← Quay lại trang sách

16. Ni sư Đức Hạnh

Vị sư nữ chùa Thanh Lương [1] họ Phạm, là con gái của một gia đình đời đời làm quan ăn lộc ở nước Giao Chỉ, xuất gia đi tu ở am núi Thanh Lương. Nhà sư luyện tập [3] khổ hạnh, trì giới chuyên cần, mắt tuệ thông suốt, thường ngồi thiền định [4], mắt mũi giống hột như La Hán [5], kẻ đời người đạo xa gần không ai là không kính mộ, lừng lẫy trở thành vị tông sư của ni đồ [6] trong một nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc cao tăng. Khoảng năm Hồng Vũ [7] dược Trần Nghệ Vương [8] ban hiệu “Tuệ Thông đại sư”. Lúc đã già, sư dời về Đông Sơn. Một hôm, sư bỗng bảo với đệ tử rằng:

- Ta muốn đem tấm thân hư ảo này thí cho hổ lang một bữa no.

Bèn vào xếp bằng giữa núi sâu, không ăn uống hơn hai mươi mốt hôm, hổ lang ngày ngày tới [9] ngồi chung quanh nhưng không dám đến gần. Đồ đệ cố mời nhà sư trở về am. Nhà sư đóng sập cửa nhập định [10] qua một mùa hè, rồi bèn tập hợp đám đệ tử lại để giảng đạo, bỗng nhiên ngồi mà hóa [11], tuổi ngoài tám mươi. Lúc hỏa táng có rất nhiều xá lị [12]. Quan sở tại đã xây tháp cho nhà sư ngay trên núi. Trước đó, nhà sư từng dặn các đệ tử:

- Sau khi ta đi, nên chia bớt xương ta lại đây để mài mà rửa tật bệnh cho người đời.

Đến lúc nhặt xương, mọi người thấy không nỡ, bèn cho hết vào hộp phong lại. Qua một đêm, bỗng được một chiếc xương cùi tay trên bàn, bên ngoài hộp, mọi người đều ngạc nhiên về sự linh nghiệm của nhà sư. Về sau, phàm có người mắc bệnh đến khấn cầu, đệ tử đem chiếc xương này mài với nước cho bệnh nhân rửa, không ai là không khỏi bệnh. Sự thề nguyền của nhà sư lớn sâu như thế đấy.

Chú thích:

[1] Chùa Thanh Lương: theo trong bài thì chùa Thanh Lương ở núi Thanh Lương, nhưng núi này ở đâu thì không rõ.

[2] Luyện tập: nguyên văn chữ Hán là “hủy phục”, ý nói bỏ quần áo để tạ tội, ở đây dịch thoát.

[3] Thiền định: ngồi yên lặng, chuyên tâm vào một chỗ, suy ngẫm lẽ nhiệm mầu.

[5] La Hán: cũng tức là Arhat, tên một nhà sư đi xin ăn (tì khưu) đắc đạo. Địa vị dưới Bồ Tát (Bodhisatha).

[6] Ni đồ: đám sư nữ.

[7] Hồng Vũ: niên hiệu của Minh Thái Tổ (1368-1398), tên thực là Chu Nguyên Chương.

[8] Chỉ Trần Nghệ Tông.

[9] Chỗ này trong nguyên bản mất một chữ, tạm thay bằng chữ “tới”.

[10] Nhập định: ngồi yên mà tưởng niệm.

[11] Chết.

[12] Xá lị: chỉ những mẩu xương còn lại sau khi hỏa táng.