệnh đường ruột đang xảy ra quanh vùng,” bà nói. “Tôi không biết cậu bé có mắc phải không. Con trai ông đã rời trường rất đột ngột.”

“Đúng là nó mắc bệnh,” tôi nói, “nhưng là bệnh yêu đương chứ không phải đường ruột. Nó bỏ nhà đi rồi, cô McReady.” Những giọt nước mắt không hề lường trước, nhói buốt và nóng hổi, dâng lên mắt tôi. Tôi lấy khăn tay từ trong túi trước cái quần yếm đang mặc ra, nhưng vài giọt nước mắt đã lăn xuống má tôi trước khi tôi kịp lau đi.

Khi tầm nhìn của tôi đã rõ ràng trở lại, tôi thấy cô McReady, người luôn yêu quý tất cả bọn trẻ, kể cả những đứa khó tính, cũng sắp bật khóc. Hẳn bà đã biết từ đầu Henry đang bị chứng bệnh nào hành hạ.

“Cậu bé sẽ trở về, ông James. Đừng lo. Tôi đã từng chứng kiến chuyện tương tự trước đây, và tôi trông đợi sẽ còn phải chứng kiến thêm một hay hai lần nữa trước khi nghỉ hưu, cho dù thời điểm đó không còn cách xa như trước nữa.” Bà giáo hạ giọng xuống, như thể bà sợ con gà trống George hay một thành viên nào đó trong hậu cung lông vũ của nó có thể là kẻ nghe trộm. “Người ông cần phải dè chừng là bố cô bé. Ông ta là một người khắc nghiệt và cứng rắn. Không phải là người xấu, nhưng khắc nghiệt.”

“Tôi biết,” tôi nói. “Và tôi đoán cô cũng biết con gái ông ấy đang ở đâu.”

Bà giáo cúi mắt xuống né tránh. Như thế là quá đủ cho một câu trả lời.

“Cảm ơn cô vì đã tới đây, cô McReady. Tôi có thể đề nghị cô giữ kín chuyện này được không?”

“Tất nhiên rồi... nhưng bọn trẻ đã bắt đầu xì xào rồi.”

Phải. Chắc chắn rồi.

“Ông có điện thoại không, ông James?” Bà nhìn quanh tìm kiếm đường dây điện thoại. “Tôi thấy là không. Đừng bận tâm. Nếu tôi biết được gì, tôi sẽ tới báo với ông.”

“Ý cô là nếu cô nghe ngóng được gì đó trước Harlan Cotterie hay cảnh sát trưởng Jones.”

“Chúa sẽ che chở cho con trai ông. Cả Shannon nữa. Ông biết đấy, hai đứa thực sự đã là một đôi đáng yêu; ai cũng từng nói thế. Đôi khi quả ngọt chín quá sớm, và một cơn sương mù làm hỏng mất nó. Thật đáng xấu hổ. Thật đáng buồn.”

Bà giáo bắt tay tôi - cái bắt tay mạnh mẽ của một người đàn ông - rồi lái chiếc xe rẻ tiền của mình đi. Tôi không nghĩ bà nhận ra rằng, về cuối, bà đã nói về Shannon và con trai tôi ở thì quá khứ.

Đến thứ Sáu, cảnh sát trưởng Jones xuất hiện, trên chiếc xe có ngôi sao vàng sơn trên cửa. Và ông ta không chỉ có một mình. Theo sau cách một quãng là chiếc xe tải của tôi. Tim tôi đập rộn khi nhìn thấy nó, rồi lại nặng nề chìm xuống khi tôi nhìn thấy người ngồi sau tay lái: Lars Olsen.

Tôi cố bình thản chờ đợi trong lúc Jones thực hiện Nghi lễ Xuất hiện của ông ta: xốc lại thắt lưng, lau trán (cho dù hôm đó trời se lạnh và âm u), rồi vuốt tóc. Tôi không thể. “Thằng bé vẫn ổn chứ? Ông đã tìm thấy nó chưa?”

“Không, chưa, không thể nói là chúng tôi đã tìm ra.” Ông cảnh sát trưởng leo lên bậc thềm. “Lái xe theo tuyến ở phía đông Lyme Biska đã tìm thấy cái xe tải, nhưng không thấy tăm hơi nào của cậu bé. Chúng tôi có thể biết rõ hơn về tình trạng sức khỏe của con trai ông nếu ông báo cho chúng tôi biết chuyện ngay khi nó vừa xảy ra. Phải không nào?”

“Tôi đã hy vọng nó sẽ tự quay về nhà,” tôi ủ ê nói. “Thằng bé đi tới Omaha. Tôi không biết cần nói với ông nhiều tới mức nào, cảnh sát trưởng...”

Lars Olsen đã tiến vào trong tầm tai nghe, và hai tai anh ta chỉ còn thiếu vươn lên ve vẩy. “Quay trở ra xe của tôi, Olsen,” Jones nói. “Đây là một cuộc trao đổi riêng tư.”

Lars, một tâm hồn nhu mì dễ bảo, lập tức rút lui không chút chần chừ. Jones quay sang tôi. Ông ta trông ít tươi cười hơn nhiều so với lần ghé thăm trước, và cũng đã dẹp bộ dạng vụng về sang một bên.

“Chẳng phải tôi đã biết đủ nhiều rồi sao? Rằng con trai ông chơi trò vợ chồng với con gái Harl Cotterie và nhiều khả năng đã bỏ nhà để lang thang đến Omaha. Thằng bé đã lái chiếc xe khỏi đường rẽ vào một cánh đồng có cỏ mọc cao khi nó biết bình xăng gần cạn. Thông minh lắm. Nó có được sự thông minh đó từ ông phải không? Hay từ Arlette?”

Tôi không nói gì, nhưng ông ta cung cấp cho tôi một ý tưởng. Chỉ là một ý tưởng nhỏ, nhưng rất có thể sẽ hữu ích.

“Tôi sẽ cho ông biết một việc con trai ông đã làm mà chúng ta sẽ cảm ơn nó về việc đó,” Jones nói. “Thậm chí việc này còn có thể giúp thằng bé tránh được nhà tù nữa. Nó đã dọn sạch cỏ dưới gầm chiếc xe tải trước khi tung tăng bỏ đi. Như thế hơi nóng sẽ không làm cỏ bắt lửa, ông biết đấy. Gây ra một vụ cháy lớn trên thảo nguyên làm cháy trụi vài nghìn mẫu, chuyện đó có thể sẽ khiến bồi thẩm đoàn có phần bực bội, ông có nghĩ vậy không? Cho dù kẻ phạm tội mới chỉ 15 tuổi đi chăng nữa?”

“Thế đấy, việc đó đã không xảy ra, thưa cảnh sát trưởng - thằng bé đã làm đúng - vậy tại sao ông còn bận tâm đến chuyện này làm gì?” Tất nhiên tôi biết câu trả lời. Cảnh sát trưởng Jones có thể sẽ chẳng buồn vất vả nhọc công vì những kẻ như Andrew Lester, một luật sư, nhưng ông ta là bạn thân của Harl. Cả hai đều là thành viên của hội Elks Lodge mới được thành lập, và Harl hiển nhiên chẳng ưa gì con trai tôi.

“Có vẻ ông hơi thấy khó chịu, phải không nào?” Ông cảnh sát trưởng lại lau trán, sau đó đội cái mũ Stetson của ông ta lại như cũ. “Phải, có thể tôi cũng thấy khó chịu, nếu đây là con trai tôi. Và ông biết gì không? Nếu thằng bé là con trai tôi và Harl Cotterie là láng giềng của tôi - láng giềng tốt của tôi - có thể tôi đã chạy sang nhà ông ấy và nói, “Harl? Anh biết chưa? Tôi nghĩ có khi con trai tôi đang tìm cách tới gặp con gái anh. Anh có muốn báo cho ai đó để chặn đón nó không?” Nhưng ông chẳng hề làm thế, phải không nào?”

Ý tưởng mà ông ta gợi ý cho tôi ngày càng có vẻ triển vọng hơn, và gần như đã đến lúc tung nó ra.

“Thằng bé vẫn chưa ló mặt ra ở chỗ cô gái đang sống, cho dù là chỗ nào đi nữa, phải không?”

“Chưa, không, có thể nó vẫn đang tìm địa chỉ.”

“Tôi không nghĩ nó bỏ nhà đi tìm Shannon,” tôi nói.

“Thế ư, thế thì để làm gì? Chẳng lẽ ở Omaha người ta có một loại kem ngon hơn chắc? Bởi vì con trai ông đi theo hướng đó, cũng chắc như ông đang ở trước mặt tôi vậy.”

“Tôi nghĩ nó đi tìm gặp mẹ nó. Tôi nghĩ có thể cô ta đã liên lạc với thằng bé.”

Câu trả lời khiến ông ta ngừng bặt trong suốt mười giây, đủ lâu cho một lượt lau trán và vuốt tóc nữa. Rồi ông ta hỏi, “Bà nhà có thể làm việc đó bằng cách nào?”

“Theo như phán đoán tốt nhất của tôi thì chắc là qua một lá thư.” Cửa hàng tạp hóa ở Hemingford Home cũng đồng thời là bưu trạm, nơi mọi thư tín đều dồn tới. “Có thể người ta đã chuyển thư cho thằng bé khi nó tới đó mua kẹo hay lạc rang, như nó vẫn thường làm trên đường từ trường về. Tôi không biết chắc, cảnh sát trưởng, cũng như tôi không biết chắc tại sao ông tới đây làm như thể tôi vừa gây ra tội ác nào vậy. Tôi không phải là người làm cô bé kia phễnh bụng.”

“Ông cần tránh cách nói năng như thế khi nhắc tới một cô bé tử tế!”

“Có thể là có mà cũng có thể là không, nhưng chuyện này với tôi cũng đáng ngạc nhiên chẳng kém gì so với nhà Cotterie, và giờ thì con trai tôi bỏ nhà đi. Ít ra họ còn biết rõ con gái họ đang ở đâu.”

Thêm lần nữa ông ta lại giậm chân. Rồi ông ta lấy một cuốn sổ nhỏ từ túi sau quần ra rồi ghi chép gì đó vào sổ. Ông ta cất sổ về chỗ cũ và hỏi, “Nhưng ông không biết chắc liệu vợ ông có liên lạc với cậu bé hay không - đó là những gì ông vừa cho tôi biết phải không? Hay chỉ là một phỏng đoán?”

“Tôi biết thằng bé đã nói rất nhiều về mẹ nó sau khi cô ta bỏ đi, nhưng sau đó nó lại thôi không nhắc gì nữa. Và tôi biết nó không xuất hiện ở chỗ Harlan và vợ ông ta gửi Shannon.” Và về chuyện này tôi cũng ngạc nhiên chẳng kém gì cảnh sát trưởng Jones... nhưng lại lấy làm mừng. “Ghép hai việc đó lại với nhau, ông sẽ có cái gì nhỉ?”

“Tôi không biết,” Jones cau mặt nói. “Thực sự tôi không biết. Tôi từng nghĩ mình đã luận ra tất cả trong vụ này, nhưng trước đây tôi đã nhầm lẫn rồi, phải không nào? Phải, và sẽ còn lầm lẫn nữa. “Chúng ta ai cũng phạm phải sai lầm”, đó là những gì Kinh Thánh nói. Nhưng có Chúa chứng giám, lũ trẻ quả là khiến cuộc sống của tôi trở nên thật khó khăn. Nếu ông nghe ngóng được gì từ con trai ông, Wilfred, bảo với nó tôi khuyên nó hãy yên vị đôi mông xương xẩu của nó ở nhà và tránh cho xa Shannon Cotterie, nếu nó biết con bé đang ở đâu. Con bé không hề muốn gặp nó, về chuyện này tôi có thể đảm bảo. Tin tốt lành là không có vụ hỏa hoạn nào trên thảo nguyên, và chúng tôi không thể bắt giữ thằng bé vì lấy cắp xe tải của bố nó.”

“Không,” tôi cau có nói, “ông sẽ không bao giờ ép được tôi đưa ra lời buộc tội đó đâu.”

“Nhưng.” Ông cảnh sát trưởng giơ ngón tay lên, cử chỉ làm tôi nhớ tới ông Stoppenhauser ở ngân hàng. “Ba ngày trước, ở Lyme Biska - không xa nơi người ta tìm thấy cái xe tải của ông cho lắm - có ai đó đã đột nhập vào hiệu tạp hóa kiêm cây xăng nằm bên rìa thị trấn. Cửa hiệu có hình Cô Gái Mũ Xanh trên nóc, phải không nhỉ? Lấy đi 23 đô la. Bản tường trình đang nằm trên bàn tôi. Đó là một anh chàng trẻ tuổi mặc đồ cao bồi cũ rích, buộc một cái khăn che kín miệng và đội mũ phớt rộng vành kéo sụp xuống che khuất đôi mắt. Bà mẹ ông chủ hiệu đang đứng quầy thu ngân, và gã kia đã đe dọa bà ta bằng một món dụng cụ nào đó. Bà lão cho rằng đó có thể là một cái xà beng hay một thứ gì đại loại như thế, nhưng ai dám chắc được? Bà lão đã hơn 80 tuổi và mắt đã mù dở rồi.”

Lần này đến lượt tôi im lặng. Lặng đi vì sững sờ. Cuối cùng tôi lên tiếng, “Henry từ trường bỏ đi, ông cảnh sát trưởng, và như những gì đến bây giờ tôi còn nhớ được, lúc đó nó đang mặc một chiếc áo sơ mi vải flannel và quần nhung kẻ. Thằng bé không hề cầm theo món quần áo nào của nó, và dù thế nào đi nữa nó cũng không hề có quần áo cao bồi, nếu ông muốn nói tới ủng và những thứ khác. Và nó cũng chẳng có cái mũ phớt rộng vành nào.”

“Có thể con trai ông cũng đã ăn cắp cả những món đó lắm chứ, phải không nào?”

“Nếu ông không biết gì hơn ngoài những gì ông vừa nói, ông nên dừng lại là hơn. Tôi biết ông là bạn của Harlan...”

“Nào, nào, chuyện này không có gì liên quan tới điều đó cả.”

Chắc chắn là có, và cả hai chúng tôi đều biết thế, nhưng chẳng có lý do gì để bàn cãi thêm nữa về nó. Có thể 80 mẫu đất của tôi không được bề thế lắm khi so sánh với 400 mẫu của Harlan Cotterie, nhưng nói gì thì nói tôi vẫn là một chủ đất, một người đóng thuế, và tôi sẽ không để bị ai dọa dẫm. Đó là điều tôi đang muốn nói, và cảnh sát trưởng Jones đã hiểu được.

“Con trai tôi không phải là kẻ cướp, và nó không đe dọa phụ nữ. Đó không phải là cách nó cư xử, và nó cũng không được nuôi dạy như thế.”

Không cho tới tận gần đây, đúng ra là vậy, một giọng nói bên trong tôi thì thầm.

“Có thể chỉ là một kẻ lang thang muốn kiếm tiền tiêu theo cách nhanh chóng,” Jones nói. “Nhưng tôi cảm thấy mình cần điều tra, và tôi đã làm như thế. Và chúng ta không thể biết được dân tình sẽ nói gì, phải không nào? Những câu chuyện bàn tán luôn xuất hiện. Ai mà chẳng nói, phải vậy không? Nói chẳng mất gì. Chủ đề này coi như kết thúc ở đây, nếu nói tới phần liên quan của tôi - hãy để cảnh sát trưởng hạt Lyme lo lắng về những gì diễn ra tại Lym Biska, đó là tôn chỉ của tôi - nhưng ông cần biết cảnh sát Omaha đang để mắt theo dõi chặt chẽ nơi Shannon Cotterie sống. Nói vậy để phòng trường hợp con trai ông liên lạc với ông, ông biết đấy.”

Ông ta vuốt tóc ra sau, rồi đội mũ lại lần cuối cùng.

“Có thể thằng bé sẽ tự quay về nhà, không gây ra chuyện gì rắc rối, và chúng ta có thể nói về tất cả chuyện này, tôi không biết gọi vậy có đúng không nữa, như một món nợ xấu.”

“Được thôi. Chỉ cần đừng gọi con trai tôi là một đứa con trai hư hỏng, trừ khi ông cũng sẵn sàng gọi Shannon Cotterie là một đứa con gái hư hỏng.”

Cái cách hai cánh mũi ông ta phập phồng cho biết ông cảnh sát trưởng không khoái những gì vừa được nghe cho lắm, nhưng ông ta cũng không đáp lại. Những gì ông ta nói là, “Nếu con trai ông quay về và nói nó đã gặp mẹ, hãy cho tôi biết, được chứ? Chúng tôi đang ghi nhận bà nhà trong sổ như người mất tích. Thật ngớ ngẩn, tôi biết thế, nhưng luật là luật.”

“Tôi sẽ làm thế, tất nhiên rồi.”

Ông ta gật đầu và đi ra xe. Lars đã ngồi vào sau tay lái. Jones đẩy anh ta ra - ông cảnh sát trưởng là loại người luôn tự lái lấy xe. Tôi nghĩ tới người thanh niên trẻ đã cướp hiệu tạp hóa, và cố trấn an mình rằng Henry của tôi không bao giờ lại làm một việc như thế, và thậm chí nó bị lâm vào tình cảnh phải làm việc đó, thằng bé cũng không thể đủ khôn ngoan để mặc lên người những món quần áo nó đã lấy cắp trong chuồng gia súc hay nhà lán của ai đó. Nhưng Henry giờ đã khác, những kẻ sát nhân luôn học được sự khôn ngoan, phải không nào? Đó là một kỹ năng sống sót. Tôi nghĩ rất có thể...

Nhưng không. Tôi sẽ không nói như thế. Như thế quá yếu đuối. Đây là lời thú tội của tôi, là những lời cuối cùng của tôi về mọi chuyện, và nếu tôi không thể nói ra sự thật, toàn bộ sự thật, không gì ngoài sự thật, thì đâu còn có ích gì nữa? Thì còn gì có ích nữa?

Đó chính là nó. Đó là Henry. Tôi đã thấy trong mắt cảnh sát trưởng Jones rằng ông ta chỉ nói tới vụ cướp bên đường đó vì tôi đã không chịu quỵ lụy ông ta theo cách mà ông ta nghĩ chắc chắn tôi phải làm, song tôi tin là vậy. Bởi vì tôi biết nhiều hơn cảnh sát trưởng Jones. Sau khi bạn đã giúp bố mình giết mẹ mình, thì việc đánh cắp một vài món quần áo hay gí xà beng vào mặt một bà già có là gì nữa? Chẳng mấy đáng bận tâm. Và nếu thằng bé đã thử một lần, rồi nó sẽ thử lần nữa, một khi 23 đô la kia đã hết sạch. Nhiều khả năng là ở Omaha. Nơi người ta chắc sẽ bắt được nó. Và đến khi đó tất cả mọi chuyện có thể sẽ bại lộ. Gần như chắc chắn sẽ bại lộ.

Tôi leo lên trước cửa nhà, ngồi xuống, gục mặt vào hai bàn tay.

Ngày lại ngày trôi qua. Tôi không biết là bao nhiêu nữa, chỉ nhớ là ngày nào trời cũng mưa. Khi trời mưa vào mùa thu, mọi công việc ngoài trời đành phải để lại, và tôi lại không có đủ gia súc hay nhà kho để trám đầy thời gian bằng công việc trong nhà. Tôi cố thử đọc, nhưng dường như các từ ngữ không còn nối liền với nhau thành mạch nữa, cho dù thỉnh thoảng lại có một vài từ đơn độc nhảy bật ra khỏi trang sách và gào lên. Sát nhân. Tội lỗi. Phản phúc. Những từ đại loại như thế.

[25] Nguyên bản là “Dutch uncle”, nếu dịch sát nghĩa từng từ là “ông bác Hà Lan”, nhưng trong tiếng Anh cụm từ này có nghĩa là người thẳng thắn chân thành.