Bút ký 3.5 CHUYẾN ĐI CUỐI CÙNG
Bên bến cảng, một cái phà to như một tòa nhà màu trắng sừng sững đã đậu sẵn.
Phía trước nó là một cái miệng rộng hoác, Satoru nói với tôi là từ cái miệng này, đoàn xe hơi sẽ nối đuôi nhau chui vào bụng thuyền.
Con người đúng là tài giỏi, tạo ra được những thứ khổng lồ có thể nuốt cả xe hơi cơ đấy!
Chưa kể tôi thật lòng muốn biết ai là người đầu tiên nghĩ ra cách sáng chế cái thứ bằng thép khổng lồ nặng nề là thế mà lại có thể nổi trên mặt nước! Thật không biết trong đầu người đó có chứa gì nữa. Vật nặng vào nước thì phải chìm, đó là quy tắc của tự nhiên rồi, ngoài loài người ra chẳng có động vật nào dám làm trái với quy tắc đó cả, con người đúng là một động vật khác thường.
Mua vé xong, khi quay lại xe, chẳng hiểu sao trông mặt Satoru đỏ dừ.
“Giời ạ, chán quá đi mất! Họ bảo Nana không được ngồi cùng tao mới điên chứ.”
Hóa ra khi đi mua vé, Satoru đã ghi tên tôi vào chỗ “khách đồng hành”.
Khi biết “quý khách” có tên Miyawaki Nana (sáu tuổi) hóa ra lại là một con mèo, người bán vé đã cười áy náy rồi từ chối, khiến Satoru bình thường vốn hiền lành cũng phải nổi đóa lên.
“Thôi kệ, lên phà nào!”
Chiếc xe màu xám bạc nhanh chóng tham gia vào hàng xe hơi nối đuôi nhau tiến vào miệng con quái vật màu trắng vĩ đại. Này... sau khi nuốt vào bằng hết chỗ xe này mà thuyền vẫn có thể nổi được sao?
“Nana... sao lại xù đuôi lên thế?”
Ờ thì là vì... đây nói là giả sử, giả sử thôi nhé, nhỡ như cái thuyền này chìm ngay giữa đại dương mênh mông kia thì làm sao chúng ta thoát được bây giờ? Tại vì tôi... anh biết rồi đấy...
Tôi nhớ đến cảnh biển gần nhà của Yoshimine. Chỉ cần nghĩ đến viễn cảnh bị chôn vùi giữa tầng tầng sóng bạc và tiếng ầm ì không dứt của lòng biển thôi, tôi đã đủ dựng lông gáy lên rồi. Loài mèo vốn không giỏi bơi lội, bản năng lại rất sợ nước (cũng có một vài con khác biệt khá thích trò tắm táp nhưng chúng có thể coi là “lập dị” trong thế giới chúng tôi).
Nếu bắt Satoru đội tôi lên đầu rồi bơi vào bờ xem chừng cũng khó...
Trong lúc tôi còn mải lo lắng thì chiếc xe xám bạc đã an toàn đậu trong lòng thuyền, vai trái Satoru khoác túi du lịch, tay phải xách cái lồng có chứa tôi bên trong, bước chân hơi lảo đảo xem chừng rất nặng nhọc. Chỉ mới ít tuần trước trọng lượng này với anh hãy còn rất nhẹ nhàng cơ mà...
Này, hay để tôi xuống tự đi bộ cũng được?
Nghĩ thế, tôi bèn đưa móng ra sức cào vào thành lồng chỗ lỗ khóa, nhưng Satoru đã vội kêu lên, “Không được, không được đâu” và hơi dốc phần cửa lồng lên cao, khiến tôi ở trong lồng mất thăng bằng ngã nhào, mông húc vào vách lồng đau điếng.
“Trong đây cấm động vật chạy nhảy lung tung, nên mày chịu khó chút nhé.”
Nói “động vật” chung chung thì tức là bao gồm luôn cả lũ chó phải không nào? Thế còn được, ít ra còn chút công bằng, chứ tôi đã nhìn thấy nhiều khách sạn rõ ràng ghi là “cho phép thú cưng” nhưng chỉ mở cửa với lũ chó thôi, còn mèo thì cấm tiệt, lấy lý do là vì sợ mèo cào hỏng các vật dụng trong phòng. Nhưng tôi thiết nghĩ, nếu chủ mèo đồng ý trả thêm chi phí tu sửa cao hơn chút ít thì cũng nên cho phép họ vào chứ? Vả lại trên thực tế, mèo chỉ thích cào móng ở những không gian quen thuộc khiến chúng yên tâm thôi, đến những nơi xa lạ như nhà trọ hay khách sạn thì chúng chẳng có mấy hứng thú đi cào thứ này thứ kia đâu. Chưa kể, con người ghét nhất là mùi hôi của thú nuôi, nhưng xét phương diện này, chó luôn luôn nặng mùi hơn mèo kia mà? Nếu phân tích đến đây thì có thể nói khuynh hướng “chấp nhận chó, từ chối mèo” đơn thuần chỉ là một dạng phân biệt đối xử không hơn không kém. Tôi chẳng thà chấp nhận việc cả chó lẫn mèo đều bị từ chối như nhau còn hơn. Cái phà này là một nơi công bằng đấy.
Satoru đưa tôi đến khoang dành riêng cho vật nuôi. Đây là một nơi tập trung tất cả số thú cưng mà khách đi tàu mang theo. Căn phòng trông có vẻ đơn điệu nhưng sạch sẽ, với hàng dãy lồng dành cho thú nuôi xếp ngay hàng thẳng lối cao gần đụng nóc. Hôm nay khách mang theo thú cưng có vẻ nhiều, mười dãy lồng gần như đầy “khách”. Cùng họ nhà mèo chỉ có một con giống Chinchilla màu trắng muốt, còn lại đều là chó đủ loại, từ nhỏ đến to.
“Bạn này tên là Nana, các bạn hãy thân thiện với nhau cho tới khi xuống bến nhé!”
Satoru dừng lại chào những con thú nuôi đến trước rồi đưa tôi đến một cái lồng còn trống.
“Thấy ổn không Nana? Không cảm thấy cô đơn chứ?”
Giữa một biển chó mèo thì còn cảm thấy cô đơn vào đâu được? Ngược lại lúc này tôi chỉ muốn có một chỗ nào đó yên tĩnh thôi, còn hơn phải nghe lũ chó lao nhao mải mê bình luận xung quanh mình, lại một con mèo nữa kìa, giống lai tạp nữa chứ. Xin lỗi vì đây tạp chủng, nhá!
“Xin lỗi Nana, tao cũng ước gì có thể lái xe thẳng tới chỗ đó.”
Đã bảo là không cần phải áy náy rồi cơ mà! Chỉ một ngày thôi, tôi hãy còn chịu được. Trông tôi thế này thôi chứ sức chịu đựng cũng cao lắm đấy!
Chuyến đi xem chừng hãy còn rất dài. Với lại dạo này Satoru càng ngày càng yếu nên lúc nào không phải tự lái xe thì tốt lúc đó.
“Tao sẽ cố gắng tới thăm mày thường xuyên, nên cố chịu đựng, đừng buồn bực nhé Nana!”
Trước mặt người ngoài làm ơn đừng sến súa thế có được không? Không thấy rợn da gà à?
“Chào mày, cùng là họ nhà mèo với nhau nên nhờ mày thân thiết với Nana nhà tao với nhé!”
Satoru vẫy tay chào con mèo Chinchilla màu trắng ở ngay dưới lồng của tôi. Tôi không thể nhìn rõ bộ dạng của con mèo đó vì đã yên vị trong lồng của mình, nhưng khi vừa vào phòng, tôi nhớ nó đang cuộn tròn nằm sâu bên trong.
“Bé mèo này trông cũng buồn buồn thế nào ấy, hay là tại hôm nay toàn là chó nên cảm thấy sợ rồi?”
Đáng tiếc, đoán trật lất rồi. Con mèo Chinchilla đó tuy cuộn mình lại thật, nhưng cái đuôi xù trắng muốt không ngừng ve vẩy và dáng điệu hoàn toàn thờ ơ với hàng loạt tiếng sủa lao nhao của lũ chó xung quanh cho thấy nó còn ung dung tự tại hơn cả tôi nữa kìa.
“Gặp lại sau nhé, Nana.”
Satoru xách hành lý lên, từ từ bước ra khỏi căn phòng dành cho thú nuôi.
Ngay lập tức, căn phòng như muốn nổ tung bởi những tiếng sủa oăng oẳng hỏi thăm không dứt.
Na... na, cậu từ đâu tới thế?
Cậu sắp đi đâu?
Chủ nhân là người thế nào đấy?
... Tôi có thể hiểu cảm giác của con mèo Chinchilla đang cuộn tròn bên dưới, và lập tức bắt chước thái độ phớt đời lạnh lùng của nó.
Vì xung quanh ồn ào quá thể nên tôi quyết định nằm cuộn tròn, rúc sâu vào giữa lồng giả vờ ngủ, nhưng rõ ràng Satoru không dễ dàng bỏ cuộc.
“Xin lỗi nhé Nana, mày buồn lẳm phải không.”
Satoru “lại” tới nữa, hay nói cho đúng là anh đến tìm tôi hơi nhiều so với mức bình thường. Đã bảo đây không sao, không cần đến thăm thường xuyên thế đâu mà... Anh “nhiệt tình” hơn hẳn những chủ nhân khác nên chẳng mấy chốc tôi đã bị lũ chó trong phòng trêu chọc tới tấp, bảo rằng tôi có một chủ nhân “gà mẹ” quá độ. Mỗi lần Satoru vừa đi, chúng lại lao nhao cười phá lên và đồng thanh hú to, Gà mẹ! Gà mẹ!
Câm miệng, chúng bay phiền toái quá đấy! Tôi gầm lên, rồi lại cuộn mình sâu trong lồng. Bỗng nhiên...
Chúng mày đúng là ấu trĩ, cứ phải lao nhao lên như một đám con nít!
Con mèo Chinchilla cố tình cao giọng cho cả phòng cùng nghe.
Chúng mày không thấy anh chủ của nó mới là người cô đơn vì không có nó bên cạnh hay sao hả?
Trông bộ lông dài mượt mà, cao sang là thế mà độc miệng ra phết! Lũ chó cũng cảm thấy khó chịu, vội vàng ồn ào trả đũa. Hả, nói thế là sao! Vớ vẩn! Vì sợ con Nana buồn nên anh chủ mới đến đấy chứ!
Mang tiếng là chó mà mũi chúng mày điếc hết cả rồi chắc. Không thấy trên người anh chủ nhà nó có cái mùi đấy à... cái mùi mang nghĩa “không còn bao lâu nữa” ấy... Rõ ràng anh ta chỉ muốn ở bên con mèo cưng của mình càng nhiều càng tốt.
Lũ chó thoáng chốc im bặt. Nhưng chỉ được một chốc, sau đó chúng lại nhao lên, Tội nghiệp, tội nghiệp quá! không dứt. Tôi đoán chúng thuộc loại không thể ở yên lấy một phút, nhưng thôi mặc kệ, chúng đều là những con chó tuổi còn nhỏ nên chưa biết suy nghĩ.
Này, cảm ơn nhá.
Tôi hướng giọng về phía cái chuồng bên dưới, con mèo Chinchilla lập tức đáp lại bằng một giọng đều đều vô cảm, chỉ tại tao cảm thấy chúng quá ồn ào thôi.
Khi Satoru lại xuất hiện lần nữa, toàn bộ lũ chó trong phòng lập tức đứng bật dậy vẫy đuôi chào anh ta rối rít. Satoru bật cười sảng khoái, “Ơ, sao các bạn chào đón tao thắm thiết thế này!” và thò tay qua chấn song vuốt ve đầu vài con. Tuy suy nghĩ chưa ra ngô ra khoai gì thật, nhưng chúng quả thật là những con chó tốt tính.
Từ lúc đó, hai con mèo chúng tôi nghiễm nhiên được công nhận là một phần của “quần thể” trong phòng, cứ thế vừa thỉnh thoảng trò chuyện với lũ chó vài câu vừa im lặng chờ chuyến đi nhàm chán kết thúc, tuy vậy phần lớn thời gian chúng toàn hăng hái bàn luận về vấn đề đồ ăn cho chó hiệu gì là ngon nhất, nên hai kẻ không liên quan chúng tôi có cảm giác rất “ông nói gà bà nói vịt”.
Cứ thế đến trưa ngày hôm sau thì phà cập bến. Satoru là chủ nhân đầu tiên đến phòng thú nuôi đón tôi.
“Xin lỗi Nana, mày cô đơn lắm phải không?”
Không hề không hề, tôi chẳng thấy buồn bã chút nào. Con mèo Chinchilla tuy độc miệng nhưng nói chuyện rất thú vị. Giá như có thể chào nó một tiếng trước khi đi nhỉ... tôi vừa nghĩ vậy thì Satoru đã hướng cái lồng của tôi về phía phần còn lại của căn phòng,
“Nào Nana, chào tạm biệt các bạn đi chứ.”
Tao đi trước nhé, tôi chào cả phòng, lũ chó nhanh nhảu vẫy đuôi đáp lại.
Good luck.
Đó là câu chào gọn lỏn của con mèo Chinchilla. Gút...? Gút gì cơ?
Ý là chúc hai thầy trò may mắn ấy mà. Chủ của tao hay dùng câu ấy lắm.
Nhắc mới nhớ, chủ nhân của nó, một người đàn ông mắt xanh biếc cùng cô vợ người Nhật của mình có ghé qua phòng thăm nó. Hình như vốn tiếng người của con mèo Chinchilla chủ yếu vẫn là tiếng Nhật, nhưng nó vẫn có thể hiểu đa số những lời chủ nhân nói.
Cảm ơn, cũng chúc đằng ấy good luck.
Và thế là hai chúng tôi lặng lẽ rời khỏi căn phòng dành cho thú nuôi, quay trở về chiếc xe đa dụng màu xám bạc.
Xuống khỏi phà, bầu trời trong xanh vời vợi trải rộng trước mắt chúng tôi như chào đón.
“Chà, cuối cùng cũng đến được Hokkaido rồi Nana ơi.”
Quả là một miền đất rộng rãi khoáng đạt, cảnh sắc bên ngoài cửa sổ tuy chủ yếu vẫn là nhà cửa nối tiếp nhau tấp nập đông vui nhưng vẫn còn rất nhiều không gian trống điểm xuyết khắp nơi. Có cảm giác như mặt đường còn rộng gấp mấy lần khu vực quanh Tokyo.
Chạy được một lúc thì cảnh sắc bên ngoài dần dần chuyển sang vùng ngoại ô. Cảm giác thênh thang, choáng ngợp trước mắt làm người ta thấy thật sảng khoái, trên đường chẳng có mấy xe cộ qua lại khiến việc lái xe cũng trở nên thong dong vui thích.
Bản nhạc bắt đầu cho chuyến đi hôm nay cũng lại là ca khúc nghe tựa như chim bồ câu sắp bay ra khỏi chiếc nón ảo thuật.
Ven đường, từng chùm hoa dại vàng rực và tím sẫm đua nở, xem ra không bị bàn tay con người khống chế nên chúng thoải mái khoe sắc, không phải là từng vạt thưa thớt mà là cả một cánh đồng bạt ngàn. Đường phố Hokkaido tuy còn hơi trống trải nhưng bù lại hoa cỏ xanh tốt tươi tắn. Khác xa so với những con đường được trải nhựa hay bê tông ở Tokyo, nơi đây dù là khu vực trung tâm đi nữa, hai bên vệ đường vẫn giữ nguyên màu đất mộc mạc, có lẽ chính nhờ thế mà hơi đất ngai ngái xông lên, khiến cảnh vật cũng như nhuốm một màu yên ả.
“Loài hoa màu vàng thì tao biết là hoa hoàng anh, nhưng không biết loại màu tím tên gì ấy nhỉ?”
Satoru có vẻ thích cánh đồng hoa rồi. Cũng phải, màu tím và màu vàng chen nhau dệt nên một tấm thảm rực rỡ bắt mắt thế kia cơ mà. Chỉ riêng một màu tím đã có cơ man nào là sắc độ, hết đậm lại nhạt, chấm phá lung linh.
“Chúng ta ngừng lại một lúc nhé.”
Satoru dừng xe lại ở phần vệ đường mở rộng thoai thoải thành một bãi đỗ lý tưởng, rồi ôm tôi vào lòng, mở cửa xuống xe. Để tránh những chiếc xe thỉnh thoảng chạy vụt qua, anh quyết định không thả tôi xuống đất tự đi mà cứ thế bế qua đường, tiến về phía những khóm hoa màu tím.
“Hình như là cúc dại... cứ tưởng là một loài hoa nào cao sang hơn cơ...”
Những bông hoa cúc tím li ti đính thành từng chùm nở xòe ra như đầu chổi, thoạt nhìn không có vẻ gì là cao sang hay hiếm quý, nhưng ngược lại càng trông càng có sức sống.
A!
Vừa nhìn thấy, tôi đã theo phản xạ thò chân trước ra với lấy. Có mấy con ong mật đang bay la đà giữa những khóm hoa.
“Không được, Nana. Nhỡ bị đốt thì khổ đấy!”
Nhưng đó đã là bản năng của tôi rồi. Tôi nóng nảy ngọ nguậy không ngừng, hai chân trước quơ quào vào khoảng không muốn bắt lấy con ong, thấy thế Satoru vội vàng kéo hai chân tôi về xếp lại trước ngực, sau đó ôm ghì lấy.
Hừ, rõ ràng đuổi theo lũ côn trùng biết bay sẽ vui bao nhiêu! Buông ra nào... Tôi cố giãy giụa lần nữa nhưng Satoru đã ôm chặt lấy tôi mà quay lại xe hơi.
“Nếu chỉ bắt cho vui thì không nói làm gì, nhưng Nana có cái tật bắt được con gì là bỏ ngay vào miệng con đấy, lỡ như bị nọc ong chích vào khoang miệng thì khổ lắm.”
Thì thế mới gọi là săn mồi chứ! Hồi còn ở Tokyo, tôi cũng giết lũ gián lâu lâu bò ra bằng cách cắn chết ấy thôi. Cái lớp cánh bọc ngoài cứng như vỏ cây đúng là chẳng ngon lành gì, nhưng phần thân bên trong thì mềm xốp rất thích miệng.
Chỉ có điều mỗi lần nhìn thấy mẩu xương xẩu còn thừa lại sau khi tôi “xử lí” xong con gián nào đó là Satoru lại kêu trời vẻ rất khổ sở. Chẳng hiểu sao con người lại ghét loài gián đến thế, trong khi lại chẳng tỏ thái độ gì trước mấy loài anh em có cấu tạo khá giống gián như bọ cánh cứng đầu sừng và bọ cánh cứng Nhật Bản. Tiêu chuẩn yêu thích của loài mèo chúng tôi đơn giản hơn nhiều, chỉ cần chạy nhanh và khó bắt là được.
Xe chầm chậm men theo lối đi dọc bờ sông, cuối cùng rẽ ra một con đường sát bờ biển.
... Oa...
“Oa...”
Cả hai chúng tôi không hẹn mà cùng kinh ngạc thốt lên.
“Y như biển thật còn gì...”
Hai bên đường là một thảm lau trắng trải dài. Cả cánh đồng trắng muốt, rộng ngút ngát như lan tới tận chân trời khiến toàn bộ thế giới trước mắt như chìm ngập trong màu lau trắng ngần, thuần khiết. Hễ có làn gió thổi qua, cả biển lau lại dập dờn dợn sóng, những con sóng lăn tăn kéo dài tới vô tận.
Dù mới dừng xe trước đó mấy phút, nhưng Satoru vẫn quyết định ngừng lại lần nữa. May mà đoạn đường này khá vắng vẻ, không có mấy xe cộ nên có đỗ ngay bên vệ đường cũng chẳng sao.
Để cho an toàn, dù không có xe qua lại nhưng Satoru vân ôm cứng tôi trên tay trong khi lò dò xuống xe từ bên phía cửa ghế phụ lái, chắc vì sợ tôi sẽ bất thần phóng vọt xuống lao thẳng ra đường. Đúng là gà mẹ quá thể, nhưng thôi, để anh không phí công lo lắng, tôi sẽ chịu đựng nằm im một lúc vậy. Hai bàn tay Satoru rất rộng, nằm trong vòng tay anh, tôi cảm giác hết sức yên tâm.
Nhưng giá có thể ngắm cảnh đẹp này từ nơi nào cao hơn một chút nhỉ. Tôi lặng lẽ chuồi ra khỏi vòng tay Satoru, từ lồng ngực leo lên vai anh, duỗi mình mở to mắt chăm chú ngắm nhìn xung quanh. Tầm mắt của chúng tôi lúc này có lẽ ngang nhau.
Tiếng gió thổi xào xạc. Những cọng hoa lau mềm mại uốn mình. Từng gợn sóng trải dài, lan rộng đến hút mắt.
Satoru nói đúng, khung cảnh này trông giống hệt mặt biển giữa đất liền, một mặt biển không ì ầm đáng sợ như biển thật, nên có lẽ tôi thích biển này hơn... Một mặt biển mà ngay cả tôi cũng có thể ngụp lặn thoải mái trong đó.
Không nói không rằng, tôi nhảy phóc xuống đất, rồi lẩn ngay vào giữa biển hoa lau.
Quang cảnh lập tức thay đổi. Trước mắt lúc này ngập đầy màu xanh của những cái cuống mảnh mai vươn dài, và khi ngẩng đầu lên, tôi có cảm giác như bản thân bị chôn vùi dưới đáy một đại dương trắng tinh dập dờn sóng bạc. Và cao hơn nữa, là màu xanh thăm thẳm của bầu trời.
Giọng nói đầy lo lắng của Satoru đuổi theo sau lưng.
“Nana ơi, Nana đâu rồi?”
Xa xa vang lên tiếng chân giẫm lên cỏ khô lách tách, có vẻ Satoru cũng đã băng mình vào biển lau. Đây, ở ngay đây này, tôi ở ngay bên cạnh Satoru này!
Nhưng những tiếng gọi của Satoru lại càng lúc càng xa, ôi ôi, hình như chỉ có tôi nhìn thấy Satoru, còn anh hoàn toàn không nhìn thấy tôi thì phải. Có lẽ biển lau trắng dày đặc xung quanh đã che khuất tôi mất rồi.
Thật hết cách, để Satoru không bị lạc thì tôi đành theo sau anh vậy.
“Nana!”
Vâng vâng, tôi ở ngay đây này! Tôi cố gắng meo meo đáp lại, nhưng tiếng gió ù ù đã lấn át tiếng mèo kêu yếu ớt.
“Nana ơi!”
Tiếng gọi của Satoru đã bắt đầu nhuốm màu thảm thiết.
“Nana! Nana! Nana đâu rồi!”
Và khi tiếng gọi của anh bắt đầu trôi ra xa thì tôi không thể chịu nổi nữa, đành dùng hết sức bình sinh kêu thật to.
Đang ở đây cơ mà!
Lần này, khi ngẩng đầu lên từ giữa những gốc lau, tôi đã thấy Satoru đứng đó, gương mặt ngược nắng của anh đang cúi xuống nhìn tôi. Khi bốn mắt chạm nhau, gương mặt Satoru lập tức giãn ra nhẹ nhõm... ánh mắt anh dịu hẳn đi. Những giọt lệ trượt dài hai bên má lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Không nói một lời, Satoru lẳng lặng khom người ngồi xuống, hai đầu gối chống xuống nền đất ẩm ướt, và nhanh như chớp, anh ghì chặt tôi vào lòng. Ôi chà... hơi đau đấy nhé, nội tạng của tôi muốn lao ra ngoài đây.
“Ngốc! Mày mà bị lạc trong này thì tao làm sao mà tìm được.”
Trong tiếng gào lạc giọng của Satoru còn nghẹn ngào cả tiếng khóc.
“Mày nhỏ bé như vậy... so ra chỗ này khác nào mê cung chứ.”
Lúc ở núi Phú Sĩ, Satoru đã cho tôi biết mê cung có nghĩa là gì. Đó là một nơi nếu không có la bàn thì không thể phân biệt được phương hướng.
Anh mới ngốc ấy, tôi có bao giờ cách xa anh đến mức để bị lạc nhau đâu...
“Đừng bao giờ bỏ tao lại một mình! Lúc nào Nana cũng phải ở bên cạnh tao đấy nhé...”
A a... cuối cùng cũng có ngày này.
Cuối cùng anh cũng chịu nói thật lòng mình rồi đấy.
Tôi biết, tôi vẫn biết Satoru luôn cần có tôi ở bên.
Dẫu cho anh đã cố gắng bao nhiêu để rời xa tôi bằng cách tìm hết chủ nhân này đến chủ nhân khác phù hợp với Nana này, nhưng tôi biết rõ, mỗi lần tìm chủ thất bại, anh mới chính là người cảm thấy nhẹ nhõm nhất khi lại được mang tôi về.
Thấy anh ngoài mặt thì tỏ vẻ tiếc nuối cho người chủ hụt và cho cuộc gặp gỡ không thành, nhưng chỉ cần vừa leo lên xe là lập tức tươi cười khúc khích hồn nhiên như một đứa trẻ; làm sao tôi có thể đành lòng nghĩ đến chuyện bỏ anh lại mà đi đâu được?
Tôi tuyệt đối, chắc chắn, nhất định, sẽ không bao giờ bỏ Satoru lại.
Tôi dịu dàng thè lưỡi liếm bàn tay run run của Satoru, lắng nghe tiếng khóc như xé gan xé ruột của anh.
Không sao đâu, không sao đâu, không sao hết... Satoru lúc này hẳn lại bị bủa vây bởi cảm giác ám ảnh từ ngày còn nhỏ, khi bị buộc phải chia tay Hachi mà anh vô cùng yêu quý. Bị chia cắt với đứa trẻ mình trông coi quấn quýt từ ngày còn thơ, Hachi khi ấy chắc chắn cũng đã đau lòng biết bao nhiêu. Chỉ tiếc cả đứa trẻ và con mèo ngày ấy đều bất lực, không thể làm được gì.
Nhưng Satoru giờ không còn là trẻ con nữa. Và tôi lại vốn là mèo hoang. Lần này, chúng tôi nhất định có thể tìm được cách biến mơ ước của cả hai thành hiện thực.
Nào, đi thôi. Đây là hành trình cuối cùng của chúng ta.
Trong chuyến đi sau cuối này, hãy cùng nhau ngắm nhìn thật nhiều cảnh sắc diễm lệ, sau đó hãy cùng đánh cuộc xem, cho đến cuối con đường chúng ta còn gặp được bao nhiêu điều kì thú nữa?
Cái đuôi cong cong như hình số bảy này của tôi nhất định sẽ kéo về cho anh thật nhiều, thật nhiều điều thú vị, anh cứ chờ mà xem.
Khi chúng tôi quay về xe chuẩn bị lên đường, đĩa CD chứa bài hát nghe như tiếng bồ câu chuẩn bị cất cánh cũng đã phát đến những bài cuối, chất giọng trầm khàn êm ái của nữ ca sĩ vấn vít trong không gian, bài ca được hát bằng thứ ngôn ngữ xa lạ mà mê hồn, với làn điệu cũng mê hồn không kém.
Bài hát nghe như tiếng bồ câu cất cánh hình như là bài hát mẹ Satoru thích nhất, còn đây, chính là bài hát yêu thích của cha anh.
...
Cả con đường dằng dặc như dệt nên từ những thảm hoa vàng rực và tím sẫm.
Chiếc xe cứ thế mải miết lao về phía trước... đã bao lâu kể từ lần cuối cùng chúng tôi dừng lại trước đèn đỏ? Họa hoằn lắm một ngã tư có đèn giao thông mới bất thần xuất hiện như thể nhắc chúng tôi nhớ mình vẫn còn đang trong đô thị của con người, nhưng kể từ khi ra đến khu ngoại ô, dấu vết này cũng mất hẳn. Sự thưa thớt của những cây cột đèn cho phép chiếc xe tăng tốc tối đa.
Tách khỏi khu vực duyên hải, chúng tôi đi sâu vào đất liền. Hai bên đường, hoa cỏ dại ngút ngàn, căng tràn sức sống. Đi mãi đi mãi, cuối cùng chúng tôi đến một ngọn đồi nơi cỏ cây dường như có bàn tay chăm sóc của con người.
Tuyệt vời thật, không ngờ mặt đất vẫn còn nơi rộng rãi bằng phẳng như chỗ này, một miền đất khác hẳn với những nơi chúng tôi từng đi qua.
Con đường mòn được đánh dấu bởi hai hàng cây cao vút hai bên trông như hai dãy hàng rào bất tận. Và khi nhìn vào bên trong những vạt đất trống được dãy hàng rào tự nhiên đó bao quanh... Cái gì thế kia? Con gì thế nhỉ? Những con thú có vóc dáng to lớn đang cắm đầu chăm chú nhai cỏ kia là con gì?
Tôi chồm cả hai chân trước lên cửa sổ ghế phụ lái. Vì tôi thường xuyên nhổm lên ngắm cảnh hai bên đường nên Satoru đã cố tình kê một chiếc thùng giấy cho cái lồng lên cao hơn, giúp tôi dễ nhìn ra ngoài. Nhưng cứ hễ xuất hiện thứ gì thú vị là tôi lại theo thói quen chồm hẳn lên cửa sổ.
“À, ngựa đấy mà. Vùng này toàn là bãi chăn thả ngựa thôi.”
Ồ! Là ngựa đấy sao! Tôi đã từng nhìn thấy chúng trên ti vi nhưng đây là lần đầu tiên được mục kích ngoài đời. Trên ti vi trông chúng to lớn mạnh mẽ hơn nhiều. Còn những con ngựa đang nhai cỏ ngoài kia, tuy kích thước cũng không bé nhỏ gì nhưng trông cứ còm cõi thế nào ấy.
Xe đã đi qua mà tôi hãy còn ngoái đầu lại, tiếc nuối trông theo những con ngựa dần dần khuất dạng. Thấy thế, Satoru bật cười.
“Nana đã thích ngựa thế thì để lần sau nhìn thấy, chúng ta sẽ dừng xe lại ngắm cho kĩ nhé.”
Và thế là khi chạy ngang qua bãi chăn ngựa kế tiếp, chúng tôi dừng xe cách lối ra vào dành cho ngựa một khoảng, từ đây nhìn lũ ngựa bên trong bãi chăn trông bé xíu.
“Hơi xa nhỉ.” Satoru nói với vẻ tiếc nuối rồi xuống xe, sau đó đi vòng sang bên phía ghế phụ bế tôi xuống.
Cửa xe đóng lại với một tiếng “cạch” khô khốc, làm lũ ngựa đang ăn cỏ ở phía xa đột ngột ngừng hết lại mà ngẩng phắt đầu lên, dù phải lưu ý rằng khoảng cách giữa chúng tôi và chúng xa đến mức trong mắt chúng tôi chúng chỉ to chưa bằng bàn tay Satoru.
Bầu không khí thoáng chốc căng như dây đàn. Lũ ngựa vểnh tai và nhìn chúng tôi chằm chằm, đúng là một loại sinh vật có thần kinh cực kì nhạy cảm.
“Ồ, chúng đang nhìn mình kìa Nana!”
Đâu phải chỉ đang nhìn suông, chúng đang quan sát chúng ta thì có! Cân nhắc xem chúng ta có nguy hiểm hay không.
Cũng có thể do cách nhau quá xa nên chúng mới cần dè chừng như vậy. Nếu chúng tôi ở gần đủ để chúng nhận ra “nguy cơ” chỉ là một con người với một con mèo thì có lẽ chúng đã yên tâm hơn.
Cứ nghĩ với cơ thể và vóc dáng to lớn thì lẽ ra chúng không cần phải nơm nớp suốt ngày như thế mới đúng, nhưng quả thật động vật có những bản năng nhất định kể từ khi chào đời. Cho dù thân hình vĩ đại đến đâu đi nữa thì ngựa vẫn chỉ là động vật ăn cỏ, và động vật ăn cỏ thì luôn mang theo kí ức truyền kiếp về việc bị động vật ăn thịt săn đuổi; chúng không thể không cảm thấy sợ.
Ngược lại loài mèo chúng tôi tuy trông bé nhỏ thế thôi nhưng vẫn là động vật săn mồi. Mà động vật săn mồi nói chung đều là những chiến binh, chúng tôi vẫn cảnh giác với đối thủ chưa biết rõ, nhưng nếu rơi vào trường hợp buộc phải chiến đấu thì chúng tôi sẽ xù lông, dựng thẳng đuôi lên, mục đích là để bản thân trông to hơn gấp nhiều lần.
Đó cũng là lý do tại sao lũ chó muốn chọc loài mèo cho vui cuối cùng thường cụp đuôi bỏ chạy. Vì chúng tôi không bao giờ rút lui khỏi cuộc chiến, cho dù đó là cuộc chiến với những con chó có kích thước to gấp mười lần mình. Suy cho cùng, loài chó đã không còn biết săn mồi từ lâu rồi. Ngay cả những nòi chó săn cũng chỉ biết đuổi theo con mồi theo lệnh chủ nhân chứ tuyệt đối không được phép ghé răng cắn vào con mồi dù đứng ngay trước mặt. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với loài mèo. Khi chúng tôi đi săn, cho dù chỉ là săn một con côn trùng bé nhỏ đi nữa, loài mèo sẽ truy đuổi chúng với thái độ quyết liệt và tự mình kết liễu nó. Và chính cảm giác khi “kết liễu” con mồi này tạo nên sự khác biệt to lớn. Ví dụ như lũ ngựa có thể to hơn chúng tôi gấp nhiều lần, nhưng tuyệt đối không phải là đối thủ cân tài cân sức.
Nghĩ đến đây, cảm xúc tự hào chợt dâng lên trong lòng, vì bản thân là một con mèo chưa từng thất bại trong bất kì chuyến đi săn nào. Là một con mèo bất khả chiến bại, tôi quyết không bao giờ cụp đuôi sợ sệt trước bất kì thứ gì xuất hiện trước mặt Satoru.
Sau khi quan sát chúng tôi hồi lâu, có vẻ không thấy gì nguy hiểm nên lũ ngựa lại cúi đầu tiếp tục gặm cỏ.
“Xa thế này không biết có chụp được không?”
Satoru lôi điện thoại từ trong túi ra, đó là một chiếc điện thoại có máy ảnh. Nhân tiện nói luôn, đối tượng được anh chụp nhiều nhất đương nhiên chính là tôi.
Nhưng có lẽ không nên chụp lũ ngựa này làm gì.
Khi Satoru vừa hướng ống kính về phía lũ ngựa thì chúng lại ngẩng đầu lên nhìn, hai tai dựng thẳng. Chúng cảnh giác với hành động bí ẩn của Satoru.
Mãi cho tới khi Satoru đã chụp “tách” và buông điện thoại xuống, mấy con ngựa vẫn không thôi nhìn chúng tôi chằm chằm một cách lo lắng.
“Xong... đúng là hơi xa quá.”
Satoru chỉ chụp đúng một lần rồi bỏ cuộc. Mấy con ngựa thì cứ đứng đó nhìn chúng tôi... nhìn chúng tôi... nhìn chúng tôi không chớp mắt... Chúng còn dõi theo chúng tôi ngay cả khi người và mèo đã leo lên xe, yên vị, đóng cửa. Lúc ấy chúng mới chừng như yên tâm mà quay lại bữa ăn của mình. Xin lỗi vì đã làm phiền nhé.
Có những loài động vật mãi mãi cứ sống một cách cam chịu thế thôi, dù chỉ một cú đá hậu của nó cũng đủ khiến cả hai chúng tôi dở sống dở chết. Nếu đó chính là dấu vết của bản năng nguyên thủy mà động vật nào cũng phải tuân theo thì tôi cảm thấy thật may mắn khi được sinh ra làm động vật săn mồi. May mắn vì được sinh ra là một chú mèo can đảm, không bao giờ khuất phục trước bất kì đối thủ to lớn nào.
...
Cuộc gặp gỡ lũ ngựa mang một ý nghĩa to lớn với tôi, vì nó giúp tôi tái khẳng định chính mình.
Trên đường đi, tôi đã được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp chưa từng thấy bao giờ. Những cây bạch dương trắng phau, hàng thanh lương trà trổ quả đỏ rực. Tên các loại cây và màu đỏ của quả thanh lương trà đều là do Satoru dạy cho tôi. Trong một chương trình ti vi tôi xem lúc trước có học giả từng tuyên bố “loài mèo rất kém trong việc phân biệt màu sắc”, nhưng vì Satoru cứ thỉnh thoảng reo lên, “Ồ, trông quả thanh lương trà đỏ rực rỡ chưa kìa!” nên tôi bắt đầu học được khái niệm “màu đỏ”. Đương nhiên màu sắc trong mắt tôi và anh hoàn toàn khác nhau, nhưng tôi vẫn có thể ghi nhớ sắc độ gọi là “đỏ rực” mà Satoru nhắc tới.
Cứ mỗi lần nhìn thấy thanh lương trà, Satoru lại không ngừng so sánh, “Chà, thế này thì không đỏ lắm đâu.” Nhờ đó dần dần tôi còn học được sắc độ đậm nhạt khác nhau của màu đỏ. Một lần nữa, tuy kiến thức về đỏ đậm đỏ nhạt của tôi hoàn toàn là nhờ góc nhìn của Satoru, nhưng những màu giống nhau thì luôn luôn có những sắc độ tương đồng nhau, điểm ấy không thể thay đổi được.
Có những cánh đồng khoai tây và bí ngô đang trong mùa thu hoạch, có những cánh đồng đã thu hoạch xong.
Khoai tây được lèn vào những bao tải to đến mức có cảm giác như đủ để nhét mấy người lớn, sau đó xếp thành ụ ở góc ruộng. Bí ngô thì được chất thành từng ngọn núi nho nhỏ hình tam giác trên nền đất đen ẩm ướt. Ngoài ra còn cơ man nào là những túi nylon màu đen và trắng rải rác khắp ngọn đồi, ban đầu tôi cứ tưởng đó là một thứ “đồ chơi” nào đó của con người bị vứt vương vãi, nhưng hóa ra đó là túi chứa cỏ.
“Mùa đông đến tuyết rơi rất nhiều, nên từ giờ người ta phải bắt đầu thu gom cỏ để dành cho ngựa và bò đấy mà.”
Tuyết, chính là thứ trăng trắng lạnh buốt vẫn rơi mỗi khi mùa đông đến ở Tokyo phải không? Tuyết ở thủ đô rơi nhanh mà tan cũng rất nhanh nên khi ấy tôi chẳng lưu tâm mấy, nhưng sau này, khi đã trải qua một mùa đông ở Hokkaido rồi, tôi mới biết tuyết nơi đây thuộc về một khái niệm khác hẳn. Những cơn bão cuồng loạn, tuyết thông thốc như muốn xuyên thấu cơ thể khiến ngay cả tôi cũng phải choáng váng, nhưng đấy là chuyện của sau này.
Một đằng là “tuyết” rơi như thác đổ, nhấn chìm cả mái nhà, với một đằng là “tuyết” nơi đô thị, tan nhanh chỉ trong vài ngày; tại sao người ta có thể gọi hai thứ khác hẳn nhau đó với cùng một cái tên cơ chứ?
Trên đường đi, thỉnh thoảng chúng tôi lại nghỉ ngơi tại các trạm dừng chân và cửa hàng tiện lợi. Xung quanh chỉ toàn núi đồi loang loáng vụt qua, và ánh mặt trời dần dần khuất bóng. Đến chạng vạng thì nhà cửa lại hiện ra trong tầm mắt. Mỗi phút trôi qua trời lại tối dần, chiếc xe màu bạc như thể chạy đua với bóng tối và tiến dần vào đêm đen. Khi tiến vào thành phố, xe cộ lướt qua chúng tôi đều bật đèn hết cả.
“Chắc không xong trong hôm nay được rồi, đến hoa còn chưa mua nữa là.”
Satoru lẩm bẩm với vẻ phiền muộn, nhưng không hề dừng lại ở quán trọ đã đặt chỗ từ trước mà rẽ sang một con đường hẹp.
Dọc theo con đường này, quang cảnh thành thị ngoài kia đột ngột mất hút, thay vào đó là những dãy nhà dân giản dị nối tiếp nhau. Nhưng nếu gọi đây là khu dân cư thì cũng không hẳn, vì còn rất nhiều khu đất trống chơ vơ chưa được xây cất, khoảng cách giữa nhà này với nhà kia cũng xa đến mức khó tưởng tượng nổi nếu so với khu vực xung quanh Tokyo.
Chẳng bao lâu những mái nhà cũng trở nên thưa thớt, con đường dần dần dốc lên, dường như chúng tôi đang leo lên một ngọn đồi. Khi leo hết con dốc, xe chúng tôi đi qua một cánh cổng mở rộng, tiến vào một khu đất với những khoảnh con con xắn thành hình chữ nhật đều chằn chặn trải dài đến hết tầm mắt. Ở giữa mỗi khoảnh chữ nhật ấy là một cột đá hình khối vuông dựng lên cực kì chỉn chu. Tôi nhận ra nơi này rồi, tôi đã từng thấy nó trên ti vi.
Đây là nghĩa trang.
Hình như con người có thói quen dựng những cột đá đẹp đẽ lên bên trên nơi chôn cất một người vừa chết đi thì phải, tôi nhớ lại lần đầu thấy nó trên truyền hình, đúng là một tập quán kì quặc. Trên tấm bia đá ấy lại còn bỏ công khắc đủ thứ nữa chứ.
Khi kiếp sống của động vật kết thúc, chúng sẽ nằm lại ngay tại mảnh đất mình đã ngã xuống, chỉ có con người mới lo lắng tìm kiếm, chuẩn bị “nơi yên nghỉ cuối cùng” thôi, đúng là một giống loài quá thừa ưu tư và gò bó. Cứ nghĩ xem, ngay cả khi đã chết rồi mà còn phải bận tâm phiền não thì còn tự do gì nữa?
Satoru không hề tỏ ra băn khoăn tìm đường mà cho xe chạy thẳng tới trước một khu mộ và dừng lại. Sau đó anh xuống xe và thong thả lần qua những ngôi mộ trước khi dừng lại trước một ngôi mộ có phiến bia đá trắng toát.
“Đây là mộ của cha mẹ tao đấy.”
Là nơi mà Satoru nhất định phải tìm đến lần cuối. Tôi có thể không hiểu nổi tâm lý của con người khi họ đặt những tấm bia đá lên trên nơi người thân của họ yên nghỉ, nhưng tôi có thể lý giải được cảm xúc của họ khi trân trọng những tấm bia đá ấy. Dù mệt mỏi rã rời sau cả ngày dài lái xe liên tục nhưng cuối cùng Satoru vẫn tìm đến đây dù trời đã tối. Lần trước, anh mang theo Hachi với lông ở phần lưng loang lổ hình số tám, còn lần này, là tôi, Nana với cái đuôi gấp khúc hình số bảy.
Tôi không thể vô tâm đến mức không biết tôn trọng những cảm xúc ấy của anh.
“Tao luôn mong muốn có ngày được cùng Nana đến đây thăm mộ đấy.”
Tôi hiểu chứ. Tôi dụi dụi đầu mình về phía mộ phần của cha mẹ anh như một cách chào hỏi. Xin chào ông bà, rất vui được gặp mặt. Chắc hẳn Hachi là một chú mèo ngoan ngoãn hiền lành, nhưng có lẽ Nana này cũng không đến nỗi nào chứ ạ?
“Con xin lỗi, hôm nay đi vội quá; ngày mai con sẽ mang hoa tới.”
Satoru ngồi xổm xuống, thì thầm khi nhìn mấy bông hoa heo héo cắm trong chiếc lọ trước mộ.
“Vừa rồi là mùa tảo mộ... chắc là dì đã đến.” Satoru nhẹ nhàng vuốt ve những cánh hoa. “Con xin lỗi vĩ không thể đến thường xuyên... phải chi con siêng đến thăm hai người hơn.”
Tôi hơi lùi về sau để không làm phiền đến Satoru, nhưng biết rằng đi quá xa sẽ khiến anh lo lắng nên tôi chỉ quanh quẩn gần đấy, sao cho anh ngẩng lên là trông thấy.
Năm năm trời sống cùng nhau, có vài lần Satoru để tôi ở nhà một mình để đi thăm mộ cha mẹ. Lần nào cũng than thở nào là “Muốn đem Nana theo quá”, “Nhìn thấy Nana giống hệt Hachi thế này chắc cha mẹ ngạc nhiên lắm”, nhưng tuyệt nhiên chưa lần nào anh mang tôi theo được.
Công việc của Satoru quá bận rộn, anh lại còn trẻ nên thỉnh thoảng có được một hai ngày nghỉ thì phải dành cho bạn bè, chưa kể đồng nghiệp trong công ty rủ rê đây đó nên có muốn đi xa cũng không thể. Trong quá khứ không biết bao nhiêu lần Satoru ước ao, “Giá như có dịp nào hai chúng ta đi chơi riêng với nhau được nhỉ, đi đâu đó xa xa một tí.” Thế nhưng mãi cho tới bây giờ, chuyến đi mơ ước bao năm mới trở thành hiện thực.
Không đến được không phải vì không muốn đến, giá như thời gian và tiền bạc cho phép thì chắc hẳn Satoru đã đến thăm mộ cha mẹ mình thường xuyên hơn. Mà có lẽ hai người họ cũng thông cảm thôi, họ là cha và mẹ của Satoru mà.
“Nana, lại đây nào.”
Satoru vừa vuốt ve tôi, vừa thì thầm tâm sự gì đó với cha mẹ mình.
Nghe nói thành phố này là quê hương của mẹ Satoru. Ông bà ngoại của anh hình như là nông dân nhưng qua đời từ sớm, mẹ và dì của Satoru khi ấy còn quá trẻ nên không thể giữ được nhà cửa ruộng đất của cha ông, đành phải bán đi, và dì anh luôn ân hận về việc đó.
Nhất là sau khi Satoru về ở với dì.
Một quê hương chẳng còn gì ngoài những nấm mộ, đối với con cháu quả là điều đáng buồn. Nhưng chẳng còn cách nào khác, gia đình đằng ngoại của Satoru cũng không còn lại bao nhiêu thành viên, mà số ít họ hàng ấy cũng tản mát đó đây hết cả.
Cuộc đời này chẳng thiếu gì những việc không như ý muốn.
Satoru bế tôi đứng dậy.
“Ngày mai con sẽ quay lại.” Nói xong, anh lặng lẽ trở ra xe, khởi động máy rồi chầm chậm tiến về thị trấn đã ngập trong đêm đen thăm thẳm, hướng về phía quán trọ sẽ là chốn dừng chân đêm nay.
Quán trọ có quy mô vừa phải, nhưng được cái có phòng cho phép thú cưng. Lúc tìm nhà trọ trên tạp chí, chỉ thấy quán trọ này ghi “cho phép chó”, nhưng sau đó Satoru gọi điện tới thì được biết mèo cũng “đương nhiên” được vào. Đúng là một nhà trọ có tâm.
Có lẽ do lái xe cả ngày đã mệt nên sau khi ra ngoài khoảng một tiếng để ăn tối và mua sắm vài vật dụng linh tinh, Satoru quay về phòng rồi lăn ra ngủ như chết. Bù lại hôm sau chúng tôi thức dậy rất sớm.
Vệ sinh xong xuôi, chúng tôi rời khỏi nhà trọ khi trời vừa hừng đông.
“Thôi chết, tiệm hoa vẫn chưa mở cửa.” Satoru bối rối lái xe lòng vòng quanh nhà ga. “Hình như trên đường đến nghĩa trang cũng có tiệm hoa thì phải...”
Nói là làm, anh quyết định nhấn chân ga chạy thẳng tới địa điểm trong đầu, nhưng lúc này hãy còn quá sớm, cánh cửa kéo của tiệm hoa vẫn đóng im ỉm. Satoru quyết định tấp xe vào vệ đường.
“Xin hãy thông cảm cho con!”
Nói đoạn, anh cúi xuống... hối hả hái những đóa hoa tím và vàng nhuộm thắm suốt dọc đường chúng tôi đã đi hôm qua.
Thế cũng hay đấy, biết đâu còn tuyệt hơn cả hoa mua trong tiệm không chừng! Hoa dại cũng đẹp lắm chứ, huống hồ hái những đóa hoa nhìn thấy suốt dọc đường đi hôm qua mang đến, có khi cha mẹ anh lại cảm thấy hài lòng hơn không biết chừng.
Tôi cũng tham gia vào việc tìm kiếm bằng cách chọn những khóm cúc dại rực rỡ nhất và chỉ cho Satoru. Anh cười phá lên, “Nana cũng tìm hoa cho tao đấy à!” và hái luôn cả những khóm cúc tôi chỉ.
Hoa đã được bó thành một bó to lộng lẫy, chúng tôi lại lên xe hướng về nghĩa trang hôm qua.
Đêm qua tối trời nên không nhìn rõ, nhưng giờ đứng trên đỉnh đồi có thể nhìn bao quát cả thành phố phía dưới, kể cả khu vực xa tít ngoài rìa, nơi vắng bóng những công trình xây dựng của con người.
Nghĩa trang buổi sớm mai tạo cho người ta cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng. Chẳng bao lâu, ánh nắng đã chan hòa, vàng rực cả vùng đồi. Nhắc mới nhớ, tối qua khi đến nghĩa trang trời đã tối mịt, vậy mà tôi hoàn toàn không nhận thấy vẻ đáng sợ thường gặp. Những nơi như nghĩa trang hay đình chùa thường sinh ra những thứ ma quái, nhưng ở đây hoàn toàn không có cảm giác âm u của hồn ma bóng quế.
Gì cơ, loài mèo chúng tôi có khả năng nhìn thấy ma quỷ thật không ấy à? Có một số vấn đề không bao giờ nên đem ra hỏi thì hơn, biết không hả?
Satoru một tay ôm bó hoa chúng tôi vừa hái, tay kia cầm theo mấy thứ đồ cúng xuống xe. Đồ cúng đã được mua từ tối qua khi chúng tôi ra ngoài ăn tối. Sau khi quét dọn hai ngôi mộ, Satoru rút mấy bó hoa cũ đã tàn ra, thay nước sạch vào bình và cầm bó hoa vàng tím còn tươi nguyên. Những đóa sao nhái xinh xẻo lẫn trong bó hoa điểm xuyết thêm chút nhẹ nhàng và tươi tắn cho những gam màu đậm rực rỡ.
Cả hai chiếc lọ trước mộ nhanh chóng phủ đầy hoa, ấy thế mà chúng tôi chỉ mới dùng phân nửa phần hoa đã hái. Satoru bảo, “Cứ để đấy tí nữa còn dùng đến!” rồi lấy giấy báo gói chỗ hoa còn thừa, cất vào xe.
Sau đó, anh xé gói bánh kẹo mang theo và bày ra trước mộ. Chỉ lát nữa thôi, thể nào kiến cũng bu đầy và lũ quạ cùng đám chồn cũng sẽ tìm tới chia phần, nhưng thế vẫn còn hơn là để không cho mốc meo ra đấy. Rồi Satoru đốt nhang. Kiểu đốt một lần cả bó nhang to này hình như là phong cách độc quyền của nhà anh thì phải, nhưng với tôi, khói thế này quá khó thở nên phải vội vàng chuồn lên phía đầu gió.
Satoru đứng tựa lưng vào tấm bia đá, mắt dõi theo những hàng bia mộ san sát, trải dài đến vô tận. Khi tôi đến bên cạnh dụi mình vào đầu gối, anh liền bật cười và gãi gãi cằm tôi.
“May mà có Nana ở bên,” Satoru thì thầm đủ cho tôi nghe thấy.
Anh nói bằng giọng hết sức hạnh phúc.
Tôi hơi lùi ra xa, nhường không gian lại cho một mình anh rồi đi dạo loanh quanh gần đó. Dưới những bụi cây thấp bao quanh khu mộ, những nhánh Fuki xanh mướt đã bắt đầu vươn cao.
Hình như dưới nhánh Fuki có con gì đó trông na ná dế mèn đang nhảy nhót, tôi bèn sục mũi vào hít ngửi tìm kiếm. Nhưng được một lát thì Satoru đi đến, có lẽ đã nói chuyện với cha mẹ xong.
“Làm gì thế Nana? Sao lại cắm đầu vào bụi Fuki làm gì?”
À, tại vì lúc nãy dưới đó...
“Có gì bên dưới à?”
Đúng, đúng thế, một thứ gì rất nhanh. Dù chỉ trong chớp mắt nhưng rõ ràng tôi đã trông thấy nó nhảy lên! Và để lại một mùi thơm rất lạ lùng. Trong lúc tôi băn khoăn, hít hà tìm kiếm thì Satoru chợt mỉm cười.
“Có khi nào là Korobokkuru không nhỉ?”
Đấy là con gì?
“Là giống người tí hon sống dưới gốc cây Fuki ấy mà.”
Ồ! Lần đầu tiên nghe đấy! Không ngờ dưới gầm trời này còn có một sinh vật kì diệu đến thế!
“Nhân vật cổ tích mà tao thích nhất khi còn bé đấy.”
Gì cơ... hóa ra chỉ là cổ tích thôi sao.
“Cũng là nhân vật cha mẹ tao thích nhất nữa. Mỗi khi tao tìm câu chuyện đó để đọc là hai người họ lại thích mê.”
Satoru bắt đầu kể cho tôi nghe về tộc người tí hon có tên Korobokkuru nọ, nhưng tôi chẳng mấy hứng thú với những câu chuyện không có thật. “Oáp...” Thấy tôi ngáp dài ngán ngẩm, Satoru cười khổ.
“Trông Nana chẳng hứng thú mấy nhỉ.”
Vì loài mèo chúng tôi luôn rất thực tế!
“Giả sử mày nhìn thấy những người tí hon thật thì nhớ đừng cắn họ đấy nhé.”
Vâng, vâng, biết rồi. Nếu nhìn thấy thật thì chắc tôi sẽ không nhịn được mà đùa họ một chút, nhưng có lời dặn dò này của Satoru, tôi hứa sẽ không quá đà.
Satoru quỳ xuống trước mộ, chắp tay lần cuối, tôi cũng cọ má mình vào tấm bia để thể hiện thành ý. Cầu nguyện xong, Satoru đứng dậy, chào cha mẹ mình trước khi từ biệt. “Thôi, hẹn gặp cha mẹ lần sau.” Gương mặt anh lúc này trông rất nhẹ nhõm, có lẽ vì không còn vướng bận gì nữa.
Xe lại lăn bánh, lần này dừng trước một khu mộ khác.
“Còn đây là mộ của ông bà ngoại tao.”
Satoru lấy hết chỗ hoa còn lại cắm hết vào lọ đặt trước ngôi mộ này. Sau đó soạn bánh kẹo cúng và thắp hương y hệt như những gì đã làm trước mộ cha mẹ. Nhưng trông anh không quyến luyến lắm, có lẽ là vì ông bà ngoại mất sớm và bản thân anh chưa gặp họ bao giờ.
“Được rồi, đi tiếp thôi nào.”
Đích đến kế tiếp là Sapporo, thành phố nơi dì Satoru đang sống.
Chiếc xe xám bạc từ từ xuất phát, hướng về điểm đến cuối cùng của cuộc hành trình.
Dọc đường đi thoạt đầu không xảy ra sự kiện gì đặc biệt.
Sau khi băng qua ngọn đồi cao, con đường bỗng chốc thay đổi, trở nên dốc và hẹp hơn. Hai bên bờ đất, từng hàng bạch dương chạy dài san sát, dưới chân lúp xúp những bụi tre lùn rậm rạp.
Cảnh này chẳng có gì đặc biệt cả, ở Hokkaido thì như thế là hoàn toàn bình thường.
Xe đang luồn lách qua những bụi cây dày, chợt Satoru reo “A!” một tiếng phấn khích và đạp phanh cho xe thẳng gấp lại, khiến tôi mất đà suýt nữa bổ nhào về phía trước.
Ê ê, anh làm cái gì thế?
“Nana, mau nhìn xem kìa!”
Tôi nghe theo lời Satoru, rướn cổ nhìn ra cửa sổ, và thoáng chốc ngẩn người.
Trước mặt chúng tôi là những con hươu với vết trắng lốm đốm in trên bộ lông màu nâu nhạt. Có hai con lớn và một con nhỏ, hẳn là một gia đình. Những vệt hoa văn nhạt màu trên lưng hòa vào màu đất và cây cối xung quanh tạo thành một lớp ngụy trang tuyệt vời.
Có những động vật to lớn ở sát bên cạnh thế mà tôi lại chẳng hề nhận ra, đúng là kĩ thuật ngụy trang quá hoàn hảo.
“Ban đầu tao cũng không nhìn thấy đâu, nhưng nhờ một con tự nhiên quay lưng lại nên mới nhận ra đấy chứ!”
Cái đuôi cụt ngủn, trắng xốp mềm mại trông như hình trái tim của con hươu nổi bật lên giữa lớp màu ngụy trang.
“Để tao mở cửa sổ nhé.”
Satoru nhoài người sang bên ghế phụ, ấn nút hạ kính xe. Cửa sổ từ từ trượt xuống với một tiếng rít nhè nhẹ khiến cả ba con hươu đồng loạt ngẩng phắt đầu trông sang.
Cả không gian và thời gian thoáng chốc như ngưng đọng.
À... xem ra loài hươu cũng cùng một loại với lũ ngựa rồi. Rõ ràng là loài vật đóng vai trò con mồi.
“Chúng ta bị đề phòng rồi.”
Satoru tạm dừng việc hạ cửa kính xuống, im lặng quan sát tình hình. Ba con hươu chăm chăm nhìn về phía chúng tôi, chợt hai con lớn, hẳn là cha mẹ, nhảy phóc một cái, phóng lên triền dốc đất.
Con hươu con chưa vội di chuyển mà chỉ mở to mắt quan sát chúng tôi, xem ra vì còn quá nhỏ nên tính cảnh giác còn thấp. Nhưng trên bờ dốc cao trên kia, cặp hươu lớn đã hối hả gọi con mình. Con hươu con quay cái đuôi hình trái tim trắng xốp về phía chúng tôi rồi phóng lên cao, đi mất hút.
“Chà tiếc quá, đi cả rồi...”
Satoru tiếc nuối nhìn về phía triền dốc.
“Nhưng cũng tuyệt đấy chứ? Lần đầu tiên tao nhìn thấy lũ hươu ở giữa đường đấy nhé!”
Chắc chắn là nhờ cái đuôi của đây đấy, cái đuôi cong cong gấp khúc hình số bảy có khả năng kéo về những cuộc gặp gỡ nhiệm màu.
Chúng tôi cho xe chạy chầm chậm phía sau gia đình nhà hươu, lặng lẽ tiễn chúng đi xa.
Và sau đó lại tiếp tục những quang cảnh lặp đi lặp lại, những ngọn đồi chẳng mới mẻ, và những dải núi non trùng điệp không có gì thay đổi.
Khi những đám mây xám dần nhạt màu đi và sà thấp xuống, mưa cũng bắt đầu rơi. Từng hạt lất phất, nhẹ bẫng như một cơn mưa bóng mây.
“Tuyệt vời chưa, chúng ta đang ở ngay ‘ranh giới mưa rơi’ đấy.”
Rõ ràng cơn mưa khiến Satoru cảm thấy khoan khoái, nhưng ngược lại, chỉ làm tôi ủ rũ. Tôi mong anh mau mau chạy qua vùng mưa rơi, đến với “ranh giới nắng đẹp” hơn.
Mong ước của tôi nhanh chóng trở thành hiện thực.
Mưa tạnh dần rồi ngưng hẳn, lại bước sang “ranh giới” khác rồi thì phải. Một lần nữa ánh mặt trời lại tỏa sáng rực rỡ trên đầu.
Ngồi trên ghế lái, Satoru tham lam hít lấy hít để từng đợt không khí mát rượi. Ngay cả con mèo đang uể oải buồn ngủ là tôi cũng bị làn không khí xung quanh đánh động, phải ngẩng đầu lên thám thính. Satoru cho xe chạy chậm lại rồi ngừng hẳn bên vệ đường.
Từ ngọn đồi trước mặt, một dải cầu vồng bảy sắc rực rỡ xuất hiện.
“... Tuyệt vời!”
Ừ, tôi phải công nhận, cảnh tượng trước mặt thật sự diệu kì, còn diệu kì hơn cả những đường ranh giới nơi mưa đến và đi bất chợt nữa.
Dải cầu vồng vẽ một vòng cung nhàn nhạt lên nền trời, một chân giẫm chắc lên ngọn đồi trước mặt, chân còn lại như thể biến mất nơi ngọn đồi đối diện xa xa.
Đây là lần đầu tiên tôi được trông thấy một dải cầu vồng hoàn chỉnh như vậy, và cứ nhìn cái cách Satoru nín thở tròn mát ngắm cảnh tượng trước mặt thì chắc anh cũng thế.
Ngay lúc này, bên cạnh nhau, chúng tôi cùng chiêm ngưỡng một cảnh tượng kì diệu được chứng kiến lần đầu tiên trong đời.
“Mình xuống xe nhé.”
Satoru rụt rè xuống xe với vẻ nơm nớp thành kính, như thể lo sợ chỉ cần thở mạnh thôi cũng đủ khiến dải cầu vồng kia biến mất.
Satoru nhấc tôi lên từ ghế phụ lái, và cả hai cùng ngước lên trời.
Cả hai chân cầu vồng đều cắm sâu trên mặt đất, nét vòng cung mềm mại hoàn hảo nó vẽ ra trên bầu trời tuy nhàn nhạt mơ hồ nhưng lại rất liền mạch hoàn mĩ, không có chỗ nào bị đứt khúc cả.
Hình như tôi đã nhìn thấy cái tổ hợp màu sắc tương tự thế này ở đâu rồi thì phải, để nghĩ xem nào.
Phải rồi, màu sắc của những bó hoa đặt trên mộ sáng nay! Những sắc tím biến ảo đa dạng của hoa cúc dại, màu vàng rực rỡ của đám hoàng anh và hoa sao nhái. Nếu bó hoa ấy được quàng thêm một lần voan mỏng tang nữa thì chẳng khác gì những dải màu hiện trên cầu vồng lúc này.
“Hóa ra sáng nay chúng ta đã đặt lên mộ cả một dải cầu vồng cơ đấy!”
Nghe Satoru thốt lên với vẻ ngỡ ngàng, tôi bỗng cảm thấy sung sướng, chúng tôi quả là một cặp ăn ý.
Tôi quay đầu lại và “meo meo” mấy tiếng, khiến Satoru cũng phải ngước về phía đường chân trời.
Ôm trùm bên trên dải cầu vồng chúng tôi đang ngắm là một dải cầu vồng khác, nhạt thôi, nhưng lớn, rất lớn.
Satoru lại một lần nữa nghẹt thở. Tôi nghe anh thì thào luôn miệng, lặp đi lặp lại, tuyệt vời quá, kì diệu quá, ôi chao.
Thật không ngờ chuyến đi cuối cùng này lại mang đến một cảnh tượng kì vĩ đến thế, thật không ngờ chúng tôi lại có duyên cùng chiêm ngưỡng một cảnh tượng hiếm hoi đến thế.
Suốt đời chúng tôi cũng không thể quên.
Không thể quên dải cầu vồng đôi đã hiện ra hôm nay trước mắt chúng tôi như một lời chúc phúc cho chuyến đi này.
Chúng tôi cứ thế chôn chân đứng đó, sững sờ dán mắt vào cầu vồng đôi cho đến khi chúng mờ dần và mất hẳn, giữa lúc nắng tươi nhuộm vàng ruộm không gian.
Đây là chuyến đi cuối cùng của chúng ta.
Trong chuyến đi này, hãy cùng nhìn ngắm thật nhiều cảnh sắc kì thú, và cùng cược xem chúng ta sẽ còn nhìn thấy bao nhiêu kì quan trước khi chuyến đi kết thúc... đó là lời thề chúng tôi đã đặt ra hôm qua.
Chúng ta đã nhìn thấy biết bao cảnh đẹp tráng lệ. Bởi vì chúng ta đã nhìn thấy những cảnh đẹp tráng lệ ấy, và bởi vì chúng ta đã nhìn thấy cả dải cầu vồng đôi rực rỡ này, nên tôi tin chắc chuyến hành trình của chúng ta đã được trời chúc phúc.
Cứ như thế, chúng tôi kết thúc chuyến đi của mình tại Sapporo.