← Quay lại trang sách

Chương 1

Khi mùa xuân đến, Kim Liên nhớ lại rất nhiều chuyện cũ của mùa đông. Chuyện cũ mùa đông, nửa ấm nửa lạnh tinh tang đến bên nàng, giống như dòng suối nhỏ tan băng, mặt nước sáng trong vẫn còn một lớp băng mỏng, nhưng cái ấm áp bên dưới mặt nước đã nổi lên trên như lông ngỗng; và rõ ràng là đã vào xuân, hơi ấm đã đến với dãy núi Bá Lâu, đến với phố Lưu bên trong rặng núi không thể nào ngăn lại, nhưng lớp băng mỏng đó vẫn kiên cố y nguyên ở hai bên bờ suối. Kim Liên đang kinh doanh tiệm thời trang Kim Liên của nàng, ngồi trên chiếc ghế nhỏ ở cửa tiệm, nhìn người người qua lại trên phố, tiếng bước chân giống như tiếng mái chèo đập vào mặt phố. Tiếng rao bán bánh nướng, bán quẩy nóng bóng mỡ đập vào nhau trượt đi trên phố, hình như có người nhà quê đang cãi nhau gì đó với thợ rèn họ Trương ở tiệm rèn đầu kia con phố, rất nhiều người đã đóng cửa tiệm, bỏ việc kinh doanh để đi hóng hớt ở đầu phố đó. Đầu bên này phố lập tức yên ắng trở lại, chuyện cũ của ngày đông đã nhân cái yên tĩnh này, như mầm cỏ mùa xuân xanh um thành thảm cỏ trong đầu óc Kim Liên.

Khi ấy, tuyết trắng vẫn đóng dày phía bên khuất nắng của rặng núi, Kim Liên được Đại lang cưới về đầu phía bắc của phố Lưu này Kim Liên vốn dĩ không muốn lấy Đại lang, nàng chê anh ta nhỏ thó gầy guộc, hơn nữa đối nhân xử thế cũng khô khan, người nàng thích là Nhị lang nhà anh ta, Nhị lang thân hình cao lớn, vai rộng chân dài, là một người đàn ông thực sự, nhưng Đại lang thì lại không giống đàn ông, mà thực sự cũng không phải là đàn ông. Nàng nói với mẹ, con nhìn thấy Nhị lang nhà anh ta trên phố Lưu, nếu như Nhị lang lấy con thì con sẽ gả tới đó. Người mẹ bảo bà mối đã nói là Đại lang, trên đời này làm gì có cái lý mạch non chín trước mạch già? Nàng nói cả đời lấy Đại lang thì thiệt thòi cho số kiếp con quá, thà chết già ở nhà còn hơn. Hôn sự bị gác lại một thời gian đằng đẵng như vậy, cho đến năm sau khi nàng đi chợ ở phố Lưu về, ngầm cảm thấy sau lưng có người theo dõi, bước chân không nặng không nhẹ, như gần như xa, quay người lại nhìn, nhưng không thấy người đó là ai trong đám người đi chợ. Thế là, bước chân của nàng trở nên vội vã hơn, đi đến quán trà của bà Vương bên con đường ở dưới chân cầu đầu phố, nói với bà Vương vài câu chuyện phiếm, lại kéo cháu nội Vận Ca của bà hỏi vài câu vu vơ, đặt cốc trà xuống bàn, rồi bất ngờ đi ra khỏi gian nhà đó như bắt trộm, thì nhìn thấy Nhị lang đang bám theo nàng, có chút áy náy đứng bên ngoài nhà của bà Vương, trên mặt có chút xấu hổ, như thể cậu ta biết rằng lén lén lút lút bám theo một cô gái là một việc vô cùng không chính đáng. Nàng nói, anh đường đường là một nam nhi, bám theo tôi làm gì? Giữa thanh thiên bạch nhật anh to gan vậy sao?

Cậu ta sợ hãi lo lắng nói cô đừng tức giận… Cô có phải là Kim Liên ở sau núi không?

Nàng nói phải, có chuyện gì?

Cậu ta nói, cô hãy đến lấy chồng ở phố Lưu chúng tôi đi, lấy rồi thì không phải chạy mấy chục dặm đường đi chợ nữa, nói anh trai tôi có hơi lùn một tí, nhưng anh ấy nhân phẩm tốt, anh ấy lấy cô thì sẽ làm trâu làm ngựa hầu hạ cô. Có những người đàn ông đẹp trai, tướng mạo đàng hoàng, thân hình cân đối, nhưng họ sẽ ỷ vào tướng mạo, đi lăng nhăng với đàn bà con gái ở bên ngoài, về đến nhà thì hết ném bát lại đập đĩa, cô xem sống như thế nào tốt hơn? Nàng không nghĩ rằng Nhị lang lại có thể nói ra những lời đạo lý như vậy, như thể gái đẹp lấy trai xấu đích xác là phúc phận của nàng. Cậu ta nói trên phố chúng tôi có một người họ Lâm, nhìn còn đẹp trai hơn tôi, lấy một người vợ cũng như hoa như ngọc, nhưng mới cưới được ba hôm thì đã chạy theo một gái góa, cô dâu mới tức quá treo cổ chết luôn, gỡ dây cổ xuống người đã cứng như cục đá, cô nói xem cô ấy muốn cái gì? Chạy theo ngoại hình, nhưng lại khiến mình mất mạng. Cậu ta nói cô hãy lấy anh trai tôi nhé, lấy anh trai tôi, anh ấy đối tốt với cô, tôi cũng sẽ đối tốt với cô nữa.

Thế là, nàng liền ngơ ngác nhìn cậu ta, thấy chiếc xe hơi phi qua giống như một đám mây kèm theo tiếng sấm nổ trên con đường cái phía sau lưng cậu, khói bụi tung bay trên mái tóc dày của cậu, nhờ ánh mặt trời rực rỡ, những ngôi sao bụi đó hiện ra màu đỏ ánh kim trên ngọn tóc phát sáng của cậu, giống như có một tầng vụn đồng lóng lánh bay trên đầu. Khi nói những lời này, lúc đầu cậu ta còn có bộ dạng bẽn lẽn với chút lúng túng của một cậu trai mới lớn nhìn thấy con gái, nhưng chỉ sau vài câu, vẻ lúng túng và bẽn lẽn trên mặt cậu ta đã bay đi đâu mất, nói năng lưu loát trơn tru như lụa. Lúc đó nàng nghĩ, Nhị lang này biết nói năng, có lẽ sẽ là một nhân vật ở phố Lưu, có lẽ một đời sẽ làm nên nghiệp lớn. Nàng chăm chú nhìn khuôn mặt nét nào ra nét đấy của cậu ta, nhìn lâu như thiên trường địa cửu, nhìn từ bình minh đến hoàng hôn, cho đến khi có thể nhận ra cả màu tím nhạt mỏng manh nửa đỏ nửa xanh phát ra trong nốt ruồi đen nơi khóe miệng của cậu, nàng mới trịnh trọng nói một cách kinh thiên động địa:

Tôi lấy anh trai anh thì anh sẽ đối tốt với tôi như thế nào?

Chị dâu như mẹ, anh ta nói, tôi sẽ kính cô như kính mẹ mình.

Nàng nói, còn gì nữa?

Anh ta nói, cô nói gì cũng theo ý cô hết.

Nàng nói, nhà anh ở mặt đường chứ?

Anh ta nói, mặt đường mà.

Nàng nói, tôi lấy anh trai anh, không cần sính lễ gì cả, dùng tiền đó để mở một tiệm thời trang ở mặt đường, tôi bán quần áo, anh đi lấy hàng, có được không?

Anh ta nói, được, tiền kiếm về tất cả đều do cô quản.

Chính tháng Chạp năm đó, nàng đi lấy chồng ở phố Lưu. Hai đội nhạc khí, một chiếc xe hơi đưa nàng từ sau núi đến trước núi, chở đến phố Lưu phồn hoa trước núi, chở đến căn nhà mới vuông vức rộng rãi này. Sau khi lấy chồng nàng mới dần dần hiểu ra, lấy Đại lang nhưng nàng vốn dĩ không phải vì Đại lang, mà là vì Nhị lang. Nàng vì Nhị lang nên mới lấy Đại lang, vì để mỗi ngày có thể nhìn Nhị lang mới vào phòng tân hôn với Đại lang. Đêm động phòng, khi Đại lang phát hiện ra thân hình xấu xí của anh ta đứng trước thân hình ngọc ngà không chút bụi trần của nàng, cái vật của đàn ông cuối cùng vẫn mềm oặt như sợi mì giữa hai đùi anh ta, cho dù anh lao tâm khổ tứ thế nào, kích động thế nào, cái vật đó cũng lạnh lẽo như sương tuyết, luôn luôn thờ ơ không chút động lòng, như thể cái vật đó không phải là của anh ta, không mọc trên người anh ta, vĩnh viễn không có liên quan gì đến cái tình nam nữ hưng phấn trong đêm của anh ta. Thậm chí anh ta tự tát vào mặt mình ngay trước mặt nàng, nói sao ta lại vô dụng thế này, rồi lại dùng tay đánh vào cái vật đó của anh ta, nói tao có lỗi gì với mày; mà mày làm tao không thể làm được việc của đàn ông, nó cũng chẳng hưởng ứng gì mấy. Còn nàng, chỉ cảm thấy lộn mửa một cách kinh hoàng khi liếc qua cái vật đó của anh ta, muốn gục xuống giường mà nôn hết nước chua trong bụng, nhưng lại không thể nôn được cái gì. Nàng quay mặt sang một bên. Quay đến bên này bức tường, Đại lang đang mắng bản thân, mắng cái vật đó của anh ta, trong tiếng mắng oán hận đến chết đi sống lại đó, nàng nhìn thấy trên nước vôi trắng trơn nhẵn của bức tường có một mùi gạch mới màu đỏ sẫm đang bay lượn, nàng ngửi thấy mùi ẩm ướt mát mẻ của gạch như làn sương trắng trên mặt nước chầm chậm tỏa ra trong căn phòng tân hôn. Khoảnh khắc đó nàng không hề cảm thấy một chút bi ai nào trong số phận của mình, trái lại có một niềm hạnh phúc và may mắn tràn ra trong tim nàng, như thể nàng phát hiện ra thân thể mình cuối cùng cũng không ngay lập tức bị dập vùi rách nát dưới thân mình Đại lang, mà còn có thể để dành cho một ai đó khác, điều đó khiến cho nỗi hụt hẫng vì phải lấy Đại lang trong lòng nàng như được bù đắp, trong lời trách mắng bản thân vô dụng của Đại lang, nàng đã đi vào giấc mộng của mình, an toàn đi qua cái việc nam nữ trong đêm tân hôn, đi qua cái gọi là trăng mật.

Kim Liên cảm thấy nỗi đau khổ đổ ập xuống nàng sau thời kì trăng mật, để xây căn nhà ở mặt đường, Đại lang và Nhị lang đã lấy toàn bộ tiền tiết kiệm của gia đình, lại mượn người nhờ trưởng thôn Khánh viết giấy, đi đến quỹ tín dụng vay một khoản tiền lớn, mua đầy đủ hết gạch đá, sắt thép, xi măng, đinh vít, dây thừng, nửa tháng sau xây một căn nhà mái bằng ba gian sát mặt đường, một gian làm hành lang thông vào sân nhà bên trong, để mọi người có thể đi ra đi vào, hai gian còn lại thì chừa ra một gian có cửa lớn rộng rãi, lắp cửa xếp cuốn sắt theo mốt thịnh hành lúc bấy giờ, mời thầy giáo ở trường học viết năm chữ đỏ “Tiệm thời trang Kim Liên” ở phía trên cửa, từ đó, Kim Liên đã từ hộ nông dân trong núi chuyển thành hộ kinh doanh ở phố Lưu. Đại lang suốt ngày ở đồng ruộng, lúc cần cày ruộng thì cày ruộng, lúc cần gieo hạt thì gieo hạt, lúc cần ăn cơm thì về nhà ăn cơm, lúc cần ngủ thì lên giường thở vắn than dài cho cái sự bất lực của mình; Nhị lang thì nhanh nhẹn khỏe mạnh, mỗi nửa tháng, một tháng, thay Kim Liên đến Lạc Dương hoặc là Trịnh Châu nhập một lô hàng thời trang hợp mốt, giá thấp, gánh về nhà, thời gian rảnh rỗi, ngoài việc giúp anh trai đến làm ít việc trong mấy mẫu ruộng công đã bao thầu ba mươi năm, thì đi đi lại lại ở đoạn phố phồn hoa nhất, kể vài mẩu chuyện cười của người thành phố, thậm chí là của người trên tỉnh lị, bàn bạc vài câu chuyện phiếm về viễn cảnh quy hoạch nếu như phố Lưu trở thành một thành phố, trở thành một thành phố trực thuộc tỉnh thì thôn dân sẽ được sống cuộc sống trong mơ tươi đẹp thế nào, sau đó, dưới sự sắp xếp của trưởng thôn Khánh, đến những nơi tập trung buôn bán, giữ an ninh trật tự một chút, cuộc sống của cậu ta cứ hết ngày này đến ngày khác trôi đi như vậy. Còn Kim Liên thì sau khi khai trương tiệm thời trang, mỗi ngày đều ngồi trong tiệm, theo giá tiền mà Nhị lang đã ghi rõ, linh hoạt nâng giá lên không quá mười đồng để trông coi cửa tiệm, canh chừng thời gian, nhìn tiền giống như vòi hoa sen, chỉ cần mở cửa là ào ào chảy tới, nhất là mỗi khi Nhị lang nhập hàng mới về, các cô gái từ dưới thôn phấn chấn đến mua hàng, họ cũng như Kim Liên những ngày đầu, nhìn thấy quần áo hợp mốt thì chân đều mềm nhũn không nhấc lên nổi, dùng tay sờ sờ vuốt vuốt, cho dù thế nào cũng không muốn đi về người không. Những ngày tháng đó, Kim Liên bán hàng như thể không phải là vì bán hàng, mà thuần túy là để nhìn những cô nương chạc tuổi nàng kinh ngạc và ngưỡng mộ các món đồ thời trang mà nàng bán, để nhìn vẻ mặt cầu khẩn trên mặt các cô nương khi mặc cả phải nhìn sắc mặt nàng. Có lúc, khi nàng gặp vài cô gái cực kì biết mặc cả muốn mua bộ quần áo nào đó, liền nâng giá quần áo lên rất cao, nhất định không chịu hạ; nhưng khi nhìn thấy những người thật thà chất phác đến mua, nàng lại hạ giá đến sát đất. Còn có những lúc, nàng thấy một cô nương nào đó thực sự muốn mua hàng, nhưng lại không có tiền, cho dù bộ đồ đó đang cháy hàng, nàng cũng bán cho người ta với giá còn thấp hơn giá nhập. Sau khi bán rồi, nàng tưởng thế nào Nhị lang cũng trách nàng vài câu, mà cũng nên trách mấy câu, nàng đã chuẩn bị đâu vào đấy những lời nói với Nhị lang rồi, nhưng Nhị lang lại bảo, bù lỗ thì bù lỗ, bù vài bộ đồ nhưng uy tín tốt, buôn bán còn dài lâu mà. Những ngày tháng đó, suôn sẻ như con đường cái mở rộng từ phố Lưu chạy vào thành phố, thẳng ngay tắp lự, không một chút khấp khểnh gập ghềnh, muốn mặc gì thì vào tiệm chọn, mặc mấy ngày chán rồi thì lại có thể treo vào tiệm để bán tiếp, cửa hàng thời trang giống như tủ quần áo nhà mình; muốn ăn gì thì Đại lang từ ngoài đồng trở về nhà, treo cuốc xẻng lên mái hiên, rồi vội vàng xuống bếp nấu cơm theo yêu cầu của nàng. Ta sướng như tiên rồi, khi một mình ngồi rảnh rỗi và yên tĩnh trong tiệm thời trang, nàng lười biếng sưởi ánh nắng ngoài cửa, nhìn bước chân của những người qua đường vác bao lớn, bao nhỏ trên phố, nghĩ đến mình vì hôn nhân mà đột nhiên có được cuộc sống tốt đẹp, niềm vui từ trong lòng dâng lên khiến nàng cảm thấy như mình sau khi lặn lội qua bao nhiêu đường núi, đột nhiên có thể ngâm mình dưới lòng suối nóng, hạnh phúc ấm áp như rượu làm say thân thể và tâm hồn nàng, còn sự bất lực của người chồng Đại lang trong đêm, ngoài việc xót thương anh ta ra, nàng cảm thấy cuộc sống hôn nhân của họ bình an vô sự, có lẽ đó cũng chính là sự bù đắp cho những thiếu hụt trong cuộc sống hôn nhân của nàng, làm cho hạnh phúc của nàng càng thêm ấm áp, thần bí và bình yên. Nàng cảm thấy mọi thứ đều tốt đẹp, căn nhà, đường phố, không khí, lá cây, cột điện, bóng đèn, bát đũa, nồi niêu, hoa màu, cỏ mục, râu của đàn ông, tóc của đàn bà, thậm chí bãi phân nóng hổi mà chó, lợn nhà ai để lại trước cửa tiệm thời trang nhà nàng lúc sáng sớm, tất cả đều tràn đầy hơi ấm của cuộc sống. Từ đáy lòng, nàng cảm ơn Nhị lang lần đó đã bám theo nàng, nếu không phải Nhị lang bám theo lần đó, không phải đạo lý gái xinh lấy trai xấu mà Nhị lang nói đó, nàng sợ rằng hạnh phúc cả đời sẽ tuột đi, sẽ biến mất không tăm tích vì ý nghĩ sai lầm của nàng.

Nhưng, những ngày tháng bình yên như nước này chỉ được hơn một tháng, sau khi qua cái mà người ta gọi là trăng mật không lâu, sau khi làm xong tất cả những thứ rườm rà như về nhà chồng, lại mặt, đi thăm họ hàng thân thích theo tập tục, lúc nàng khóa cửa tiệm, cầm những áo quần không bán được trong tiệm đi làm quà tặng cho anh họ, em họ, nhà cô, nhà cậu mỗi người một chiếc, sau khi nhận được cả núi lời khen ngợi và rất nhiều ngưỡng mộ đối với cuộc hôn nhân của nàng, khi trở về nhà chồng ở phố Lưu, nàng đi qua quán trà của bà Vương đầu phố, Vận Ca mới mấy tuổi đang cời lò đun nước ở cửa, đảo đều những quả trứng trà* đang luộc, đảo đầu đũa, đập nứt vỏ của từng quả trứng để làm cho vị trà thơm nồng ngấm vào sâu bên trong từng quả trứng, lúc này nàng nắm lấy một nắm táo đỏ khô đem về từ nhà mẹ đẻ đưa cho Vận Ca, bà Vương đưa cho nàng một cái ghế, rót một cốc trà đặc, nàng liền ngồi ở cửa quán trà hai gian bên đường, sưởi ánh nắng xuân, ngơi nghỉ bước chân, và nói với bà Vương mấy câu chuyện phiếm.

Trứng luộc bằng nước trà.

Bà Vương nói, nhà mẹ đẻ đều tốt chứ?

Kim Liên nói, em gái Ngân Liên của cháu sắp cao hơn cháu rồi.

Bà Vương nói, mọi người đều nói dưới quê năm nay mất mùa đấy.

Kim Liên nói, không ngờ rằng phố Lưu này buôn bán gì cũng lãi.

Bà Vương nói, Đại lang thật tốt số, li hôn rồi ai cũng tưởng rằng anh ta khó lấy vợ hơn, không ngờ anh ta lấy được cháu, không chỉ xinh đẹp gấp mấy lần cô vợ cũ, còn không cãi nhau với anh ta, trong ấm ngoài êm, nói lấy nhau được ba ngày thì người vợ kia đã cãi nhau với anh ta, không đầy một tháng thì đòi li hôn, ngay cả Nhị lang quỳ xuống xin người ta, nhưng cuối cùng người ta vẫn li hôn với anh trai cậu ta rồi đi nơi khác lấy chồng. Khi bà Vương nói vậy, bà vừa đảo trứng trà dưới đáy nồi lên phía trên, đưa những quả trứng trà ở bên trên còn chưa dính nước đảo xuống dưới, nước dùng đặc sệt hiện ra màu đỏ sậm, mùi thơm như sợi tơ vấn vít bay trong không trung. Bà Vương không nhìn Kim Liên, nói chuyện như thể tự nói với mình, giọng nói khoan thai như độ tuổi thất thập của bà, thỉnh thoảng có xen vào chút run rẩy không thanh không sắc như tiếng giọt nước sắp rơi, trên mặt không thể hiện cảm xúc gì, cũng không tỏ vẻ gì, vĩnh viễn như một tấm vải nhăn nhúm vậy. Mấy năm trước, khi phố Lưu vẫn còn là thôn Lưu, một con đường quốc lộ chạy qua đầu thôn, chỉ trong một đêm đã đưa sự phồn hoa từ bên ngoài đến, cuối cùng đã khiến thôn Lưu có lịch sử cả trăm năm trong địa chí trở thành phố Lưu sừng sững, cùng với lượng xe cộ tăng lên, con trai hơn ba mươi tuổi mới thành hôn của bà đã chết dưới bánh xe của một tài xế say rượu. Một năm sau, trong một đêm đen, con dâu của bà đã bỏ Vận Ca mới sáu tháng tuổi chạy theo một người thợ mộc từ phương nam đến, trốn theo một cuộc sống khác, bà liền mở quán trà bên đường này, bà nuôi Vận Ca từ sáu tháng tuổi đến sáu tuổi, bà đã nhìn một cách thấu triệt cuộc sống và phố Lưu này, như thể nhìn thấu một bình thủy tinh lóng lánh, thấy đủ mọi thứ bên trong bình. Bà Vương sống là vì sống, nói là vì nói, nấu trứng trà là để qua ngày, cho đến khi đảo hết trứng trà, rồi lại bán mấy quả cho các bác tài dừng xe, để tiền thu được vào trong cái túi ni lông, cuộn lại nhét vào trong một cái túi áo may sát với người, mới nghĩ đến đoạn bà vừa nói này thì đã không kịp nữa. Dường như Kim Liên không tiếp lời bà, dường như Kim Liên đã đi rồi, đã không còn ở trước cửa quán trà của bà nữa, không biết từ khi nào sự yên tĩnh đã nổi lên phía sau lưng bà, đã sớm lan tràn khắp chốn. Bà từ từ vặn nhỏ cái bếp than tổ ong, quay người lại nhìn xuống dưới gốc cây mà Kim Liên ngồi, nhưng lại nhìn thấy Kim Liên vẫn ngồi ở đó, ôm Vận Ca vào lòng giống như người mẹ, chỉ là cánh tay lúc trước vén lại mái tóc rối trên đầu của Vận Ca sững lại trên đỉnh đầu cậu không động nữa, có một sắc hồng nhạt như giấy ướt dán trên má, khiến nàng vừa có chút xấu hổ, lại có chút ngây ngốc.

Bà Vương kinh ngạc chầm chậm dịch lại gần phía Kim Liên,

Trước khi kết hôn, cháu không biết Đại lang đã li hôn sao?

Kim Liên lại bắt đầu lấy tay chỉnh lại mái tóc trên đầu Vận Ca nói,

Có hơi biết một chút.

Bà Vương đến ngồi một cách khô héo trên chiếc ghế trúc,

Kim Liên, tôi đã nói những lời không nên nói rồi.

Kim Liên nói,

Nên mà, trước khi kết hôn cháu đều biết rồi, Nhị lang không giấu cháu tí nào.

Bà Vương nói,

Đại lang, Nhị lang có hỏi thì cô cứ bảo là tôi nói, tôi đã hơn bảy mươi tuổi rồi, không sợ gì nữa cả.

Trở về từ quán trà của bà Vương, cảm giác cuộc sống hạnh phúc vì lấy chồng trong lòng Kim Liên dần dần biến mất, giống như là một chậu nước bị người ta từng gáo một múc đi, một cảm giác trống rỗng chưa từng có, như có quả núi chất trong lòng, đè nặng khiến nàng không thể thở đều đặn được. Nàng không có cảm giác bị sỉ nhục như những người bình thường bị lừa dối và lường gạt, không có cảm giác xả giận phải chạy ngay về nhà đập bát đập đĩa, chỉ là ngay lập tức muốn nhìn thấy Nhị lang, hỏi xem điều này rốt cuộc là thế nào, nàng dường hiểu ra một chút, vì sao người ở phố Lưu mỗi lần gặp nàng đều gượng gạo, cười nói với nàng, hoặc là gật đầu, hoặc là nói vài câu nhạt nhẽo, rồi lại bước qua trước mặt nàng. Hóa ra nàng cứ tưởng người trên phố vì bận rộn, vì kinh doanh và kiếm tiền, không có thời gian như người dưới thôn, nhìn thấy nhau nếu không đứng ở trước cửa, đầu thôn thì cũng đứng ở cối xay, bên giếng, nói một hồi một chặp nhà họ Trương thế này, nhà họ Lý thế kia, bởi vì người trên phố hiểu nhiều biết rộng, thạo lễ nghĩa, không nói với cô dâu mới những lời thừa thãi không đâu, nhưng hóa ra là vì Đại lang là người đã qua một đời vợ, là vì đều biết Đại lang đã qua một đời vợ rồi, đều biết Kim Liên không hề hay biết Đại lang lấy vợ lần hai. Kim Liên cảm thấy kì lạ bởi biết mình bị lừa nhưng lại không cảm thấy tức giận gì cho lắm, khi đi trên phố, nàng nghĩ đến việc về nhà vứt nồi niêu xuống sân, ném những chiếc bát sứ xanh ngọc bích xuống đất, khiến Đại lang, Nhị lang đi qua hành lang của gian phòng mặt phố, vừa bước vào sân sẽ nhìn thấy ngay sứ xanh sắt đen khắp đất, vỡ tan như những cánh hoa vung vãi khắp nơi, sau đó sẽ kinh hoàng nhìn nàng, lắp bắp hỏi nàng, nhưng khi nghĩ đến Nhị lang không ở nhà, nghĩ đến Nhị lang vào thành phố nhập quần áo mùa xuân phải đến ngày mai mới trở về, ý nghĩ quăng mâm đập bát của nàng chưa kịp thành hình thì đã giống như mầm non gặp xuân hàn co lại. Ngay cả Đại lang, người chồng thực sự của nàng, trừ những ngày nàng về nhà mẹ đẻ không ở nhà, đã cùng anh ta chung giường chung gối hơn ba mươi đêm, nhưng nàng lại không muốn làm những điều này trước mặt anh ta, cho dù anh ta đã li hôn, cho dù anh ta đã từng có rất nhiều việc vợ chồng với người phụ nữ khác, nàng lại cứ đổ hết trách nhiệm lên đầu Nhị lang, em trai của anh ta.

Trở về nhà, Kim Liên thậm chí còn không tỏ thái độ gì với Đại lang. Đại lang đang rửa rau nấu cơm, ngồi xổm trước cửa bếp, thân hình bé nhỏ của anh ta cuộn chặt lại thành một vòng tròn như nắm tay của một đứa trẻ, nắm tay đó nhìn thì có vẻ rất có khí lực, nhưng Kim Liên biết rằng chỉ cần tẽ một cái là nó sẽ bật ra. Nàng tựa hồ lo lắng rằng chỉ cần hỏi khẽ một tiếng, bí mật trong bàn tay nhỏ đang nắm lại kia sẽ lập tức bày ra, cho nên chỉ đứng trong sân lặng lẽ nhìn Đại lang một lúc. Anh ta cảm thấy có bóng người thoáng qua trước mắt, ngẩng đầu theo bóng người nhìn lên, thì nhìn thấy vợ mình đứng cao vút trước mắt, gọi một tiếng Liên à, hỏi em về rồi à, lại hỏi nhà mẹ đẻ đều tốt chứ, tiếp đó bưng chậu nước rửa mặt đến cho nàng, bày khăn mặt trắng giống như đóa hoa sen nở ra trên mặt nước, đặt một viên đá xanh trước mặt nàng, sau đó nói đi về mấy chục dặm đường, vẫn chưa có xe bus, mấy cái xe bốn bánh nhỏ xóc lên xóc xuống còn mệt hơn đi bộ, anh nấu cho em một bát canh đậu xanh hay một bát canh trứng gà nhé? Anh ta vẫn như một kẻ nô bộc trước mặt nàng giống trước đây, nàng vẫn hưởng thụ cảm giác được trân trọng và vui vẻ của một cô gái đẹp trước mặt một người đàn ông xấu, thậm chí đến đêm, anh ta đã hai ngày không chạm vào người nàng, dùng tay cởi cúc áo, nàng cũng để cho anh ta tự do cởi cúc như những đôi vợ chồng khác. Anh ta lấy tay sờ bất cứ chỗ ngọc ngà nào trên thân thể nàng, nàng đều để mặc cho anh ta sờ, có đôi lần vì nôn nóng mà thô lỗ, làm đau da thịt của nàng, nàng cũng không hất bàn tay vốn nhỏ hơn tay người khác một vòng của anh ta đi như vứt đầu mẩu củ cải đã bị cắt bỏ ra chỗ nào đó giống như ngày trước. Nàng để anh ta tự do. Sự dịu dàng của nàng rõ ràng là rất khác với trước đây, hơn nữa còn không sao lý giải nổi. Ngay cả khi bàn tay ngày ngày cầm cuốc vác cày, thái rau rửa nồi thô tháp như cát sỏi của anh ta vô lễ thô bạo ở nơi non tơ thầm kín nhất trên thân thể mình, nàng cũng chẳng tỏ thái độ gì không vui với anh ta. Cho đến sau khi Đại lang chết, nàng nhớ lại việc đêm nay, nàng mới hiểu rằng sự bất thường này của nàng, hoàn toàn là để chứng thực Đại lang không chỉ đã li hôn, mà hơn nữa còn là li hôn vì điều gì.

Nàng ngủ thiếp đi trong lời mắng mỏ thậm tệ bản thân vô dụng của Đại lang, ngủ thiếp đi rồi nàng vẫn còn nghe thấy Đại lang đập đen đét cái vật vô dụng của anh ta, đến khi Đại lang mệt vì tự mắng mỏ, tự đánh đập mình rồi, áp cánh tay anh ta vào ngực nàng ngủ thiếp đi, nàng mới tỉnh lại từ trong mộng.

Tỉnh lại rồi thì nàng không thể ngủ được nữa.

Mắt cứ trân trân cho đến khi ánh mặt trời nhô lên sau triền núi loảng xoảng rơi xuống cửa sổ, nàng tính toán xem hôm nay Nhị lang nhập hàng về, nàng sẽ đập vỡ nồi niêu, bát đĩa trước mặt cậu ta như thế nào, mắng như tát nước vào mặt cậu thế nào, khiến cho cậu không còn mặt mũi nào phải quỳ xuống dưới chân nàng, sau đó, nàng sẽ lại nước mắt sụt sùi tố cáo hai anh em nhà họ đã lừa gạt nàng thế nào, khiến nàng bị nhục nhã thế nào, khiến nàng thấp kém, không có mặt mũi nào nhìn người khác, thậm chí sống không bằng chết ở phố Lưu, ở nhà mẹ đẻ nàng ra sao.

Mặt trời đã lên đến đầu phố, hơi ấm của phố Lưu tinh tang bay lượn khắp nơi. Những người đi chợ từ dưới thôn, đã có người cởi mũ, có người còn dứt khoát cởi áo bông, họ mang theo mùi vị của đồng ruộng, đất đai từ lưng núi đến, ngọt ngọt nhạt nhạt bay qua bay lại trước mặt Kim Liên. Kim Liên dựa vào khung cửa sơn đỏ của cửa sắt cuốn, nhìn bước chân của người đi đường như nhìn những đám mây bay đi bay lại, bay lại bay đi trước mặt nàng. Cuối cùng, sự tình tụ lại ở một điểm trước mắt nàng, tụ ở sắc mặt nàng nên thế nào, câu đầu tiên nên nói sao khi chỉ một lúc nữa Nhị lang sẽ trở về. Câu đầu tiên này cũng giống như chiếc chìa khóa đồng đỏ của cửa xếp cuốn trên đầu nàng, chỉ cần tìm ra câu đầu tiên, cửa xếp cuốn sẽ mở ra, bức màn sân khấu sẽ lập tức được kéo về hai phía vũ đài, ai nên diễn kịch, ai nên hát hò, ai nên thổi loại nhạc cụ nào, Kim Liên đều dự tính đâu vào đấy, ngay cả xông vào trong bếp, vứt nồi xuống chỗ nào trong sân, đập vỡ chí ít bao nhiêu cái bát, Kim Liên đều đã suy nghĩ chu toàn, nhưng nàng lại không tìm thấy cái câu phẫn nộ đầu tiên phải nói sau khi nhìn thấy Nhị lang.

Nàng cũng vì không tìm thấy câu đầu tiên này mà khổ não.

Ánh mặt trời chiếu vào vầng trán cao sáng của nàng, khiến mắt nàng có chút cay cay, chiếc áo khoác mỏng bằng lụa đỏ ánh ra trong ánh mặt trời như đốm lửa nhỏ thiêu đốt nàng. Trong nỗi khổ não đó, nàng có chút buồn ngủ, trong lúc buồn ngủ vẫn nghĩ đến câu đầu tiên mà nàng nên nói khi Nhị lang trở về. Những người đi hóng hớt trận cãi vã ở nhà thợ mộc Trương đều đã trở về rồi. Họ bước qua trước mặt nàng, nhưng lại không bàn tán về thợ mộc Trương, cũng không phải bàn về người dân quê vì cái cuốc chim của mình thiếu thép nên đòi đập nát cửa hàng thợ rèn, mà là về trưởng thôn Khánh. Họ nói rằng trưởng thôn Khánh chí cao như núi, nói trưởng thôn sẽ không bằng lòng với việc thôn Lưu chỉ trở thành phố Lưu, nói phố Lưu may mà có Khánh, không có Khánh thì phố Lưu nhất định còn nghèo như những người ở sau núi Bá Lâu.

Kim Liên nghe mọi người bàn tán, liền đứng lên khỏi ghế, để thoát khỏi cơn buồn ngủ nàng đi vào trong bóng râm. Một chị bán đồ sơn cước bước qua trước mặt nàng nói, Kim Liên hôm nay đã mở hàng chưa? Nàng nói Nhị lang vẫn chưa về, Nhị lang mà về thì bán hàng mới chạy. Chị ta liền đứng trước mặt nàng, nói cô biết chứ, trưởng thôn Khánh đã chạy ở trên rồi, muốn biến phố Lưu thành thị trấn, trở thành thị trấn thì sẽ sửa ngã ba trước mặt thành ngã tư; sửa thành ngã tư rồi, hai nhà chúng ta đều ở góc chính của ngã tư, ở góc chính thì chỗ này là đất vàng, khách qua lại cứ gọi là nườm nượp. Chị ta như bị kích động vì mong muốn phố Lưu trở thành thị trấn, lúc nói chuyện, mắt sáng lên như muốn tranh sáng với mặt trời, nước bọt từ khóe miệng chị ta bắn trên sống mũi Kim Liên. Kim Liên không quan tâm phố Lưu có trở thành thị trấn hay không, nàng chỉ quan tâm vì sao Nhị lang vẫn chưa về, cậu ta đi đã bốn ngày rồi, dù thế nào thì hôm nay cũng nên trở về rồi, nàng nghĩ sau khi gặp Nhị lang cuối cùng nên chất vấn cậu ta câu gì. Nàng nhìn theo hướng chị kia chỉ về phía đầu đường, trong đám người lại qua không có bóng dáng Nhị lang, lại nhìn thấy một chiếc xe khách phóng qua cửa tiệm của nàng, cũng không bóp phanh dừng lại, nàng liền quay đầu lại lau những chấm nước bọt trên sống mũi, nói với chị kia, phố Lưu sắp trở thành thị trấn thật sao?

Chị đó nói thật chứ nào có giả. Chị ta dường như còn muốn nói gì đó với Kim Liên, nhưng có người đến cửa hàng của chị ta mua quả óc chó, gọi mấy câu mà không thấy bà chủ, liền đi sang tiệm khác. Thế là, chồng chị ta từ trong nhà đi ra, mắng chị ta là lợn, rồi ném cả đôi giày đá bóng về phía chị. Chị ta né đôi giày cuốn bụi bay vù vù đó, cuống quýt chạy đi coi cửa hàng sơn cước của mình.

Kim Liên vẫn đứng trong bóng râm bên đường.

Kim Liên nhìn thấy có một chiếc xe tải loại nhỏ dừng ở góc ngã ba đường đang dỡ hàng.

Kim Liên nhìn thấy người ở trên xe đang giúp người khác chuyển thùng các tông xuống có chút giống với Nhị lang.

Kim Liên đi đến giữa đường, khum tay trước trán, che ánh mặt trời nhìn lên chiếc xe đó.

Tay của Kim Liên vừa đặt lên trên trán, thì lập tức đông cứng lại. Người đó quả nhiên là Nhị lang, cao to lực lưỡng, vai rộng chân dài, mặc một chiếc áo jacket màu xám mới, khóa kéo bằng đồng lấp lóe ánh sáng dưới nắng mặt trời, mỗi lần nhấc một thùng các tông, chiếc áo jacket lại chuyển động trên người cậu ta, khuôn mặt đỏ sậm đầy sức sống của cậu cũng căng chặt theo chiếc áo, như thể chiếc thùng các tông đó nặng đến hai, ba trăm cân* khiến cho khuôn mặt của cậu căng đỏ cả lên. Kim Liên vội vã đi về phía chiếc xe tải nhỏ đó, có khách đi đến tiệm thời trang của nàng. Nàng cũng không để ý tới khách. Nàng chỉ để ý đến việc đi về phía Nhị lang. Lúc này dù cho khách hàng có ăn trộm quần áo trong tiệm thời trang của nàng nàng cũng không quay lại. Nhị lang đã trở về rồi, nàng đợi Nhị lang đợi đến mức lửa đốt trong lòng, nàng hận không thể đâm sầm vào ngực Nhị lang ngay sau khi nhìn thấy cậu. Khi nàng bước về phía Nhị lang, bước chân loạn nhịp, tim đập thình thình, nàng nghe thấy có tiếng tàu hỏa sầm sập lao thẳng vào đầu mình. Cửa hàng san sát như rừng hai bên mặt phố đổ rạp sau lưng. Chiếc xe tải nhỏ chở hàng đó đi về phía nàng, nàng cảm thấy tiếng còi xe inh ỏi quất vào mặt nàng, cơ mặt nàng động đậy, tiếng còi đó lại rẽ đi về hướng khác.

1 cân = 0.5 kg (đơn vị đo cân nặng của Trung Quốc).

Nàng đứng khựng lại bên đường.

Cái đầu xe màu xanh lá cây của chiếc xe tải nhỏ sượt qua người nàng đi mất.

- Nhị lang.

Nhị lang quay đầu lại, bất ngờ nhảy từ trên xe xuống.

- Chị dâu.

Trong phút đường đột, nàng há miệng không nói nên lời. Nàng cảm thấy dường như Nhị lang đi lấy hàng về nhanh hơn mọi lần một chút, không chờ nàng nghĩ ra câu đầu tiên để nói với cậu thì đã trở về rồi. Như thể cậu ta từ trên trời rơi xuống khiến nàng không kịp trở tay, không kịp đề phòng, như thể đêm qua còn nằm mơ thấy một ai đó lên đường đi xa, buổi sáng tỉnh dậy mở cửa, người đó đã đứng ngay trước cửa. Nàng nhìn Nhị lang, trong lòng có chút hỗn loạn, lòng bàn tay toát ra một lớp mồ hôi, nàng lau mồ hôi tay trên chiếc áo khoác đỏ, đưa mắt nhìn theo chiếc xe hàng đã dừng lại.

Nàng nói, chú về rồi à? Đi chẵn bốn ngày rồi.

Cậu ta nói, về rồi. Lần nay đi Trịnh Châu, còn đi cả Vũ Hán nữa.

Nàng nói, mọi người bảo trưởng thôn muốn biến phố Lưu thành thị trấn.

Nhị lang sững lại, Nhị lang ngây ra nhìn nàng, như nhìn một kẻ lừa đảo.

Cậu ta nói, thật sao chị dâu?

Nàng nói, mọi người đều nói như vậy.

Cậu ta vung tay một cái, như thể vứt đi một vật gì đó, rồi lại như đón mạnh lấy vật đó.

Mẹ ơi, cậu ta nói, trở thành thị trấn thì có lẽ trưởng thôn sẽ trở thành trưởng trấn, dù thế nào em cũng phải lập tức trở thành chủ nhiệm phòng trị an, trở thành chủ nhiệm rồi, trưởng thôn trở thành trưởng trấn, thì em có thể làm đồn trưởng đồn công an.

Khi Nhị lang nói như vậy, cậu đưa ánh mắt rời khỏi người Kim Liên, cậu nhìn dòng người và nhà cửa trên con đường chính của phố Lưu, mắt nảy lên đôm đốp, giọng nói lại thấp xuống đến mức còn thấp hơn cả anh trai cậu một cái đầu. Kim Liên lúc này đứng trước mặt cậu ta, thanh tú dịu dàng, giống như nhành liễu mới mọc đầu năm. Trong phút chốc, nàng cảm thấy có chút lạnh giá, gió từ vạch ngang của ngã ba đường phía sau người nàng thổi lại, nhưng nàng cảm thấy, ngọn gió lạnh lẽo đó đến từ Nhị lang, em chồng của nàng.

Năm đó, tính cả tuổi mụ Kim Liên là hai mươi, Nhị lang là hai mươi ba, còn Đại lang đã hai mươi sáu tuổi.