- 4 -
TRỜI cao thăm thẳm, và xanh ngắt; ánh sáng lóng lánh trong vườn cam, trên mái ngói, trên lũy tre. Chỗ nào cũng đầy những tiếng chim; đàn sẻ luôn luôn choanh choách, như những cô con gái lém, đàn chim khuyên ríu rít như một bầy trẻ nhỏ, đàn chào mào, đàn liếu điếu như đem theo tự những khu rừng, khu mưỡu xa về cả một điệu nhạc mọi rợ, líu lo.... Lá cây rún rẩy trong gió mát. Buổi sớm mùa hè ở nhà quê nhuốm đầy một mầu mới mẻ, rỡ ràng vui.
Đứng ở sân nhà ngang, Đào thờ thẫn nhìn con mèo Mướp, lim dim mắt nhu mì ngồi phơi nắng trên một chiếc cối đá bên cạnh đống rơm. Nghĩ đến cái cử chỉ của Phi vừa lúc nãy, Đào bực tức lắm. Đào nhặt một hòn đất, hung hăng liệng mạnh vào con mèo. Nhưng hòn đất không trúng, và con mèo vẫn nằm im, mắt vẫn lim dim, điềm tĩnh.
- Anh Đào ơi, anh Đào!
Đào ngoảnh lại: Phi, tươi cười vui vẻ, cắp một chiếc rổ con đang lại phía Đào:
- Anh Đào ơi, anh Đào! Nho ngon lắm, anh ạ. Mà bà mua cho nhiều quá đi mất, đầy một rổ này.
Đào không đáp, quay nhìn lên ngọn một cây soan. Phi vẫn tươi cười đi lại:
- Đây này, anh ăn thử một chùm mà xem. Nho tươi mới hái thế này, ngon hơn nho bán ở các hiệu nhiêu!
Đào vẫn không đáp, vẫn nhìn lên ngọn soan. Phi lại sát bên Đào:
- Lần này em mới được ăn nho tươi là lần đầu. Hoài của, thế mà bà đem phá cả dàn nho của nhà đi mất.
Đào nguầy chạy ra phía vưò-n chè, và nhắc lại câu của Phi ban nẵy mà Đào vỉn chưa quên:
- Ngoài kia gà vịt ăn vui vẻ quá! Phải ra xem mới được!
Phi biết là Đào nói mỉa mình, Phi mìm cười, rồi cùng chạy theo ra vườn. Thím Xã thấy Phi và Đào ra thì trỏ tay bảo Phi:
- Chị Phi, chị bảo anh Đào anh ấy bắt cái tổ chích chòe kia kìa!
- Đâu?
- Trên cành sung ấy! Cái cành nó trễ là là xuống ao ấy. Hai con chim đang đứng cạnh tổ là hai vợ chồng nó đấy.
Phi mỉm cười, đưa mắt nhìn Đào.
Còn thím Xã thì bắt lấy, hát ví:
- Chích chòe ăn cưới linh đình.
Chim sẻ làm cỗ ra đình tế vua.
Đào phì cười:
- Sao chim sẻ làm cỗ à thím?
Thím xã, thực thà, cãi:
- Vâng, đám cưới chích chòe mà lại!
Chích chòe ăn cưới linh đình.
Chim sẻ làm cỗ ra đình tế vua.
Chim khuyên vác trống theo hầu.
Chào mào nhọn mỏ têm trầu bổ cau....
Đào phá lên cười. Phi cũng cười theo. Thấy như cái không khí hờn dỗi giữa mình và Đào đã tiêu tán, Phi vui vẻ lấy một chùm nho đưa cho thím xã và bảo thím:
- Này, thưởng cho ‘‘bà mối chim’’ một chùm nho mà ăn xem có ngon hơn nho của nhà không!
Rồi quay lại Đào, Phi thân mật cũng đưa cho Đào một chùm; nhưng Đào giọng lạt lẽo:
- Cảm ơn cô, tôi không ăn.
Phi bẽn lẽn lắm. Nhưng lém lỉnh, nàng quay ngay lại hỏi thím xã:
- Sao, thím? Có ngon bằng nho nhà không?
- Có, ngon lắm. Chả trách người ta bảo ‘‘Quả nho ăn đủ năm mùi!’’
Đào cười:
- Quả lê ăn đủ năm mùi, chứ lại quá nho!
Phi ngơ ngác, hỏi thím xã:
- Sao? Quả lê sao lại ăn đủ năm mùi, là thế nào?
- Ấy, Quả lê ăn đủ năm mùi.
Quả động to lớn có người ngồi trong.
- Ồ, hay nhỉ! Sao lại có thứ quả to lớn đến có người ngồi vào trong được?
- Ấy, thế này. Bắt đầu có những câu hỏi đã. Bên nam hỏi bên nữ...
- Sao lại bên nam hỏi bên nữ?
- Hát trống quân ấy mà! Hát trống quân thì phải có một bên nam, một bên nữ. Bắt đầu bên nam hỏi bên nữ:
Quả gì kẻ ước người ao?
Quà gì sáng tỏ như sao trên trời?
Quả gì ăn đủ năm mùi?
Quả gì to lớn có người ngồi trong?
Quả gì thích chữ chạm rồng?
Quả gì cùi trắng nước trong hỡi nàng?
- Thế bên nữ hát trả lời thế nào?
- Bên nữ hát trả lời:
Quả mận kẻ ước người ao.
Quả mai sáng tỏ như sao trên trời.
- À, quả mai là quả ‘‘sao mai’’ đấy l
- Vâng.
- Rồi?
- Rồi:
Quả lê ăn đủ năm mùi.
Quả động to lớn có người ngồi trong.
- Quả động là quả gì?
- Quả ‘‘động’’ là cái động ở trong núi ấy mà, ‘‘Người ngồi trong’’ là nàng tiên ngồi trong động.
Đào cười và chen vào:
- Sai rồi, ‘‘quả đậu to lớn có người ngồi trong’’, quả ‘‘đậu’’ vì trong quả ‘‘đậu’’có cái ‘‘nhân’’. ‘’Nhân’’ nghĩa là " ‘’người’’.
Phi cười bảo thím xã:
- Ừ, thế mới phải đấy. Người ta nói bóng.Nhưng rồi ‘‘quả gì thích chữ chạm rồng’’
- Quả chuông thích chữ chạm rồng;
Quả dừa cùi trắng nước trong, hỡi chàng.
Phi quay lại nhìn Đào như bảo Đào.
Nhưng Đào lạnh lùng bảo với thím xã:
- Thôi, về ăn cơm đi thím xã. Trưa rồi. Mà hình bà cũng đang gọi thím đấy.
Bữa cơm hôm ấy bà cứ nấu cho Phi một bát đầy canh rau ngót là món mà ngày bé về trại Tùng Châu, Phi thích ăn lắm. Bà nhắc lại chuyện ngày bé hễ hôm nào không có món ấy cho Phi là dỗi cơm, rồi bà bảo:
- Ngày bé tôi chiều thế, chứ bây giờ thì tôi đuổi về Hà nội.
Bà mỉm cười âu yếm nhìn Phi.
Nhận ra nét mặt Phi buồn ủ rũ khác hẳn với hôm qua, bà lo ngại hỏi cháu:
- Con làm sao thế, con?
Phi cười gượng:
- Thưa bà không ạ, con có làm sao đâu!
- Sao, bà trông mặt con buồn thế!
Đào nói với bà:
- Thưa bà, con buồn!
Bật cười, bà Cử bảo hai cháu:
- Rõ trẻ con chưa! Ban nãy bà vừa nghe thấy hai đứa gion giỏn chuyện với thím xã ở ngoài vườn chè, mà bây giờ đã buồn ngay được.
Rồi vừa xới cơm cho Đào, bà vừa vui vẻ bảo:
- Buồn thì bà kể chuyện cổ tích cho mà nghe nhé! ‘‘Ngày xưa, năm bà mới mười hai tuổi và ông các con mới lên tám, thì cụ bà đã mất; mà cụ ông lại có lệnh nhà vua triệu vào Kinh, và phải vào ngay...’’
Ngày ấy đường đi từ Bắc vào Huế mất hàng hai ba tháng, phần nhiều là đường rừng, và phải đi bằng cáng. Cứ sáng ra đi, thì tối lại vừa vặn đến một trạm nghĩ. Cụ Các - thân phụ bà Cử và ông Phi - thì có phu và cáng của nhà vua ban, còn hai chị em phải đi cáng thuê.
Đường xa, muốn cho các con đỡ nghịch ngợm cụ Các nghĩ ra một kế. Cứ mỗi buổi tối đến trạm, thì ăn cơm xong, trước khi đi ngủ, cụ lại dạy cho chị một bài Đường thi. Bài ấy dọc đường ngày mai là chị phải dạy cho em thuộc. Nếu chiều đến trạm thày ‘‘khảo’’ mà em không thuộc thì chị lại phải đòn!
Bà Cử cười tiếp:
- Cho nên hôm nào gặp phải bài khó mà em không chịu học là dọc đường chị em lại cãi nhau, đánh nhau chí chóe ở trên cáng.
Phi và Đào cùng cười. Bà Cử vui vẻ, ngẩng nhìn hai cháu, Phi quay lại nhìn Đào, và bắt gặp mắt Đào nhìn Phi. Rồi bà Cử kể tiếp:
- Đi khỏi trạm Thanh hóa ít ngày thì đường qua những bãi cát mênh mông trắng như muối. Thỉnh thoảng lại có quả núi trơ trụi, đầy những đá cuội trắng. Hai chị em cứ vờ bắt phu cáng đứng lại để xuống ‘‘uống nước’’, kỳ thực là xuống nhặt những hòn cuội xinh xẻo lên đánh chắt với nhau. Lại cứ thi nhau xem ai nhặt được nhiều, thành thử lần nào mỗi chị em cũng đem lên hàng vốc, đến nỗi, được một vài hôm thì phu cáng chúng nó thấy nặng trĩu cả vai. Chúng bèn mách ‘‘thày’’ và hai chị em mỗi đứa phải một trận đòn nát thịt.
Phi và Đào cùng ngồi lặng yên, trong lòng hai người tự nhiên cùng man mác một cảm giác êm dịu bâng khuâng. Nghe bà kể những chuyện âu yếm thân mật của gia đình, hai người cùng như thấy cái không khí trở nên âu yếm thân nhau.
Hai con chó Cộc và chó Vàng thấy bữa cơm sắp xong đã đứng chực sẵn ở ngoài cửa, đuôi vẫy rối rít, mắt lấm lét mừng. Hai con cũng đã già, lông không được mượt nữa, xơ xác như bông. Bà Cử bảo Phi:
- Chúng nó coi nhà cho bà năm nay là vừa đúng mười năm rồi đấy con ạ. Nhiều đứa muốn ăn thịt, nó cứ dèm pha; họ bảo nuôi chó lâu năm như thế độc, nên bán đi. Nhưng không bao giờ bà bán. Bà không nỡ bán thế. Nếu ngày sau này chúng nó có già quá chúng nó chết đi thì bà cũng chỉ chôn thôi...
Phi vứt cho mỗi con chó một miếng xương to. Mẹ con con mèo Mướp ở đâu cũng chạy đến quyện chung quanh Phi và nũng nịu đầu cọ vào tay Phi. Phi hỏi bà:
- Con Mướp này thì mấy tuổi rồi, bà nhỉ?
- Nó mười bảy năm: bằng tuổi con đấy.
Trỏ ra cây đào ngoài vườn cảnh bà nói thêm:
- Cây đào cổ thụ kia thì bằng tuổi anh Đào. Năm đẻ anh ấy, ông con xuống trại chơi, rồi mừng cho cày đào ấy.
Đào nhìn theo tay trỏ ra vườn. Những lá cây xanh non rung rinh một cách êm đềm trong nắng đặm. Trời trưa yên tĩnh như một thời sống cổ sơ. Đào bỗng thấy như tất cả trong dinh cơ ấy có một cái gì thân mật. Những tường đã mốc rêu, những sân gạch đỏ, những vườn cây đã gần cỗi, cái gì cũng đầy một vẻ quen thuộc mến yêu. Đào tưởng tượng đến một đời sống ở giữa những người thân, trong một vùng quê, xa cách hẳn thành thị như trại Tùng châu. Trong trại ấy, một gốc cây, một con vật, một hòn đá đều có quan hệ mật thiết với mình, đều nhắc nhở cho mình, bao nhiêu ý niệm buồn vui, đều cũng như có một cái linh hồn thân thiết và yêu dấu.
Bất giác, Đào nhìn trộm Phi và thấy Phi có một cái đẹp ngoan ngoãn, dịu dàng, phúc hậu quá.
Phi đang mãi nô đùa với con mèo Vàng. Phi cầm một miếng thịt dư cho con vật nhẩy chồm lên, và cười dòn khanh khách....
Nhưng bà Cử đã xếp dọn xong bát đũa và âu yếm bảo cháu:
- Thôi, con để thím xã cho nó ăn, rồi bưng mâm đi một thể.
Thím xã lên bưng mâm, Phi tự nhiên cười ngặt nghẽo:
- Ơ, bà ơi, bà! Hay quá đi mất bà ạ. Ở đây thím xã này, bà này...
Bà Cử cười:
- Con tôi hết buồn, đã vui như hội rồi đấy.
- Không, thưa bà, con vẫn buồn.
Phi thở dài, và hỏi:
- Bà ơi, bà! Phấn ở mặt con có hoen không bà?
- Có, hoen loang lổ ra cả.
- Thế là lại phải mất công đánh lại...
Phi chép miệng:
- Mà không biết lần đánh phấn thứ hai này rồi có ‘‘gở’’ như lần sáng ngày không! Sáng ngày chỉ vì muốn đẹp một chút thôi mà... nhiều chuyện quá!
Nàng quay nhìn sang Đào, như để phân trần với Đào rằng sáng hôm nay nàng chạy vội vào buồng riêng là để đánh phấn. Nàng muốn đánh phấn vì nàng muốn đẹp với Đào. Mà những lúc nàng chạy trốn Đào, chỉ vì nàng chưa trang điểm, nàng còn xấu.
Cái nhìn của Phi đăm đăm, như trách Đào: ‘‘Thế mà anh đã nghi ngờ gì oan cho em, anh giận em, anh làm em buồn bực’’.
Đào chợt hiểu ra. Chàng hối hận, muốn tìm một câu âu yếm xin lỗi Phi. Nhưng chàng không tìm ra. Bà Cử đã nhắc hỏi Phi đến chuyện ban nãy:
- Con bảo ở đây thím xã làm sao kia con?
- Bà ạ, hay quá đi mất. Này ở đây bà cũng già, thím xã cũng già, hai con chó cũng già, con mèo cũng già, giá không có con và anh Đào, thì ra toàn già thôi, bà nhỉ!
Bà Cử và thím xã cùng phá lên cười. Bà bảo Phi:
- Ông con hẹn với bà rằng hễ hưu trí rồi thì sẽ về trại ở với bà. Như thế thì ít nữa lại thêm một người già đấy.
Thím xã nói:
- Còn chị Phi nữa cũng ở đây cho mãi đến già!
Phi bừng đỏ mặt, cúi đầu, vờ với tay ra lấy rổ nho:
- Anh Đào cho em xin rổ nho, của em!
Đào không đưa, mải đăm đăm nhìn Phi. Chưa bao giờ Đào nhìn Phi âu yếm thế. Rồi Đào nói:
- Của anh không phải của em! gần ai là của người ấy!
Phi nũng nịu:
- Gớm anh! Thôi thì của chung.
Hai người cùng nhìn nhau cười.
Ăn cơm xong, Phi rủ Đào:
- Bây giờ đi chơi Đồi Thông đi.
Đào vui vẻ đùa:
- Đi xem gà vịt ăn!
Phi cũng lém lỉnh, chẳng kém:
- Ừ ra xem gà vịt ăn... ở vườn chè!
Bà Cử không hiểu những câu nói ý tứ của hai cháu, ngăn:
- Thôi! Trời nắng lắm ở nhà mà nghỉ, các con ạ.
Phi nói một cách tự nhiên:
- Những lúc này mà không đi đâu, hay không chạy nghịch tung tăng lên, thì con không chịu được bà ạ.
Đào cũng thấy như Phi.
Bà Cử chẳng hiểu cháu muốn nói gì, nhưng cũng chiều cháu.
Phi và Đào dắt nhau đi trong ánh nắng chang chang. Phi đội chiếc nón cúp như cô học sinh, chiếc nón mà Phi đã mang ở trường về, và Đào thì đội chiếc nón cúp của thím xã. Ánh nắng làm ướt đẩm mồ hôi cả trán hai người, làm ửng hồng cả má Phi và đượm tâm hồn cả hai một cảm giác rỡ ràng đẹp.
Đào vơ vẩn hỏi Phi:
- Đi đâu bây giờ?
- Lên Đồi Thông.
- Nói vậy chứ Đồi Thông cách đây đến bốn năm cây số, mà lên được đến đồi thì tối và nóng bỏng hết chân.
Đào nhìn xuống, ngắm hai bàn chân trắng và nhỏ của Phi, hồng hồng lên vì đi dưới nắng. Phi tảng lờ nhìn ra xa như không biết, để mặc cho Đào ngắm. Nhưng nàng cũng thấy thẹn, và hỏi to:
- Thế thì đi đâu?
- Đi đâu thì đi.
Nắng vẫn chói lọi. Những đám mây trắng như dính chặt vào da trời. Thỉnh thoảng một con cò trắng yên lặng bay vụt ngang qua trước cửa một ngôi đền yên lặng. Hai bóng Đào và Phi đen nháy trên đường vắng.
Đến một gốc đa, Phi trỏ tay bảo Đào:
- Xuống cái bóng cây kia ngồi, thì chắc thích lắm, anh nhỉ.
- Phải đấy.
Đào dắt Phi xuống. Phi theo kiểu nữ học sinh lót cái nón xuống ngồi. Gió đồng thổi lồng lộng vào mái tóc Phi, làm xổ tung ra, tóc rối xòa xuống mặt.
Phi cười:
- Chúng mình y như... y như... gì ấy anh nhỉ!
- Y như gì?
Phi không đáp, trễ nải nằm dài lên trên cỏ. Đào trân trân nhìn hai má Phi mơn mởn hồng lên. Phi e thẹn, nàng vội hỏi bâng quơ:
- Cây gì thế này anh?
- Chả biết!
- À, cây đa phải không anh?
- Chả biết!
- Có phải cứ mươi tết thì người nhà quê đi lấy lá đa về giắt mái tranh phải không anh?
- Chả biết!
- Giắt thế, để cho quỷ nó sợ, phải không anh?
- Chả biết!
Phi ngồi vùng dậy, quấn vội lại mái tóc, và cười khanh khách giục:
- Thôi, ngồi đây chán rồi, đi chỗ khác.
Đào đứng dậy theo Phi.
Trời vẫn nắng. Đến một cái lều tranh ở bên đường, Phi lại hỏi Đào:
- Cái gì thế này anh?
- Cái quán để ban đêm người ta trông rạ.
- Thế thì mình có vào được không?
- Vào làm gì?
- Vào trông rạ!
Đào nhìn Phi, cười.
Phi chạy vội vào trong quán.
Nhưng đến lúc Đào chạy theo kịp vào thì Phi lại chạy vội ra.
- Không có rạ, anh ạ, đi đi thôi!
Một đám mây dầy và to bay qua trời. Bóng mây rợp hẳn một khoảng và như trôi trên đóng lúa chín. Đằng xa, lấp loáng một dải nước trong lốm đốm những vệt xanh mầu mốc. Phi hói:
- Gì long lanh thế anh nhỉ?
- Đầm sen của trại.
- À, phải rồi, chúng ta ra đầm sen. Ra đi để em lấy mấy chiếc lá làm nón đội đầu.
Phi và Đào đi thơ thẩn như thế cho mãi đến khi mặt trời lặn mới về, cảnh nhà quê tím lại trong chiều hôm. Bà Cử lọm khọm chống gậy ra đón hai cháu mãi tận cổng ngoài. Trăng lên sáng tỏ. Trên sân gạch, trăng in những bóng đen lay động của các cây. Không khí bâng khuâng, êm đềm, huyền ảo....
Ba bà cháu lặng lẽ đi vào nhà, bà chóng gậy đi trước, hai cháu theo sau. Phi có cái tưởng tượng như Phi và Đào là hai môn đệ đang theo một đạo sĩ vào học phép lạ trong một cái động. Nhất là đằng cuối sân trong gian nhà thấp tối, lại chỉ thắp một ngọn đèn búp măng, ngọn nhỏ như một ngọn nến, làm cho Phi càng có một cái cảm giác bỡ ngỡ, thần tiên.
Và cái cảm giác bỡ ngỡ ấy, Phi còn mang theo với nàng vào mãi buồng ngủ. Mãi nàng không ngủ được.
Nàng thấy buồn bã nhớ, mà nàng chẳng biết nhớ ai. Nàng ngồi với ánh trăng mãi đến khuya. Trong đời nàng lần này là lần đầu nàng ngồi với trăng được lâu thế. Còn ở trường nàng cũng nhiều đêm ngồi xem trăng. Mùa hè ở Hà nội hôm nào sáng trăng nàng cũng lên chơi hồ Tây... Những lần ấy nàng cũng thấy trăng đẹp. Nhưng ánh trăng chỉ đẹp như một bức tranh, một cái đẹp lạnh lùng cho người ta chỉ thích mà không cảm. Lần này Phi thấy ánh trăng và cảnh vật dưới trăng như có một tâm hồn. Có nặng sương như sát vào nhau. Cây im lặng. Cây phù dung lả ngọn xuống cây cam. Phi tưởng chừng như cả cỏ cây đang ngả đầu vào nhau mà rủ rỉ trăm lời yêu đương. Những lời yêu đương ấy làm thành ánh sáng trăng. Ánh trăng tỏa ra khắp bầu trời và sáng lên tới một cõi cao vọt, xa xăm, trong ấy có một con thuyền.
Bỗng một điệu đàn violon đưa vẳng lại. Phi lẩm bẩm:
- À, anh Đào hãy còn thức! anh ấy cũng còn thức!
Phi mỉm cười một mình. Nghĩ đến Đào, Phi mới sực nghĩ ra là những cảnh nàng vưa mơ hồ thấy ban nãy, chỉ là những cảnh mà Đào đã tả trong những bài thơ tặng mình.
Phi thấy say say như uống một chút rượu. Phi cúi xuống cắn một cái vào cánh tay mình.