Chương 10
Người đến với tôi rốt cuộc lại là Arlette.
Các vị có lẽ đã băn khoăn bằng cách nào tôi biết về khẩu súng Henry mua ở hiệu cầm đồ trên phố Dodge, cũng như vụ cướp ngân hàng ở quảng trường Jefferson. Nếu đúng là vậy thật, hẳn các vị cũng đã tự nói với chính mình, À, từ năm 1922 đến 1930 là cả một quãng thời gian dài, đủ để thu thập vô khối chi tiết trong một thư viện đầy ắp những số cũ của tờ World-Herald phát hành tại Omaha.
Tôi có tìm đến những tờ báo, tất nhiên rồi. Và tôi viết cho những người từng gặp con trai tôi và cô bạn gái đang mang thai của nó trong cuộc hành trình ngắn ngủi tai họa của hai đứa từ Nebraska tới Nevada. Phần lớn những người đó đều viết thư hồi đáp, sẵn sàng cung cấp những chi tiết. Những kiểu công việc điều tra như thế nghe sẽ có lý, và hẳn là khiến các vị hài lòng. Nhưng tất cả những việc điều tra tìm hiểu đó đều diễn ra nhiều năm sau, sau khi tôi đã rời khỏi trang trại, và chỉ khẳng định những gì tôi đã biết trước.
Đã biết trước ư? các vị hẳn sẽ hỏi, và tôi xin trả lời thật đơn giản: Phải. Đã biết trước. Và tôi không chỉ biết điều đó khi nó xảy ra, mà ít nhất còn biết một phần trước khi nó xảy ra. Phần cuối cùng.
Bằng cách nào? Câu trả lời rất đơn giản. Cô vợ đã chết nói cho tôi biết.
Các vị không tin, tất nhiên rồi. Tôi hiểu. Bất cứ người tỉnh táo nào cũng thế thôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là thuật lại lời thú tội của mình, những lời cuối cùng của tôi trên thế gian này, và trong đó tôi không hề đưa vào bất cứ điều gì tôi không biết là đúng.
***
Tôi tỉnh dậy sau một giấc ngủ mơ màng trước bếp vào tối ngày hôm sau (hay hôm sau nữa; vì khi cơn sốt bắt đầu, tôi đã mất đi ý niệm về thời gian) và lại nghe thấy âm thanh sột soạt, lạo xạo. Thoạt đầu tôi đoán mưa đá lại bắt đầu rơi, nhưng khi tôi đứng dậy bước tới bẻ một miếng bánh mì từ ổ bánh cứng đơ trên bàn bếp, tôi nhìn thấy một dải bình minh màu cam trải dọc đường chân trời và sao Kim lấp lánh trên bầu trời. Cơn dông đã chấm dứt, song những âm thanh lạo xạo vẫn vang lên to hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, chúng không vọng lại từ trong tường, mà từ phía cửa sau.
Cái chốt cửa bắt đầu lay động. Thoạt tiên nó chỉ rung lên, như thể bàn tay đang cố mở nó ra quá yếu để có thể nhấc nó hoàn toàn ra khỏi khe cài. Chuyển động đó ngừng lại, và khi tôi vừa đi tới kết luận tôi không hề nhìn thấy nó - rằng đó chẳng qua chỉ là một ảo giác do cơn sốt gây nên - khi chốt cửa bật tung lên trên với một tiếng cách khe khẽ, và cánh cửa bị một cơn gió lạnh buốt thổi mở tung. Đứng trên ngưỡng cửa là vợ tôi. Cô ta vẫn đội trên đầu cái bao tải, lúc này đã vương đầy tuyết; hẳn đó phải là một cuộc hành trình chậm chạp, đau đớn từ nơi an nghỉ cuối cùng của cô ta. Khuôn mặt vợ tôi nhăn nheo trong tình trạng thối rữa, nửa dưới trẹo sang một bên, nụ cười ma quái của cô ta càng rộng hoác ra hơn bao giờ hết. Đó là nụ cười của kẻ biết tất cả, và tại sao không? Người chết hiểu mọi thứ.
Vây quanh cô ta là đám triều thần trung thành. Chính bọn chúng, bằng cách nào đó, đã đưa cô ta lên khỏi giếng. Và cũng chính bọn chúng đang giữ cho cô ta đứng lên. Không có chúng, cô ta hẳn sẽ chỉ đơn thuần là một bóng ma, đầy ác ý nhưng bất lực. Nhưng chúng đã làm cô ta sống dậy. Cô ta là nữ hoàng của chúng; đồng thời cũng là con rối của chúng. Cô ta đi vào bếp, di chuyển với một dáng bộ lả lướt èo uột ghê rợn như không xương, chẳng có chút gì giống với bước đi. Những con chuột chen chúc nhau chạy khắp quanh cô ta, vài con ngước lên nhìn cô ta đầy tình cảm, một số nhìn tôi chằm chằm với vẻ hận thù. Cô ta lắc lư vòng quanh căn bếp, dạo một vòng nơi từng là lãnh địa của mình trong lúc những mảnh đất vụn rơi từ trên váy cô ta xuống (không còn bất cứ dấu vết nào của tấm mền hay ga phủ giường) và đầu cô ta lắc lư quay tròn trên cần cổ bị cắt ngang. Có lần nó nghiêng ra tận sau hai vai cô ta trước khi bật thẳng lại ra phía trước với tiếng xương thịt kêu răng rắc vang lên khe khẽ.
Khi cuối cùng cô ta hướng đôi mắt mờ đục nhìn vào tôi, tôi đã lùi vào góc nơi có thùng đựng củi, lúc này gần như đã trống trơn. “Để tôi yên,” tôi thì thầm. “Cô thậm chí còn không ở đây. Cô đang ở dưới cái giếng và không thể thoát ra ngoài được cho dù cô có chưa chết đi chăng nữa.”
Vợ tôi phát ra một âm thanh lọc xọc - nghe như thể một người bị sặc vì nước sốt đặc - và tiếp tục lại gần, thật đến mức có thể đổ bóng xuống sàn. Và tôi có thể ngửi thấy mùi da thịt thối rữa của cô ta, người đàn bà từng đôi lúc luồn cái lưỡi của cô ta vào trong miệng tôi trong những cơn khoái cảm. Cô ta đã ở đó. Cô ta có thật. Cả đoàn tùy tùng vương giả của cô ta nữa. Tôi có thể cảm thấy chúng chạy qua chạy lại giẫm lên trên hai bàn chân tôi, cảm thấy ria chúng cọ vào hai bên mắt cá tôi khi chúng nghển cổ lên ngửi ngửi cái quần dài tôi đang mặc.
Hai gót chân tôi đụng vào thùng đựng củi, và khi tôi cố ngả người ra sau để tránh xa khỏi cái xác đang tới gần, tôi mất thăng bằng và ngồi thụp vào bên trong thùng. Bàn tay đang nhiễm trùng sưng phồng của tôi đập vào thùng, nhưng hầu như tôi không cảm thấy đau. Cô ta đang cúi xuống trên người tôi, và khuôn mặt cô ta... đung đưa. Da thịt đã bong ra khỏi xương, cả khuôn mặt cô ta thõng xuống như một khuôn mặt được vẽ trên bóng bay cho trẻ con chơi. Một con chuột leo lên thành thùng, nhảy xuống bụng tôi, chạy lên ngực tôi, nghếch mõm lên ngửi ngửi vào cằm tôi. Tôi có thể cảm thấy những con khác đang bò quanh hai bên đầu gối đang gập lại của mình. Nhưng chúng không cắn tôi. Nhiệm vụ đó đã được hoàn thành rồi.
Cô ta cúi xuống gần hơn. Mùi tỏa ra từ cô ta nồng nặc đến mức không chịu nổi., và nụ cười quái gở nhệch đến tận hai tai của cô ta... tôi có thể hình dung ra nó rõ mồn một vào lúc này, khi tôi đang viết. Tôi ra lệnh cho mình hãy chết đi, nhưng tim tôi vẫn tiếp tục đập. Khuôn mặt treo thõng xuống của vợ tôi trườn xuống cạnh mặt tôi. Tôi có thể cảm thấy những sợi râu mọc lởm chởm của tôi đang rứt ra từng mảnh da nhỏ của cô ta; có thể nghe thấy xương hàm vỡ của cô ta kêu răng rắc như một cành cây có băng giá phủ lên. Rồi đôi môi lạnh ngắt của cô ta áp vào vành tai đang nóng bỏng trong cơn sốt bừng bừng của tôi, và bắt đầu thì thầm những bí mật mà chỉ một người đàn bà đã chết có thể biết. Tôi co rúm lại; Tôi hứa sẽ tự giết chết chính mình và đổi chỗ cho cô ta dưới Địa Ngục nếu cô ta chịu dừng lại. Nhưng cô ta không dừng lại. Cô ta không thể. Người chết không biết dừng lại.
Và đó là những gì lúc này tôi biết.
Sau khi chạy khỏi First Agricultural Bank với 200 đô la nhét trong túi (hay nhiều khả năng hơn là 150 đô la; một phần số tiền bị rơi xuống đất, chắc các vị còn nhớ), Henry biến mất trong một thời gian ngắn. Thằng bé “nằm im”, như cách nói của đám tội phạm. Tôi nói ra chuyện này với ít nhiều tự hào. Tôi đã nghĩ thằng bé chắc sẽ bị bắt gần như ngay lập tức sau khi nó tìm đến thành phố, nhưng con trai tôi chứng minh rằng tôi đã lầm. Thằng bé đang yêu, nó tuyệt vọng, nhưng nó vẫn bị thiêu đốt bởi cảm giác tội lỗi và nỗi ghê sợ trước tội ác mà nó và tôi đã gây ra... nhưng bất chấp những yếu tố gây phân thâm đó (những xâm nhiễm đó), con trai tôi đã thể hiện mình một cách can đảm và khôn ngoan, thậm chí cả với một mức độ cao cả đáng buồn nhất định. Suy nghĩ về phần tính cách này của thằng bé luôn là lúc tệ hại nhất. Cho tới lúc này, ý nghĩ đó vẫn làm tôi chìm đắm trong phiền muộn vì cuộc đời bị lãng phí của nó (ba cuộc đời bị lãng phí; tôi không thể quên cô bé Shannon Cotterie tội nghiệp đang mang thai) và cảm giác hổ thẹn về sự hủy hoại tôi đã dẫn nó vào, chẳng khác gì một con cừu non bị tròng dây lên cổ.
Arlette chỉ cho tôi thấy ngôi lán nơi thằng bé lẩn trốn, và cái xe đạp giấu đằng sau lán - cái xe đạp này là thứ đầu tiên con trai tôi mua với số tiền mặt cướp được. Tôi không thể nói chính xác với các vị nơi lẩn trốn của nó ở đâu vào lúc ấy, nhưng trong những năm sau đó, tôi đã xác định được vị trí của nơi này, thậm chí từng tới đó thăm qua; chỉ là một chái nhà nằm bên đường với biển quảng cáo Royal Crown Cola sơn trên vách tường đã phai màu. Căn nhà nằm quá khu ngoại ô phía tây Omaha vài dặm và có thể nhìn thấy Boys Town, nơi mới đi vào hoạt động năm trước. Có một căn phòng, một khung cửa sổ duy nhất không lắp kính, và không có bếp. Thằng bé che kín chiếc xe đạp bằng rơm khô và cỏ dại rồi bắt tay vào lên kế hoạch. Sau đó, chừng một tuần sau vụ cướp tại First Agricultural Bank - khi mà mối bận tâm cảnh sát dành cho một vụ cướp rất nhỏ hẳn đã lắng xuống - con trai tôi bắt đầu đạp xe tới Omaha. Một cậu nhóc hấp tấp hẳn sẽ lao thẳng tới Ngôi nhà Công giáo St. Eusebia và rơi vào bẫy của đám cớm tại Omaha (như cảnh sát trưởng Jones, không nghi ngờ gì nữa, đã trông đợi con trai tôi xử sự), nhưng Henry Freeman James khôn ngoan hơn thế nhiều. Thằng bé tìm ra địa điểm của khu nhà, nhưng không lại gần. Thay vì thế, con trai tôi tìm kiếm cửa hàng bán đồ ngọt và nước sô đa nằm gần nơi đó nhất. Nó suy đoán rất đúng đắn rằng các cô gái sẽ ghé qua đó bất cứ lúc nào có cơ hội (có nghĩa là bất cứ lúc nào cách cư xử của họ xứng đáng được tưởng thưởng một buổi chiều tự do, đồng thời họ có ít tiền trong túi), và mặc dù các cô gái tại St. Eusebia không bị yêu cầu phải mặc đồng phục, vẫn có thể dễ dàng nhận ra họ qua những bộ váy tồi tàn, đôi mắt luôn dán xuống đất, và cách xử sự của họ - thích được tán tỉnh và lẳng lơ. Những cô nàng mang bụng bầu và không có nhẫn cưới trên tay lại càng dễ gây chú ý.
Một gã trai vụng về hẳn sẽ tìm cách bắt chuyện với một trong số những cô con gái không may của Eva ngay tại chỗ bán nước sô đa, và như thế gây nên sự chú ý. Henry đợi bên ngoài, ở đầu một con hẻm chạy qua giữa cửa hàng bán đồ ngọt và cửa hàng bán đồ tạp hóa nằm ngay bên cạnh nó, ngồi trên một cái vỏ thùng và đọc báo, trong khi cái xe đạp của nó được dựng vào bức tường gạch ngay cạnh thằng bé. Con trai tôi chờ đợi một cô gái thích phiêu lưu hơn một chút so với những cô nàng chỉ hài lòng với việc uống sô đa có đá rồi quay trở lại với các bà xơ. Có nghĩa là một cô gái hút thuốc. Vào buổi chiều thứ ba thằng bé chờ đợi trong con hẻm, một cô gái như thế xuất hiện.
Sau này, tôi đã tìm thấy cô gái đó, và trò chuyện với cô ta. Cũng chẳng có mấy dính dáng tới chuyện điều tra hay thám tử. Tôi tin chắc Omaha dường như là một thành phố lớn với Henry và Shannon, song vào năm 1922 kỳ thực nó mới chỉ là một đô thị lớn hơn chút ít so với một thị trấn cỡ trung bình ở miền Trung Tây với hơi hướng của một thành phố thực thụ. Victoria Harlett giờ đây là một phụ nữ đứng đắn đã lập gia đình với ba đứa con, nhưng vào mùa thu năm 1922, cô ta là Victoria Stevenson: trẻ trung, tò mò, nổi loạn, có thai sáu tháng, và rất kết những điếu Sweet Caporals[28]. Cô ta hoàn toàn vui vẻ nhận một điếu từ Henry khi thằng bé chìa một bao thuốc ra.
“Lấy thêm vài điếu để dành đi,” thằng bé mời mọc.
Cô gái bật cười. “Tôi phải là một con ngốc mới làm thế! Các bà xơ lục soát túi của bọn tôi và lộn trái hết túi áo túi váy ra khi bọn tôi quay vào trại. Tôi sẽ phải nhai ba thanh Black Jack[29] để tống khứ mùi của điếu thuốc này khỏi hơi thở của tôi đấy.” Cô gái vỗ lên cái bụng lùm lùm của mình với vẻ thú vị và thách thức. “Tôi đang gặp rắc rối, như tôi đoán cậu có thể thấy. Một cô gái hư! Và anh chàng bạn trai của tôi chạy mất tăm. Một cậu trai hư, nhưng thế gian đâu quan tâm gì tới chuyện đó! Vậy là sau đó đồ bẩn thỉu tống tôi vào một trại giam với đám chim cánh cụt canh giữ...”
“Tôi không hiểu cô nói gì.”
“Giời ạ! Đồ bẩn thỉu là ông bố tôi! Và đám chim cánh cụt là cách bọn tôi gọi các bà xơ!” Cô ta bật cười. “Cậu là một anh chàng ngố từ dưới quê lên, được rồi! Và thế nào chứ! Nói tóm lại, trại giam nơi tôi ngồi cho qua thời gian được gọi là...”
“St. Eusebia.”
“Giờ thì cậu đang đùa với lửa đấy, chàng khờ.” Cô gái rít thuốc lá, nheo mắt lại. “Xem nào, tôi cược tôi biết cậu là ai - bạn trai của Shannon Cotterie.”
“Để mang một con búp bê đến cho cô ấy,” Hank nói.
“Được lắm, nếu là cậu, tôi sẽ không bén mảng tới trong vòng hai khối nhà quanh trại của chúng tôi, đó là lời khuyên của tôi đấy. Đám cớm đã có bản mô tả nhân dạng của cậu rồi.” Cô ta phá lên cười vui vẻ. “Của cậu và chừng nửa tá người tình cô đơn khác, nhưng chẳng ai trong bọn họ là một anh chàng mắt xanh lục quê một cục như cậu, và cũng chẳng ai có một cô nàng xinh như Shannon. Cô ấy quả là một nữ hoàng Sheba! Chao ôi!”
“Theo cô thì tại sao tôi lại ở đây thay vì ở đó?”
“Được rồi, tôi nghe đây - tại sao cậu lại ở đây?”
“Tôi muốn liên lạc với cô ấy, nhưng tôi không muốn bị bắt khi đang làm chuyện ấy. Tôi sẽ cho cô 2 đô để cô chuyển một lời nhắn tới cô ấy.”
Hai mắt Victoria mở to. “Chàng trai, với 2 đô, tôi sẵn sàng kẹp kèn hiệu dưới tay và chuyển lời tới Garcia[30] - tôi là vậy đấy. Đưa nó cho tôi!”
“Và 2 đô nữa nếu cô giữ mồm giữ miệng về chuyện này. Bây giờ và sau này.”
“Về chuyện đó thì cậu không cần trả thêm,” cô gái nói. “Tôi thích chọc phá mấy con điếm già lúc nào cũng lên mặt dạy đời đó. Sao chứ, bọn họ sẵn sàng nện vào bàn tay tôi nếu tôi xếp hàng lấy bữa tối thêm một vòng nữa! Cứ như Gulliver Twist[31] vậy!”
Con trai tôi đưa cho cô gái tờ giấy ghi lời nhắn, và Victoria đưa nó cho Shannon. Nó vẫn nằm trong cái túi nhỏ đựng đồ lặt vặt của cô gái khi cuối cùng cảnh sát bắt kịp nó và Henry ở Elko, Nevada, và tôi đã xem qua một bức ảnh của cảnh sát chụp lại tờ giấy. Nhưng Arlette đã cho tôi biết trên đó viết những gì từ trước đó rất lâu, và những gì cô ta nói đúng từng từ một với những gì thực sự được viết.
Anh sẽ đợi từ lúc nửa đêm đến tảng sáng đằng sau nơi em đang sống vào mỗi buổi tối trong vòng 2 tuần, lời nhắn trên tờ giấy viết. Nếu em không tới, anh sẽ biết tất cả đã kết thúc giữa chúng mình và quay trở về Hemingford, và sẽ không bao giờ làm phiền em nữa cho dù anh sẽ yêu em mãi mãi. Chúng mình còn trẻ nhưng chúng mình có thể nói dối về tuổi và bắt đầu một cuộc sống tốt đẹp tại một nơi khác (California). Anh có một ít tiền và biết cách để kiếm được nhiều hơn. Victoria biết cần làm thế nào để tìm anh, nếu em muốn gửi lời nhắn tới anh, nhưng chỉ một lần thôi. Nhiều hơn sẽ không an toàn.
Tôi đoán Harlan và Sallie Cotterie có thể đang giữ tờ giấy này. Nếu đúng thế, hẳn họ đã thấy con trai tôi ký tên nó trong một trái tim. Tôi tự hỏi liệu có phải đó là điều đã thuyết phục Shannon hay không. Tôi tự hỏi liệu thậm chí cô gái có cần phải bị thuyết phục hay không. Có thể tất cả những gì cô bé muốn trên đời là giữ lại (và hợp pháp hóa) một đứa con mà cô bé đã bắt đầu yêu thương. Đó là một cậu hỏi mà giọng nói thì thầm ghê tởm của Arlette không bao giờ nhắc đến. Có lẽ cô ta chẳng hề bận tâm tới chuyện đó.
Henry quay trở lại đầu con hẻm hàng ngày sau cuộc gặp đó. Tôi tin chắc thằng bé biết rất có thể cớm sẽ tới thay vì Victoria, nhưng cảm thấy nó không còn lựa chọn nào khác. Đến ngày chầu chực thứ ba của nó, cô gái tìm đến. “Shan viết trả lời ngay lập tức, nhưng tôi không thể mang ra sớm hơn được,” cô gái nói. “Một thằng ngốc nào đó đã chường mặt ra trong cái hố thối tha mà bọn họ dám gọi là một phòng âm nhạc, và đám chim cánh cụt đã ở trong tình trạng chiến tranh suốt từ hôm đó.”
Henry chìa tay ra để đón nhận lời nhắn, được Victoria đưa cho nó để đổi lấy một điếu Sweet Caporal. Trên đó chỉ ghi vẻn vẹn mấy từ: Sáng mai. 2 giờ.
Henry giang tay ôm lấy Victoria và hôn cô gái. Cô phá lên cười đầy phấn khích, mắt sáng ngời. “Chúa ơi! Có những cô gái nhận được tất cả may mắn.”
Không nghi ngờ gì nữa, đúng là thế. Song khi các vị nghĩ đến việc cuối cùng Victoria có được một người chồng, ba đứa con và một ngôi nhà đẹp đẽ trên phố Maple ở khu đẹp nhất của Omaha, còn Shannon Cotterie không thể sống sót qua được cái năm đáng nguyền rủa ấy... các vị sẽ nói ai trong số hai cô gái là người được vận may mỉm cười?
Anh có một ít tiền và biết cách để kiếm được nhiều hơn, Henry đã viết như thế, và đúng là vậy. Chỉ vài giờ sau khi ôm hôn cô nàng Victoria vui nhộn (người mang lời nhắn Cậu ấy nói cậu ấy sẽ có mặt tại đó khi chuông báo giờ điểm trở lại cho Shannon), một thanh niên trẻ đội mũ lưỡi trai kéo sụp xuống trên trán và một cái khăn buộc che kín mũi miệng xông vào cướp ngân hàng First Agricultural Bank ở Omaha. Lần này kẻ đột nhập cướp đi 800 đô la, một khoản thu hoạch rất tuyệt. Nhưng người bảo vệ ở đây còn trẻ hơn và tận tụy với trách nhiệm của anh ta hơn, một điều không tuyệt lắm. Tên cướp đã phải bắn vào đùi anh ta để tẩu thoát, và cho dù Charles Griner sống sót, nhưng bị nhiễm trùng (tôi có thể thông cảm với anh ta), và anh ta bị mất đi cái chân. Khi tôi gặp anh ta tại nhà bố mẹ vào mùa xuân năm 1925, Griner tỏ ra đầy triết lý về chuyện đó.
“Tôi thật may mắn khi vẫn còn sống,” anh ta nói. “Khi người ta buộc được ga rô lên chân tôi, tôi đã nằm trong một vũng máu dày đến cả inch[32]. Tôi cược rằng bọn họ phải mất cả một hộp Dreft[33] để dọn sạch chỗ máu ấy đi.”
Khi tôi cố tìm cách xin lỗi thay con trai mình, anh ta gạt đi.
“Đáng ra tôi không bao giờ nên lại gần cậu ta. Cái mũ được kéo sụp xuống và cái khăn bịt che lên khá cao, nhưng tôi vẫn nhìn thấy đôi mắt cậu ta. Đáng ra tôi phải biết cậu ta sẽ không ngừng lại trừ khi bị bắn hạ, và tôi không bao giờ có cơ hội rút súng ra. Điều đó hiện lên rõ ràng trong mắt cậu ta, ông biết đấy. Nhưng lúc đó tôi cũng còn trẻ. Giờ tôi đã trưởng thành hơn. Trưởng thành hơn là một điều con trai ông không bao giờ có cơ hội có được. Tôi lấy làm tiếc về mất mát của ông.”
Sau vụ đó, Henry đã có nhiều tiền hơn cần thiết để mua một chiếc ô tô - một chiếc xe đẹp, một chiếc tourer[34] - nhưng nó biết làm tốt hơn thế (Viết đến đây, tôi lại cảm nhận thấy sự tự hào đó: rất trầm lắng nhưng không thể chối cãi được). Một cậu trai trông có vẻ như vừa mới bắt đầu cạo râu một hai tuần trước, lại lượn lờ với trong tay đủ tiền để mua một chiếc xe hơi gần như còn mới tinh ư? Làm thế chắc chắn sẽ làm lực lượng thực thi pháp luật nhảy bổ vào nó.
Vậy là thay vì mua xe, thằng bé đánh cắp một chiếc. Không phải là xe mui trần; nó chọn mục tiêu là một chiếc Ford coupe đáng tin cậy và không có đặc điểm nhận dạng nào rõ rệt. Đó chính là chiếc xe con trai tôi lái tới đậu đằng sau khu nhà của St. Eusebia, cũng là chiếc xe Shannon leo lên sau khi lén trốn ra khỏi phòng, rón rén bước xuống cầu thang với chiếc túi đi đường trên tay, rồi leo qua cửa sổ phòng giặt nằm cạnh nhà bếp. Hai đứa trẻ có đủ thời gian trao cho nhau một cái hôn - Arlette không nói vậy, song tôi vẫn còn trí tưởng tượng của mình - rồi Henry lái chiếc Ford về hướng tây. Đến lúc bình mình, hai đứa đã ở trên xa lộ Omaha - Lincoln. Hẳn chúng đã đi ngang qua ngôi nhà cũ của thằng bé - và cả con bé - vào chừng 3 giờ chiều hôm ấy. Có thể chúng đã ngước mắt nhìn về hướng đó, nhưng tôi không rõ Henry có lái xe chậm lại hay không; hẳn thằng bé không muốn dừng lại qua đêm ở một khu vực nơi hai đứa có thể bị nhận ra.
[28] Thương hiệu thuốc lá bắt đầu được sản xuất tại Mỹ từ năm 1878.
[29] Một loại kẹo.
[30] Ám chỉ tới bộ phim câm Một lời nhắn cho Garcia sản xuất năm 1916, trong đó một điệp viên Mỹ được giao nhiệm vụ bí mật tới liên lạc với Calixto Garcia, thủ lĩnh quân du kích Cuba trước thời kỳ xảy ra chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898).
[31] Cô gái nói nhầm, đúng ra là Oliver Twist, tên một tiểu thuyết của Charles Dicken.
[32] 1 inch = 2,54 cm.
[33] Một thương hiệu chất tẩy rửa tổng hợp thông dụng do hãng Procter & Gamble sản xuất.
[34] Xe mui trần có bốn hay năm chỗ ngồi.