← Quay lại trang sách

Chuong 23 - 24

Hổ Mang ngồi ở mũi chiếc thuyền rồng, giơ tấm bản đồ ở quyển bí kíp rồng đánh cắp được lên ánh mặt trời đang lặn.

Mụ nói, “Ccccó điều gì đó không ổn rồi. Ta nnngờ con rắn dưới cỏ quá”.

Đường Lang đặt cây sào chống thuyền dài thượt xuống và nghiêng qua phía mẹ hắn, “Mẹ muốn nói gì vậy?”.

“Suốt tháng vừa qua chúng ta đi suốt chiều dài của con sông Hoàng Hà giữa Khai Phong và Hoàng Hảiiii”. Hổ Mang nói, “Chúng ta thám hiểm mọi lối vào, mọi lối ra và mọi thứ ở giữa, tuy nhiên chúng ta dường như không đến kho báu gần hơn chút nào cả”.

Đường Lang hỏi, “Mẹ có chắc là tấm bản đồ mô tả con sông Hoàng Hà không? Chúng ta khá là xa hướng bắc”.

“Đúng vậyyy”. Hổ Mang rít lên, “Ta chắc chứ. Chính miệng cha mi nói với ta các chi tiết, ngay trước khi ông qua đời. Đó là mười lăm năm trước, nhưng ta ngờ các dải đất ven bờ đã thay đổi nhiều kể từ lúc đó. Tấm bản đồ bí kíppp rồng này được làm ra ở miền nam xứ Quảng Đông thân yêu của chúng ta, nhưng nó được cho là để chỉ lối đến một kho báu bằng cách khởi đầuuu tại đây thuộc miền bắc. Thật sự tấm bản đồ bao gồm cả con sông Hoàng Hà bởi vì nhiều đường kẻ được mô tả trùng khớp với các bờ bãi mà chúng ta gặppp. Tuy nhiên, những phầnnn rộng mênh mông lại có vẻ như bị trật đi”. Mụ cuộn quyển bí kíp lại rồi ném nó xuống sàn thuyền. “Ta bắt đầu nghĩ rằng có kẻ nào đó đã làm giả mạo nó. Nếu mi nhìn thật kỹ, ở một vài nơi có vẻ như những đường nét được kẻ thêm vào”.

Đường Lang hỏi, “Chúng ta nên làm gì đây?”.

Hổ Mang đáp, “Chúng ta sẽ tiếp tục theo nó thêm vài ngày nữa. Nếu chúng ta không thể tínhhh ra, thì chúng ta sẽ truy lùng mấy thằng tiểu tăng quậy đó rồi làm cho ra lẽ. Ta không để chúng biến mình thành trò cười đâu!”.

Chương 24

Hạc đứng trên bờ sông, giữa Bà Bà và Xà khi mặt trời từ từ chìm xuống sau những ngọn cây ở thượng nguồn. Xà nắm cánh tay phải của Hạc, cánh tay mà cô cảm thấy cảm kích lắm vì đã được chữa lành hoàn toàn. Cô có cảm giác cô sẽ cần đến cả hai cánh tay trong thời gian tới đây. Trên bãi, cạnh bên cô là một chiếc xuồng.

Hạc nhìn kỹ nó. Nó là một chiếc xuồng tương tự như chiếc mà Nông và Sâu đã dùng, chỉ có điều nhỏ hơn và trong tình trạng tốt hơn nhiều. Chiếc này vừa đủ lớn để chở hai người, cộng thêm một vài vật dụng khác mang theo. Chiếc xuồng chở một cái thúng lớn được phủ lại và một đống gì đó trông có vẻ như là quần áo. Hạc gãi cái đầu trọc rồi nhìn Bà Bà.

Hạc hỏi, “Ở đâu mà có chiếc xuồng này vậy?”.

Bà Bà đáp, “Nó là chiếc xuồng riêng của ta. Nó già gần bằng ta đấy, nhưng cháu có thể thấy nó còn tốt lắm. Ta lôi nó ra khỏi chỗ giấu trong lúc cháu tập cho Xà hồi sớm nay. Nó sẽ giúp cháu tốt đấy”.

Hạc lắc đầu, “Bọn cháu không thể lấy xuồng của bà đâu. Bọn cháu sẽ đi bộ”.

“Không, không”. Bà Bà nói, “Trong nhiều năm ta chưa dùng đến chiếc xuồng này. Ta giữ nó trong tình trạng tốt để dành cho một dịp như thế này. Ngoài ra, vào lúc này cháu sẽ làm ơn cho ta một việc. Nếu cháu lấy nó, thì ta sẽ không phải mất công bảo trì nó nữa. Ta đã quá già với thứ việc đó”.

Xà hắng giọng, “Chúng ta không thể đi bộ sao? Tôi thích sử dụng thử những món mình mới học được”.

Hạc khẽ cười và nhìn Bà Bà, “Xà không thích thuyền bè. Về phần mình, thì cháu thích và cháu nghĩ một chiếc xuồng là phương cách đi lại tốt nhất bởi vì cháu thích du hành xuôi theo dòng sông. Nhưng cháu chưa bao giờ lái thuyền cả. Nó có khó lắm không?”.

“Trời ạ, không khó đâu”.Bà Bà nói, “Chỉ phải khéo léo nếu cháu gặp con nước dữ. Tuy nhiên, ta không nghĩ là cháu sẽ gặp đâu. Sẽ dễ lắm, dòng nước rất đều. Tất cả những gì mà cháu phải làm là chống chiếc xuồng ra giữa con sông và để cho nó mang cháu đi xa tới đâu cháu thích đi - đi tuốt đến tận biển Hoàng Hải luôn, nếu cháu muốn”.

“Chỉ vậy thôi sao?” Hạc hỏi.

“Chỉ chừng vậy thôi. Thật khá dễ khi thời tiết êm ả như lúc này. Chiếc xuồng cũng còn có một cái bánh lái nhỏ ở sau đuôi để cháu bẻ lái. Nó không khó sử dụng đâu. Điều chính cần phải nhớ là khi cháu đẩy mạnh tay lái về hướng này, thì nó lái chiếc xuồng qua hướng ngược lại. Phải mất một lát để làm quen với việc này. Còn phần lớn thời gian thì cháu chỉ cần giữ nguyên nó ở một vị trí thôi. Càng xuống xuôi dòng thì con sông càng rộng ra, điều đó sẽ làm cho việc lái thuyền của cháu dễ hơn vì có rộng chỗ để lái tránh các chướng ngại vật. Có một số chỗ, con sông rộng hơn cả nửa dặm ”.

“Còn thuyền ghe khác thì sao?” Hạc hỏi.

“Quanh đây không có nhiều thuyền ghe nào khác để phải lo. Nhất là muộn như thế này trong ngày. Tế Nam có lượng giao thông đường thủy rất lớn, nhưng vào lúc cháu đến đó thì cháu đã đủ thành thạo để đi mà không quá khó khăn”.

Xà hỏi, “Bà có chắc là bọn cháu không nên đi bộ không? Rốt cuộc thì trời cũng tối om, phải không nào?”.

Hạc nhìn Bà Bà ngó lên bầu trời quang đãng. Bà Bà nói, “Sẽ có ánh trăng sáng để thấy rõ. Tốt hơn là cháu đi ngang qua làng vào ban đêm. Có thể có người nhận ra chiếc xuồng của ta và đuổi theo cháu. Họ có thể nghĩ là cháu ăn trộm nó”.

Hạc hỏi, “Quanh đây có nhiều kẻ trộm không? Ý cháu muốn hỏi là, bọn cháu có phải cảnh giác chúng không?”.

Bà Bà đáp, “Ta nghĩ, có thể có bọn cướp sông”.

Hạc tròn mắt, “Bọn cướp sông?”.

Bà Bà gật đầu, “Chúng là một thứ hiếm trong vùng này, dù sao chúng là một nỗi đe dọa. Tuy nhiên, bọn cháu không có món gì giá trị đáng kể, do đó cho dù có gặp phải vài tên đi nữa, thì chúng cũng không làm phiền các cháu lắm đâu”.

Hạc hỏi, “Chúng có dữ dằn lắm không”

Bà Bà đáp, “Chúng không đáng để đánh nhau, nếu đó là điều cháu muốn hỏi. Tốt nhất là cứ đưa cho chúng các thứ chúng muốn lấy, rồi đi. Bọn cướp sông đánh bẩn lắm và chúng có súng. Ta nghe đồn có một nhóm thỉnh thoảng hoạt động ngoài bến cảng thành Tế Nam, rất độc ác, chính quyền địa phương ngán chuyện ngăn cản chúng và để chúng cai quản cả cầu tàu. Tuy nhiên, ta có cảm giác cái bọn đó sẽ không quấy nhiễu các cháu”.

Hạc hỏi, “Còn cái thúng thì sao? Cái gì trong đó vậy?”.

Bà Bà đáp, “Chỉ vài thứ đồ dự phòng thôi. Có vài cái mũ rộng để che nắng. Nước sông phản ánh ánh nắng và khuếch đại lên. Các cháu có thể bị cháy nắng dễ dàng”.

“Ồ”. Hạc thốt lên. Cô không biết phải nói gì khác. Bà Bà quá tốt.

Bà Bà bước ngang qua Hạc, đến cạnh chiếc xuồng, “Cháu không hỏi ta về những thứ này nữa chứ?” Bà Bà hỏi trong lúc cúi xuống nhặt mớ áo quần lên. Hạc thấy đó là một chiếc áo dài lụa xanh nhạt và một chiếc khăn đội đầu cùng bộ, rất thanh nhã. Dưới mớ áo quần, vẫn ở trên sàn của chiếc xuồng nguyên vẹn, là con dao cạo lưỡi suôn của Bà Bà.

Bà Bà nhìn mớ áo quần trước, rồi đến lưỡi dao cạo. “Chọn một thứ đi”. Bà nói với Hạc.

Hạc hiểu ngay. Cô phải chọn hoặc là tiếp tục làm một đứa con trai hay lại cố làm một đứa con gái. Hạc ngó xuống chiếc áo xám cô đang mặc rồi vuốt cái đầu trọc. Cô thấy cái quyết định của mình đơn giản thật bất ngờ. Cô chỉ vào chiếc áo dài và khăn xếp.

Bà Bà mỉm cười rồi trao áo quần cho Hạc. “Chọn khôn ngoan lắm”. Bà nhặt lưỡi dao cạo lên. “Mặc dù giả làm một đứa con trai thì cháu có thể lẩn tránh bọn lính của hoàng đế tốt hơn, nhưng việc giấu đi bản thân mình cũng thiệt hại đấy. Giữ lấy chính con người mình và thám hiểm những tự do khác thì ta tin chắc rằng nó sẽ hay hơn. Tuy nhiên, ta đề nghị cháu luôn luôn đội chiếc khăn che đầu tóc nâu. Nên thận trọng. Theo ta được biết thì bọn lính của hoàng đế vẫn truy tìm cháu”.

Hạc gật đầu, rồi cúi thấp đầu, “Cháu không biết đến bao giờ mới có thể cám ơn bà hết được”.

“Dẹp cái trò ‘cám ơn’ nhảm nhí đó và đi thay đồ đi nào” Bà Bà nói, “Ta muốn nhìn cháu mặc cái áo đó!”.

Hạc chạy lên dốc đồi đến nhà của Bà Bà. Cô mặc chiếc áo dài và đội khăn lên, rồi chạy trở lại bờ sông với nụ cười rạng rỡ. Chiếc áo tay ngắn vừa vặn với cô hơn là cô nghĩ. Nó phủ lấy cô hoàn toàn nhưng vẫn dành khoảng rộng thoải mái để cử động tay chân. Chất lụa mát ve vuốt trên da thật tuyệt vời và cô biết nó trông thật đẹp với dáng người thanh mảnh của cô. Chiếc áo thật hoàn hảo.

Gương mặt của Bà Bà sáng lên khi Hạc đến. “Ôi, đẹp quá! Cháu chọn thật đúng rồi. Cháu sanh ra để làm con gái mà!”.

Hạc đỏ bừng mặt. Cô nhìn Xà thấy cậu đang trề môi. Cô ước gì Xà cũng có thể nhìn thấy cô lúc này.

Bà Bà búng tay, “Đừng trề môi, Xà. Đây là lúc vui vẻ. Hai đứa cháu tính sẽ đi đâu nào?”.

Xà không đáp.

Hạc quyết định trả lời thay cho cậu, “Bọn cháu không biết chắc. Cháu nghĩ đi xuôi dòng là có lý nhất bởi vì có thể vẫn còn bọn lính ở thượng nguồn Khai Phong đang truy lùng bọn cháu. Cháu chưa nghĩ được gì xa hơn chuyện đó”.

Bà Bà nói, “Ta hiểu. Ta có thể đề nghị một điều không?”.

Hạc nói, “Xin bà cứ nói”.

Bà Bà nói, “Vậy thì, nếu cháu không phiền. Ta thích xem tấm bản đồ của cháu một tí, Xà à. Ta thoáng nghe thấy cháu trò chuyện với Hạc về nó tuần trước và ta muốn xin được xem nó từ khi đó. Ta đã sống ở vùng này cả đời rồi. Có lẽ ta có thể hiểu nó chút nào chăng”.

Hạc lo rằng có thể Xà từ chối, nhưng cậu lại gật đầu rồi lấy quyển bí kíp từ trong thắt lưng ra. Hạc thấy con rắn trườn lên cánh tay rồi qua vai cậu.

“Đây này”. Xà nói, đưa tấm bản đồ ra.

Bà Bà đón lấy rồi mở ra, giơ tấm bản đồ lên ánh nắng đang nhạt dần như bà đã nghe rõ lời Xà bảo Hạc làm. Sau một lát, Bà Bà huýt gió.

Bà Bà nói, “Khôn ngoan lắm. Hạc, xem này. Các đường chính trong bản phác kinh tuyến khí là thay cho những con sông, trong khi những đường khác thay cho những dòng phụ lưu và, hẳn là, các mốc ranh giới. Thật là thiên tài”.

Hạc hỏi, “Có cái gì trong đó quen thuộc không?”.

“Có”. Bà Bà đáp, giọng hào hứng, “Có thấy cái tuyến đường chính chạy ngang qua ngực của hình nhân từ vai này qua vai kia không? Nó thay cho sông Hoàng Hà. Và có thấy con đường chính mà chạy lên và xuống hình nhân, chạy suốt từ đầu xuống chân không? Tôi tin rằng nó là con sông đào Đại Vận Hà”.

Xà hỏi, “Đại Vận Hà là cái gì?”.

Bà Bà nhướng mày, “Cháu chưa từng nghe đến Đại Vận Hà à?”.

Cả hai Hạc và Xà cùng lắc đầu.

Bà Bà nói, “Vì sao, nó rất có thể là cái kỳ công vĩ đại nhất xưa nay. Nó là một con sông đào kéo dài từ kinh đô Bắc Kinh ở miền bắc chạy suốt đến thành phố Hàng Châu ở miền nam. Nó hoàn toàn được đào bằng tay. Hầu hết các con sông của Trung Quốc chạy từ tây qua đông, do đó con sông đào này rất quan trọng cho việc vận chuyển hàng hóa Bắc-Nam. Nếu phải đoán, thì ta sẽ nói rằng cái đầu của hình nhân trong bản đồ của cháu thay cho kinh thành của hoàng đế ở Tử Cấm Thành bên trong Bắc Kinh, là điểm cực bắc của tấm bản đồ. Đôi chân thay cho cái gì đó xa xuống phía nam, nhưng ta không biết chắc là cái gì. Có thể là Hàng Châu, hay một nơi nào đó thậm chí xa hơn về phía nam như là Quảng Đông. Ta chưa từng đi xa xuống Đại Vận Hà. Ta rất tiếc không giúp được gì nhiều”.

Hạc nói, “Xin đừng buồn. Bà đã giúp nhiều lắm rồi”.

“Đúng vậy”. Xà nói, “Bọn cháu sẽ chẳng bao giờ nghĩ ra được điều đó. Hay ít ra là cháu sẽ không nghĩ được. Nhất là trong tình trạng của cháu”.

Bà Bà đặt tay lên vai Xà, “Cháu đang làm tuyệt lắm, Xà à. Cháu nên vui với sự tiến bộ của mình. Ta không muốn các cháu lên đường trong tâm trạng không vui, đồng ý không?”.

Xà gật đầu.

Bà Bà nói, “Tốt lắm. Cháu có tình cờ biết tấm bản đồ này được cho là dẫn đến cái gì không? Ví dụ, một ngôi đền bí mật chẳng hạn?”.

Hạc đáp, “Bọn cháu không biết. Nhưng có vẻ như nó rất có giá trị. Xà mù vì...” Hạc dừng lời nửa chừng.

Xà hắng giọng, “Không sao đâu Hạc. Tôi sẽ kể cho bà nghe”.

Cậu quay lại hướng mơ hồ của Bà Bà, “Tôi bị trúng độc vì Hổ Mang muốn tấm bản đồ gốc. Mụ lấy nó từ tôi, nhưng nó sẽ không mang lại điều gì hay ho cho mụ. Tôi đã tráo nó rồi”.

Hạc hỏi, “Em, làm cái gì? Em chưa nói với chị là em tráo nó!”.

Một nụ cười nham hiểm hiện ra ở một bên mặt của Xà, “Xin lỗi. Tôi nghĩ là mình quên nhắc đến điều đó. Tôi đã thận trọng vẽ nhiều đường mới nối liền những tuyến đứt rời trên tấm bản đồ gốc. Tôi cũng vạch lên tất cả những đường khác trên quyển bí kíp rồng bằng mực mới cho đến nỗi mực sẽ hợp với mọi nơi”.

“Bí kíp rồng à?” Bà Bà nói, “Cháu cho rằng đây là một bản sao của một bản đồ trong quyển bí kíp rồng?”.

Xà gật đầu, “Đúng vậy, sao thế?”.

“À, đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng có lẽ nó đáng để chia sẻ với nhau”. Bà Bà nói, “Có lần Ngô Công kể với ta một câu chuyện về một quyển bí kíp rồng bí mật được Đại Sư của các cháu mang về Ẩn Chân. Được người ta cho là nó dẫn đến một kho báu. Ngô Công nghĩ rằng có thể nó có một số sự thật bởi vì Đại Sư của các cháu là hậu duệ của một dòng dõi cận vệ. Gia tộc của ông ấy đã bảo vệ các gia đình giàu có trong rất nhiều thế hệ rồi”.

Xà nói, “Bà biết đó, Đại Sư liên tục làm những chuyện bí mật và luôn luôn có vẻ như có rất nhiều tiền. Cháu không ngạc nhiên chút nào nếu ông ấy có một núi châu báu được giấu ở đâu đó”.

“Chuyện này thật là hào hứng”. Bà Bà nói, “Vậy hãy cho ta biết, hai cháu đi lên con sông đào đến Tử Cấm Thành hay đi xuống các miền phía nam vậy?”.

Hạc ngưng lại, ngó Xà, “Bọn cháu không biết. Cháu muốn cố tìm các em Hổ và Hầu trước khi đi tìm kho báu”.

Bà Bà hỏi, “Cháu có biết họ đã đi đâu không?”.

Hạc đáp, “Thưa không. Chúng bị bắt đi”.

“Bị bắt à?” Bà Bà hỏi, làm rõ sự việc, “Sao cháu chưa từng cho ta biết chuyện này?”.

“Cháu... Cháu nghĩ rằng bà không thể giúp gì trong chuyện này”. Hạc lắp bắp, “Cháu nghĩ lẽ ra cháu nên biết rõ hơn”.

Bà Bà hít một hơi thật sâu rồi thở dài. “Không, chắc cháu đúng. Giờ thì không có gì phải bực dọc về chuyện đó. Ta không thể làm gì được nhiều ngoại trừ bảo Ngô Công loan truyền qua hệ thống của hắn để trông chừng chúng. Tuy nhiên, ta chưa gặp Ngô Công từ khi các cháu đến đây, do đó nó không quan trọng. Ta hứa chắc sẽ nói với hắn khi gặp. Cháu có tình cờ biết được ai bắt các em cháu không?”.

Hạc nói, “Hổ bị một kẻ tên là Hà Mô bắt”.

Bà Bà nói, “Ta có nghe cái tên này. Hắn không phải là kẻ tử tế”.

Hạc nhớ lại cái ngày mưa trên con sông, “Cháu nghe hắn nói gì đó với Hổ”. Cô nói với Bà Bà, “Hà Mô nói, ‘Ta thích lòng dũng cảm của mi, thằng nhóc. Quên bà chị của mi đi nhé, ta mang mi đến cho Lão Thử thay vì nó...” Hạc thở dài, “Tuy nhiên, cháu không hiểu hắn muốn nói gì”.

“Ta có thể hiểu”. Bà Bà nói, “Hãy đừng nghĩ về những gì ta nói trước đây có liên quan đến bọn cướp sông. Ta đề nghị các cháu đi về thành Tề Nam - thành phố mùa xuân. Nó là cái thành phố lớn kế tiếp hạ nguồn, chỉ cách đây một ngày đường. Hãy tìm một nơi có tên là Đấu Trường Tề Nam”.

Hạc hỏi, “Nó là cái gì?”.

Bà Bà đáp, “Nó đúng y như cái tên của nó. Là một nơi người ta đánh nhau và người xem đánh cá kết quả. Nhiều tay mất mạng với cái trò máu me này một cách ngu xuẩn. Nó là một nơi xấu xa ở ngay chính trung tâm của cái phần văn minh nhất của thành phố”.

Hạc hỏi, “Nó có khó tìm không?”.

“Không”. Bà Bà đáp, “Nhưng khó mà vào được. Đám đông gồm có hầu hết các quan chức quyền thế. Tề Nam là thủ đô của tỉnh kế bên - Sơn Đông. Ta ước gì có thể giúp các cháu một điều gì đó”.

Hạc lắc đầu, “Bà thật sự đã giúp bọn cháu nhiều lắm rồi”.

“Đúng vậy đó”. Xà nói, “Bọn cháu chẳng thể nào cám ơn bà hết được”.

Bà Bà thở dài, “Hãy chăm sóc lẫn nhau như trước đây. Đó là đủ cám ơn ta rồi. Giờ thì hai cháu hãy lên đường đi”. Bà lại ngó lên trời, “Các cháu có thể đi càng lâu như ý muốn nhờ ánh trăng. Nếu các cháu đi mà không ngủ, thì chắc chắn các cháu đến Tề Nam vào rạng đông. Đó có thể là tốt nhất. Các cháu càng ở trên sông suốt cả ngày, thì khả năng ai đó trông thấy và nhận ra các cháu càng lớn”.

Hạc nói, “Cháu hiểu”.

Xà nói, “Cháu cũng hiểu”.

“Vậy thì không còn gì để nói nữa”. Bà Bà nói rồi bước vào giữa Hạc và Xà choàng tay quanh chúng, cùng lúc ôm chúng, “Ta mong có ngày gặp lại cả hai cháu”.

“Bà sẽ gặp mà”. Hạc nói, lấy tay lau mắt, “Cháu sẽ làm chuyện đó”.

“Cháu nữa”. Xà nói vào với một tiếng khịt mũi rất nhẹ.

Bà Bà lau mắt mình, rồi giúp Hạc đưa Xà lên chiếc xuồng. Hạc và Bà Bà đẩy chiếc xuồng ra giữa sông, rồi Hạc nhảy lên. Cô quay lại Bà Bà và gật đầu một cái. Bà Bà gật đầu chào lại, rồi quay đi lên đồi về hướng nhà bà.

Hạc lau mắt lần nữa. Cô nhớ Bà Bà ghê gớm.

Hạc nắm cây sào chống dài thoòng và nhanh chóng nhắm hướng vào giữa dòng sông. Cô cũng nhớ các cậu em của mình.