← Quay lại trang sách

Chương 9

Ban ngày tôi ngồi trước cửa với một cuốn sách trong lòng, thu mình lại trong chiếc áo khoác lông cừu để chống lại hơi ẩm và cái lạnh, dõi theo nước mưa nhỏ xuống từ rìa mái nhà. Tối đến, tôi nằm thức trắng cho tới gần sáng bạch, lắng nghe tiếng mưa gõ xuống mái nhà phía trên đầu. Nghe nó giống như tiếng những ngón tay rụt rè đang gõ cửa muốn vào nhà. Tôi dành quá nhiều thời gian để nghĩ về Arlette ở dưới giếng cùng Elphis. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra cô ta vẫn...không phải còn sống (tôi đang ở trong trạng thái căng thẳng nhưng không hề điên), nhưng còn ý thức theo cách nào đó. Bằng cách nào đó cô ta đang dõi theo những biến cố diễn ra từ dưới nấm mồ tạm bợ của mình, và một cách đầy khoan khoái.

Anh có thích cách mọi thứ đã diễn ra không, Wilf? cô ta sẽ hỏi vậy nếu có thể (và trong tưởng tượng của tôi thì có). Có đáng không? Anh nói gì đây?

Một buổi tối, chừng một tuần sau lần ghé thăm của cảnh sát trưởng Jones, trong lúc tôi đang cố đọc Ngôi nhà có bảy đầu hồi, Arlette bò tới sau lưng tôi, vòng tay qua quanh đầu tôi, và dùng một ngón tay lạnh cóng, ướt sũng gõ lên sống mũi tôi.

Tôi đánh rơi cuốn sách xuống tấm thảm trải sàn trong phòng khách, kêu thét lên, và đứng bật dậy. Khi tôi làm thế, đầu ngón tay lạnh ngắt kia chạy xuống khóe miệng tôi. Khi nó chạm vào tôi lần nữa, ngay trên đỉnh đầu, nơi tóc bắt đầu thưa dần. Lần này tôi phá lên cười - một tiếng cười run rẩy, căm giận - và cúi xuống nhặt cuốn sách của tôi lên. Khi tôi làm thế, ngón tay lại gõ vào tôi lần thứ ba, lần này vào sau gáy, như thể cô vợ đã chết của tôi đang nói, Tôi đã có được sự chú ý của anh chưa vậy, Wilf? Tôi bước ra xa - để lần chạm thứ tư không phải trúng vào mắt - và nhìn lên. Trần nhà phía trên đã phai màu và thấm nước. Lớp vữa vẫn chưa bục ra, nhưng nếu trời cứ tiếp tục mưa, thì chắc chắn chuyện đó sẽ xảy ra. Thậm chí nó có thể mủn ra và rơi xuống thành từng mảng. Chỗ thấm nước ở ngay trên nơi đọc sách ưa thích của tôi. Tất nhiên rồi. Phần còn lại của trần nhà trông có vẻ vẫn ổn, ít nhất là vào lúc này.

Tôi chợt nhớ tới những lời nói của Stoppenhauser, Và chẳng lẽ cậu muốn nói với tôi rằng cậu không thể cải thiện được bất cứ cái gì sao? Một mái nhà cần chữa lại? Rồi cả cái nhìn ma mãnh đó. Như thể ông ta đã biết. Như thể ông ta và Arlette đã cùng nhau dàn xếp chuyện này.

Đừng để những suy nghĩ kiểu đó chui vào đầu anh bạn, tôi tự nói với chính mình. Nguyên chuyện anh bạn cứ tiếp tục nghĩ mãi đến cô ta ở dưới giếng cũng đủ tệ hại rồi. Tôi tự hỏi không biết lũ giun đã chén hết hai mắt cô ta chưa? Liệu lũ bọ đã gặm hết cái lưỡi sắc lẻm của cô ta, hay ít nhất cũng làm cùn bớt nó đi chưa nhỉ?

Tôi tới bên cái bàn kê trong góc phòng xa nhất, cầm lấy chai rượu đang đặt trên đó, và rót cho mình một cốc kha khá whisky nâu. Bàn tay tôi run run, nhưng cũng chỉ một chút. Tôi uống hết sạch chỗ rượu sau hai lần. Tôi biết biến việc uống rượu như thế thành thói quen là việc chẳng hay ho gì, nhưng không phải tối nào một người đàn ông cũng cảm thấy cô vợ đã chết của mình đang gõ lên mũi anh ta. Và rượu khiến tôi thấy dễ chịu hơn. Kiểm soát được bản thân tốt hơn. Tôi không cần một khoản vay thế chấp tới 750 đô la để sửa lại mái nhà, tôi có thể chữa lại bằng ván gỗ khi mưa ngừng. Nhưng như thế sẽ là một miếng vá víu thật xấu xí; nó sẽ làm ngôi nhà có bộ dạng mà hẳn mẹ tôi sẽ gọi là nghèo kiết xác. Song đó cũng không phải là điều quan trọng. Chữa chỗ thấm nước đó sẽ chỉ mất một hai ngày. Tôi cần có công việc giúp tôi bận rộn qua cả mùa đông. Bận bịu với công việc sẽ tống khứ ra khỏi đầu tôi ý nghĩ về Arlette ngồi trên cái ngai bụi đất bẩn thỉu của cô ta, Arlette với cái bao tải trùm trên đầu. Tôi cần những dự định cải tạo nhà cửa sẽ khiến tôi leo lên giường mệt lử tới mức tôi sẽ ngủ thiếp đi ngay lập tức, không phải nằm đó chong mắt lắng nghe tiếng mưa rơi và tự hỏi liệu Henry có đang ngoài kia dưới cơn mưa đó, có thể đang ho sù sụ vì bị cúm. Đôi lúc lao động là lối thoát duy nhất, câu trả lời duy nhất.

Ngày hôm sau, tôi lái xe tải vào thành phố và làm điều hẳn tôi sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện thực hiện nếu tôi không cần phải đi vay 35 đô la: tôi vay một khoản thế chấp 750 đô la. Cuối cùng tất cả chúng ta đều sa chân vào bẫy do chính mình đào. Tôi tin như vậy. Cuối cùng tất cả chúng ta đều lâm vào cảnh đó.

Ở Omaha, cũng vào tuần ấy, một thanh niên trẻ đội mũ phớt rộng vành bước vào một hiệu cầm đồ trên phố Dodge và mua một khẩu súng ngắn cỡ nòng 8 mm. Người thanh niên trả tiền mua súng bằng 5 đô la không nghi ngờ gì nữa đã được một bà lão mù dở đang ngồi thu ngân dưới biển hiệu Cô Gái Mũ Xanh đưa cho cậu ta trong hoàn cảnh bị đe dọa. Ngày hôm sau, một thanh niên trẻ đội mũ lưỡi trai trên đầu và buộc khăn che kín mũi miệng bước vào chi nhánh Omaha của ngân hàng First Agricultural Bank, chĩa súng ngắn vào một nhân viên giao dịch trẻ xinh đẹp có tên Rhoda Penmark, yêu cầu cô này giao lại toàn bộ tiền có trong ngăn kéo của mình. Cô gái đưa cho cậu ta chừng 200 đô la, phần lớn là tờ một và năm đô - những tờ giấy bạc các nông dân thường cuộn tròn lại mang theo trong túi quần yếm của họ.

Khi cậu thanh niên rời khỏi ngân hàng, vừa đi vừa dùng một tay nhét tiền vào túi quần (rõ ràng là có phần hồi hộp, cậu ta để rơi vài tờ bạc xuống sàn), người bảo vệ béo phục phịch - một nhân viên cảnh sát về hưu - lên tiếng: “Con trai, cậu không muốn làm chuyện này đâu.”

Cậu thanh niên giơ súng bắn lên trời. Vài người kêu ầm lên. “Tôi cũng không muốn bắn ông,” cậu ta nói từ sau tấm khăn bịt mặt, “nhưng tôi sẽ bắn nếu buộc phải thế. Hãy lùi lại chỗ của ông, thưa ông, và ở yên tại đó nếu ông biết điều gì tốt cho mình. Tôi có một người bạn đang ở ngoài khống chế cửa ra vào.”

Cậu thanh niên chạy ra ngoài, vừa chạy vừa giật khăn bịt mặt. Người bảo vệ đợi thêm chừng một phút, sau đó đi ra với hai tay giơ lên cao (ông ta cũng không hề có súng ngắn), đề phòng trường hợp đúng là có một kẻ tòng phạm. Nhưng tất nhiên chẳng có ai hết. Hank James không có bạn bè nào tại Omaha trừ cô bạn gái với đứa con của cậu ta đang lớn lên trong bụng.

Tôi rút 200 đô la từ khoản vay thế chấp của mình dưới dạng tiền mặt, và để phần con lại tại ngân hàng của ông Stoppenhauser. Tôi đi mua các vật liệu cần thiết ở cửa hàng bán dụng cụ, cửa hàng gỗ, và cửa hàng tạp hóa, nơi rất có thể Henry đã nhận được một lá thư của mẹ nó... nếu cô ta vẫn còn sống để viết một lá thư. Tôi rời thành phố trong một cơn mưa phùn sau đó chuyển thành mưa nặng hạt khi tôi về đến nhà. Tôi khuân chỗ gỗ súc và ván lợp mới mua, cho bò và gà ăn, vắt sữa bò, rồi cất chỗ đồ tạp hóa - phần lớn là đồ khô và nhu yếu phẩm đã gần cạn khi không còn Arlette lo chuyện bếp núc. Sau khi làm xong việc đó, tôi đun nước trên bếp để chuẩn bị tắm và cởi những món quần áo đã ẩm ướt trên người ra. Tôi lấy cục tiền ra khỏi túi trước bên phải của cái quần yếm nhàu nhĩ, đếm lại, và nhận ra mình vẫn còn đến 160 đô la tiền mặt. Tại sao tôi lại rút ra nhiều tiền mặt đến thế? Bởi vì đầu óc tôi đã để cả vào chỗ khác. Ở đâu mới được cơ chứ? Vào Arlette và Henry, tất nhiên rồi. Chưa kể tới Henry và Arlette. Hầu như họ là tất cả những gì tôi nghĩ đến trong những ngày mưa gió ấy.

Tôi biết giữ bên mình nhiều tiền mặt đến thế không phải là ý kiến hay. Món tiền này cần phải quay trở lại ngân hàng, khi nó có thể đem lại ít nhiều lợi tức (cho dù còn xa mới đủ bù vào lãi suất phải trả cho khoản vay thế chấp) trong khi tôi còn bận cân nhắc xem tốt nhất nên sử dụng nó như thế nào. Nhưng cho tới lúc ấy, tôi cần cất số tiền vào chỗ nào đó an toàn.

Cái hộp đựng chiếc mũ màu đỏ lại hiện lên trong tâm trí. Đó chính là nơi cô ta cất giấu tiền riêng của mình, và có Chúa mới biết món tiền ấy đã an toàn nằm đó trong bao lâu rồi. Cục tiền trong tay tôi quá nhiều để có thể nhét vừa vào dải vải lót, vậy là tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ giấu nó vào trong chính cái mũ. Món tiền sẽ chỉ nằm đó tới khi tôi tìm ra một cái cớ để quay vào thành phố.

Tôi đi vào phòng ngủ, cởi hết quần áo ra, và mở cửa thủ quần áo. Tôi gạt sang bên cái hộp đựng chiếc mũ trắng dùng đội đi nhà thờ của cô ta, rồi với lấy cái hộp kia. Tôi đã đẩy nó sâu tít vào trong cùng chiếc giá, và bây giờ buộc phải kiễng chân lên để có thể với tới cái hộp. Có một sợi dây chun buộc quanh hộp. Tôi móc ngón tay vào trong sợi dây để kéo hộp ra, và ngay lập tức cảm thấy có vẻ cái hộp trở nên nặng hơn nhiều - dường như bên trong đó có một viên gạch chứ không phải một cái mũ - và rồi tôi có cảm giác lạnh buốt thật kỳ quái, như thể bàn tay tôi vừa nhúng vào nước đá. Một khoảnh khắc sau, cảm giác lạnh buốt chuyển thành nóng bỏng. Đó là một cơn đau khủng khiếp đến nỗi làm tất cả những sợi cơ trên cánh tay tôi tê liệt. Tôi nhảy bật lại sau, kêu thét lên vì kinh ngạc và đau đớn, làm tiền rơi tung tóe khắp nơi. Ngón tay tôi vẫn móc vào sợi dây chun, và cái hộp đựng mũ bung ra. Nằm thù lù trên nóc hộp là một con chuột trông cực kỳ quen thuộc.

Các vị có thể nói với tôi, “Wilf, con chuột nào trông chẳng giống những con khác,” và thường ra chắc hẳn các vị có lý, song tôi biết rõ con chuột này; chẳng phải tôi từng tận mắt thấy nó bỏ chạy khỏi mình với mẩu núm vú của con bò cái thò ra khỏi miệng như một điếu xì gà hay sao?

Cái hộp đựng mũ rời khỏi bàn tay đang chảy máu của tôi, và con chuột rơi xuống sàn nhà. Nếu tôi có thời gian để suy nghĩ, hẳn nó đã lại bỏ đi lần nữa, nhưng mọi suy nghĩ tỉnh táo đã bị xóa bỏ hoàn toàn bởi cảm giác đau đớn, sự bất ngờ và nỗi kinh hoàng mà tôi chắc gần như bất cứ ai cũng cảm thấy khi chứng kiến máu chảy ròng ròng ra từ một phần cơ thể của mình vốn chỉ vài giây trước còn nguyên vẹn. Thậm chí tôi còn không nhớ mình đang trần trụi như ngày mới chào đời, chỉ điên cuồng dậm mạnh chân phải xuống con chuột. Tôi nghe thấy tiếng xương nó gãy răng rắc và cảm thấy lòng ruột nó lầy nhầy. Máu và ruột ướt lép nhép phọt ra phía dưới đuôi nó, bắn lên mắt cá chân bên trái của tôi nóng hổi. Con chuột cố quay người lại cắn tôi lần nữa; tôi có thể thấy những cái răng cửa to tướng của nó nghiến kèn kẹt, nhưng không thể với tới tôi được. Có nghĩa là không thể chừng nào tôi còn giẫm chân lên nó. Và tôi đã làm thế. Tôi ấn xuống mạnh hơn, ép bàn tay bị thương vào ngực, cảm thấy máu nóng bết lên mảng máu khô dày bắt đầu bết lại ở đó. Con chuột vùng vẫy vặn vẹo qua lại. Đuôi của nó thoạt đầu đập vào bắp chân tôi, rồi quấn xung quanh nó như một con rắn cỏ. Máu ứa ra từ miệng nó. Đôi mắt đen của nó lồi ra như hai viên đá cẩm thạch.

Tôi đứng đó, chân dậm lên con chuột đang chết dần thêm một lúc lâu. Dưới bàn chân đó, con chuột đã nát bét, nội tạng biến thành một mớ lầy nhầy như cháo, ấy vậy mà nó vẫn vùng vẫy và tìm cách cắn. Cuối cùng con chuột thôi không cựa quậy nữa. Tôi dẫm lên nó thêm một lúc nữa, muốn đảm bảo không phải nó đang giả vờ chết (một con chuột giả vờ chết - thật hay ho làm sao!), và khi thấy chắc nó đã chết hẳn, tôi tập tễnh đi vào bếp, để lại sau một dãy vết chân đẫm máu và trong lúc quay cuồng loáng thoáng nhớ tới lời tiên tri cảnh báo Pelias hãy đề phòng một người đàn ông chỉ có một chiếc xăng đan dưới chân. Nhưng tôi không phải là Jason; tôi chỉ là một nông dân sắp phát điên vì đau đớn và kinh hoàng, một người nông dân dường như bị kết án phải làm chỗ ngủ của anh ta ngập ngụa trong máu.

Trong lúc giơ bàn tay dưới vòi bơm để làm dịu nó bằng nước lạnh, tôi có thể nghe thấy ai đó đang nói, “Không thêm nữa, không thêm nữa, không thêm nữa.” Người ấy chính là tôi, tôi biết thế, nhưng nghe tiếng nói ấy như của một ông già. Một con người đã bị đẩy vào cảnh xác xơ như ăn mày.

Tôi có thể nhớ rõ phần còn lại của tối hôm ấy, nhưng hồi ức về nó cũng giống như nhìn vào những bức ảnh cũ trong một cuốn album đã ố vàng. Con chuột đã cắn thủng màng thịt giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái của tôi - một nhát cắn thật khủng khiếp, nhưng nhìn nhận lại vẫn có thể coi là may mắn. Nếu nó đớp vào ngón tay tôi đang luồn vào móc lấy dây chun, có thể nó đã cắn đứt lìa ngón tay này ra. Tôi ý thức được điều này khi quay vào phòng ngủ và cầm lấy đuôi đối thủ của tôi nhấc lên (dùng bàn tay phải; bàn tay trái của tôi đang quá tê cứng và đau đớn để có thể cử động được). Con chuột ít nhất cũng phải dài đến hai foot[26], và nặng sáu cân Anh[27].

Vậy thì đây không phải là con chuột đã chui vào đường ống trốn thoát, tôi có thể nghe thấy các vị đang nói. Không thể là nó. Nhưng đúng là con chuột đó, tôi khẳng định với các vị. Không có dấu hiệu nào để nhận dạng - chẳng có bất cứ vạt lông trắng hay cái tai sứt dễ dàng nhận ra nào - nhưng tôi biết đây chắc chắn là con chuột đã tấn công Achelois. Cũng như tôi biết không phải tình cờ nó lại nằm thù lù trên đó.

Tôi cầm đuôi mang xác con chuột vào bếp và ném vào xô đựng tro. Rồi tôi xách cái xô ra hố rác. Tôi đang trần như nhộng dưới trời mưa xối xả, nhưng hầu như chẳng để ý tới tình trạng này. Điều tôi cảm nhận được rõ nhất là bàn tay trái của mình, giần giật với cảm giác đau đớn dữ dội đến mức đe dọa làm tôi quên sạch đi mọi thứ.

Tôi lấy chiếc áo khoác treo trên móc trong phòng ngoài (đó là tất cả những gì tôi cố gắng làm được), mặc nó lên người, rồi lại ra ngoài lần nữa, lần này tới chỗ chuồng gia súc. Tôi dùng thuốc sát trùng Rawleigh Salve bôi lên bàn tay bị thương. Nó đã giúp vú Achelois không bị nhiễm trùng, và có thể sẽ làm được điều tương tự với bàn tay của tôi. Tôi bắt đầu đứng dậy để quay vào nhà, nhưng rồi lại nhớ ra con chuột đã chạy thoát khỏi tay tôi lần trước. Đường ống! Tôi tới chỗ đó, cúi xuống, chờ đợi sẽ thấy chỗ xi măng trám vào đã bị nhai nát thành từng mảnh hay hoàn toàn biến mất, nhưng nó vẫn còn nguyên vẹn. Tất nhiên là vậy rồi. Thậm chí cả những con chuột nặng sáu cân Anh với hàm răng quá khổ cũng không thể gặm qua bê tông. Việc một ý nghĩ như thế có thể xuất hiện trong đầu óc tôi cũng đủ để thấy tôi đang lâm vào tình trạng như thế nào. Trong khoảnh khắc dường như tôi thấy mình từ bên ngoài: một gã đàn ông trần truồng, ngoại trừ một cái áo khoác chưa cài khuy, lông trên người bết lại dính với máu xuống tận hông, bàn tay trái rách nát lấp lánh dưới một lớp dày thuốc sát trùng dùng cho bò, hai mắt lồi ra khỏi đầu. Giống như đôi mắt của con chuột, khi tôi giẫm lên nó.

Không phải là cùng một con chuột, tôi tự nhủ. Con chuột đã cắn Achelois hoặc đã nằm chết trong ống nước hay trên lòng Arlette.

Nhưng tôi biết chính là nó. Lúc đó tôi biết và bây giờ cũng vẫn biết.

Chính là nó.

Quay trở lại phòng ngủ, tôi quỳ xuống nhặt những tờ bạc dính máu lên. Một công việc thật chậm chạp khi phải làm chỉ với một bàn tay. Một lần, tôi đụng bàn tay bị thương vào thành giường và kêu thét lên vì đau. Tôi có thể thấy máu tươi lại trào ra nhuộm vào lớp thuốc sát trùng, biến nó thành màu hồng. Tôi cho tiền vào ngăn kéo, thậm chí còn không buồn che đậy lên trên bằng một cuốn sách hay một cái đĩa trang trí chết tiệt của Arlette. Tôi cũng không thể nhớ ra tại sao ban đầu việc cất dấu số tiền đi lại quan trọng đến thế. Cái hộp đựng chiếc mũ đỏ tôi lại đá vào trong tủ quần áo, rồi đóng sầm cửa lại. Nó có thể nằm ở đó cho tới ngày tận thế, ít nhất là với tôi.

Bất cứ ai từng sở hữu hay làm việc ở một trang trại cũng sẽ nói với các vị rằng các tai nạn là chuyện thường xuyên xảy ra, và cần phải đề phòng cẩn thận. Tôi có một cuộn băng lớn để trong thùng bên cạnh bơm tay trong bếp - cái thùng Arlette vẫn luôn gọi là “hòm giam nỗi đau”. Tôi bắt tay vào lấy cuộn băng ra, nhưng rồi mắt tôi chú ý tới cái nồi to đang bốc hơi trên bếp. Đó là nồi nước tôi đã đun để chuẩn bị đi tắm khi còn lành lặn, khi mà cảm giác đau đớn như tôi đang bị hành hạ lúc này dường như chỉ là chuyện trong sách vở. Tôi chợt nghĩ có thể nước xà phòng nóng là thứ cần thiết cho bàn tay của tôi. Vết thương không thể đau đớn hơn nữa được, tôi lý luận, và nhúng vào nước xà phòng sẽ giúp làm sạch nó. Tôi đã sai lầm trong cả hai chuyện, nhưng làm sao tôi biết trước được? Trong suốt những năm vừa qua sau đó, điều đó dường như vẫn là một suy nghĩ hợp lý. Tôi nghĩ thậm chí nó có thể còn có hiệu quả là đằng khác, nếu tôi chỉ bị một con chuột thông thường cắn.

Tôi dùng bàn tay phải còn lành lặn múc nước nóng vào một cái chậu (không thể có chuyện bê chiếc nồi lên để đổ nước ra), sau đó thêm vào một miếng thứ xà phòng giặt màu nâu lổn nhổn của Arlette. Đúng ra thì đó là miếng cuối cùng; có quá nhiều thứ đồ gia dụng một người đàn ông quên mua sắm khi anh ta không quen thuộc với việc sử dụng chúng. Tôi một cái khăn vào chậu, sau đó đi vào phòng ngủ, quỳ gối xuống lần nữa, và bắt đầu lau máu và đống lòng ruột. Và trong suốt thời gian đó không ngừng nhớ tới (tất nhiên rồi) lần cuối cùng tôi lau máu trên sàn trong căn phòng ngủ đáng nguyền rủa đó. Ít nhất lần đó Henry còn có mặt cạnh tôi để cùng chia sẻ sự ghê rợn. Phải làm việc đó một mình, và trong cơn đau đớn hành hạ, quả là một màn tra tấn khủng khiếp. Bóng của tôi nhấp nhô lom khom trên bức tường, làm tôi không khỏi nhớ tới Quasimodo trong Nhà thờ Đức Bà Paris của Hugo.

Khi việc lau dọn đã gần xong hẳn, tôi dừng tay, ngẩng đầu lên, nín thở, mắt mở to, tim dường như đang đập thình thịch ở trong bàn tay trái bị cắn rách tướp. Tôi nghe thấy tiếng động của bước chân chạy lào xào rất nhanh, dường như vang lên từ khắp nơi. Tiếng động của những con chuột đang chạy. Chỉ trong khoảnh khắc đó tôi lập tức thấy chắc chắn về điều đó. Những con chuột từ dưới giếng. Những triều thần trung thành của cô ta. Chúng đã tìm được một con đường khác để thoát ra ngoài. Con chuột đã ngồi chồm hỗm trên nắp cái hộp đựng chiếc mũ đỏ chỉ đơn thuần là con đầu tiên và táo tợn nhất. Chúng đã chui vào trong nhà, chúng đang ở trong tường, và chẳng mấy lúc nữa chúng sẽ mò ra và áp đảo tôi. Vợ tôi sẽ có được sự báo thù cô ta muốn. Tôi sẽ nghe thấy tiếng cô ta phá lên cười khi chúng xé tôi ra từng mảnh.

Gió giật từng cơn mạnh đến mức làm ngôi nhà lay động và có một lúc ngắn rít lên chói tai qua các kẽ mái. Tiếng bước chân chạy lào xào vang lên mạnh hơn, rồi lắng xuống một chút khi gió lặng. Cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập trong tôi mãnh liệt đến mức khỏa lấp cả cơn đau (ít nhất là trong vài giây). Đó không phải là những con chuột; đó chỉ là những hạt mưa đá. Khi trời tối, nhiệt độ hạ xuống và những hạt mưa trở nên cứng lại một phần. Tôi trở lại với việc lau dọn nốt vết tích con chuột.

Khi xong việc, tôi đổ chỗ nước lau đỏ ngầu máu qua lan can trước cửa, rồi quay trở lại chuồng gia súc để bôi một lớp thuốc sát trùng mới lên vết thương trên bàn tay. Lúc này, khi vết thương đã được làm sạch hoàn toàn, tôi có thể thấy dải màng thịt giữa ngón cái và ngón trỏ của tôi bị cắn thủng thành ba vết trông giống như quân hiệu của một viên thượng sĩ. Ngón tay cái bên trái của tôi nằm lệch đi, như thể những chiếc răng chuột đã cắn đứt một dây chằng quan trọng nào đó néo giữ nó với phần còn lại bàn tay trái của tôi. Tôi bôi thuốc sát trùng rồi quay trở vào trong nhà, thầm nghĩ. Nó đau nhưng ít nhất đã sạch. Achelois đã không sao; rồi mình cũng sẽ ổn thôi. Mọi chuyện đều ổn cả. Tôi cố hình dung ra cảnh lực lượng phòng thủ của mình đang tập hợp lại và tìm đến chỗ những vết cắn giống như những người lính cứu hỏa tí hon đội mũ đỏ và mặc áo khoác dài bằng vải dầu.

Ở dưới đáy thùng đựng thuốc, được quấn trong một mảnh lụa bị xé ra, rất có thể từng có thời là một phần của một cái quần lót nữ, tôi tìm thấy một cái lọ đựng thuốc viên của hiệu thuốc tại Hemingford Home. Trên nhãn lọ là dòng chữ viết hoa rõ nét bằng bút máy ARLETTE JAMES Uống 1 hay 2 viên trước khi đi ngủ để điều trị đau kinh kỳ. Tôi uống ba viên, chiêu bằng một ngụm lớn whisky. Tôi không biết trong những viên thuốc đó là thứ gì - morphin, tôi đoán vậy - nhưng chúng có hiệu quả. Cơn đau vẫn còn đó, nhưng dường như nó thuộc về một anh chàng Wilfred James lúc này đang tồn tại ở một tầng cấp khác của thực tế. Đầu tôi bồng bềnh như đang bơi; trần nhà bắt đầu nhẹ nhàng chuyển động phía trên đầu tôi; hình ảnh của những người lính cứu hỏa tí hon tới nơi để dập tắt những lưỡi lửa của nhiễm trùng trước khi chúng lan rộng trở nên rõ nét hơn. Gió thổi càng lúc càng mạnh thêm, và trong đầu óc nửa mơ nửa tỉnh của tôi, những tiếng lào rào trầm trầm không ngừng vang lên khi những đợt mưa đá đập vào ngôi nhà nghe càng giống tiếng chân chuột chạy hơn bao giờ hết, nhưng tôi đã biết rõ những âm thanh ấy là gì. Tôi nghĩ thậm chí mình còn nói to lên thành tiếng: “Tôi biết rồi, Arlette, cô không lừa được tôi đâu.”

Khi sự tỉnh táo dần tan biến và tôi bắt đầu thiếp đi, tôi hiểu ra rất có thể tôi sẽ thiếp đi mãi mãi: sự kết hợp giữa cơn sốc, cảm giác say sưa chếnh choáng và morphin có thể sẽ chấm dứt cuộc sống của tôi. Tôi có lẽ sẽ được tìm thấy trong một căn nhà đồng quê lạnh lẽo với nước da xanh xám, bàn tay bị thương đặt trên bụng. Ý tưởng ấy chẳng hề khiến tôi sợ hãi; ngược lại, nó còn giúp tôi thấy dễ chịu hơn.

Trong lúc tôi ngủ, cơn mưa đá biến thành tuyết.

Khi tôi tỉnh giấc lúc rạng sáng hôm sau, ngôi nhà lạnh cóng như một nấm mồ, và bàn tay của tôi đã sưng phồng lên to gấp đôi kích thước bình thường của nó. Phần da thịt xung quanh vết cắn ngả màu xám tro, nhưng ba ngón tay đầu tiên của bàn tay đã chuyển sang sắc hồng đùng đục sau đó sẽ biến thành màu đỏ vào cuối ngày. Chạm vào bất cứ chỗ nào trên bàn tay đó trừ những chỗ màu hồng đều gây nên cảm giác đau đớn khủng khiếp. Dẫu vậy, tôi vẫn băng nó lại chặt hết mức có thể, và như thế cảm giác giần giật dịu đi. Tôi nhóm lửa trên bếp - với một tay đó quả là một việc mất thời gian, nhưng tôi cũng xoay xở được - rồi đứng sát vào, cố sưởi ấm người lên. Nghĩa là phần còn lại của cơ thể tôi, trừ bàn tay bị cắn; riêng phần đó của tôi vốn đã ấm sẵn rồi. Ấm và giần giật không ngừng chẳng khác gì một chiếc găng tay có một con chuột chui bên trong vậy.

Đến giữa buổi chiều tôi lên cơn sốt, và bàn tay của tôi sưng phồng lên ép chặt vào lớp băng bó đến mức tôi phải nới chúng ra. Chỉ nguyên làm vậy thôi cũng khiến tôi đau đến kêu thét lên. Tôi cần đi khám bác sĩ, nhưng lúc này ngoài trời tuyết rơi còn nặng hơn lúc nào hết, và tôi sẽ chẳng thể thậm chí tới được chỗ nhà Cotterie, chứ đừng nói tới chuyện đi cả quãng đường dẫn đến Hemingford Home. Thậm chí nếu ngày hôm đó có quang đãng, đẹp trời và khô ráo đi chăng nữa, làm sao tôi có thể lái được cái xe tải hay chiếc T đi với chỉ một bàn tay? Tôi ngồi trong bếp, không ngừng tay cho củi vào bếp tới khi ngọn lửa bùng lên gầm rít như một con rồng, hết toát mồ hôi lại run lên bần bật vì lạnh, giữ bàn tay quấn băng bó cứng đơ như một cây gậy áp lên ngực, và nhớ lại cách cô McReady tốt bụng nhìn quanh khoảng sân trước cửa lộn xộn và không có vẻ gì sung túc của tôi. Ông có điện thoại không, ông James? Tôi thấy là không.

Không. Tôi không có điện thoại. Tôi chỉ có một mình ở cái trang trại mà vì nó tôi đã giết người, không có bất cứ phương cách nào để gọi người giúp đỡ. Tôi có thể thấy thịt bắt đầu chuyển sang màu đỏ ở phía trên chỗ những vòng băng bó dừng lại: ở cổ tay, nơi đầy rẫy những mạch máu sẽ dẫn chất độc đi khắp cơ thể tôi. Những người lính cứu hỏa đã thất bại. Tôi nghĩ đến việc dùng dây cao su buộc chặt cổ tay lại - giết chết bàn tay trái của tôi trong một nỗ lực để cứu lấy phần còn lại - và thậm chí tới việc cắt cụt nó đi bằng cái rìu chúng tôi vẫn dùng để chẻ củi và thỉnh thoảng chặt đầu một con gà. Cả hai ý tưởng dường như đều hợp lý một cách hoàn hảo, nhưng chúng dường như cũng đồng nghĩa với quá nhiều việc phải làm. Cuối cùng, tôi chẳng làm gì hết ngoài tập tễnh quay lại thùng đựng thuốc để uống thêm những viên thuốc giảm đau của Arlette. Tôi uống ba viên nữa, lần này với nước lạnh - cổ họng tôi như đang có lửa - rồi quay lại ngồi trước bếp lửa. Tôi sẽ chết vì vết cắn ấy. Tôi biết chắc và buông xuôi cam chịu. Chết vì những vết cắn và nhiễm trùng cũng là chuyện rất hay gặp ở vùng đồng quê. Nếu cơn đau trở nên khủng khiếp hơn mức tôi có thể chịu đựng, tôi sẽ uống hết sạch chỗ thuốc giảm đau còn lại cùng một lúc. Điều ngăn cản tôi không làm như thế ngay lập tức - ngoại trừ nỗi sợ chết, điều tôi nghĩ ám ảnh tất cả chúng ta, dù ít hay nhiều - là khả năng có thể ai đó sẽ tới: Harlan, hay cảnh sát trưởng Jones, hay cô McReady tốt bụng. Hoặc thậm chí luật sư Lester cũng có thể xuất hiện để ám quẻ tôi thêm lần nữa vì 100 mẫu đất chết tiệt kia.

Nhưng điều tôi hy vọng trên tất cả là có thể Henry quay trở về. Nhưng thằng bé đã không về.

[26] 1 foot = 30 cm.

[27] 1 pound = 0,453 kg.