Sáu
Hai anh em đi hết một cái dốc, rẽ sang bên trái một quãng ngắn là đến nhà giáo sư Cuội. Nhà giáo sư Cuội ở bên số lẻ. Lạ lùng thay, căn nhà này cũng xây cất theo hình trôn ốc. Con Hương khe khẽ hát “Lặng yên ta nói Cuội nghe, ở trên cung trăng mãi làm chi”.
Lúc đó giáo sư Cuội đang ngồi soạn bài giảng cho sinh viên Đại học Văn khoa. Giáo sư ngậm điếu thuốc lá Cẩm Lệ, miệng mũi thở khói, tay viết lia lịa. Giáo sư Cuội đấy. Thế mà ở Việt Nam hàng ngàn đám mây mù huyền sử bọc kín lấy cuộc đời ông.
Cổ tích thì kể rằng Cuội mồ côi bố mẹ, ở với chú thím, chuyên “đi ra dối cha, về nhà dối chú” và xạo với tất cả mọi người. Cái tội nói dối này bị trời xử phạt rất nặng là xích chân ở gốc cây đa trên Mặt Trăng.
Ca dao thì kể rằng:
– Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ thời cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Lại có ca dao kể khác rằng:
–Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Thờ cha trong miếu có ba đồng tiền.
Đồng tiền mua trống, mua kèn,
Đồng thì mua mỡ đốt đèn thờ vong.
Ấy đó, cuộc đời sự nghiệp của giáo sư Cuội đã sai be bét. Cổ tích bảo Cuội mồ côi cha mẹ. Ca dao bảo cha Cuội đi cắt cỏ, mẹ cưỡi ngựa mời quan viên và chết Cuội có ba đồng tiền? Vậy là thế nào? Bổn phận của nhà báo Chương còm phải khám phá ra sự thật.
Chương còm gõ cửa. Có tiếng vọng ra:
– Ai đó?
Chương còm không biết xưng hô làm sao cho đúng. Bèn đáp:
– Chương còm đây giáo sư Cuội ạ!
Giáo sư Cuội đưa tay xoa cái đầu nhẵn thín như hòn đá Cuội:
– À, người quê hương ta…
Giáo sư Cuội chạy ra mở cửa. Vừa thấy mặt giáo sư Cuội, con Hương đã ôm bụng cười ngất. Chương còm bấm tay em. Nhưng con Hương cứ cười. Giáo sư Cuội nhe răng. A, hàm răng giáo sư Đại học Văn khoa Mặt Trăng có hai chiếc bịt vàng. Giáo sư Cuội cười hề hề. Rồi cười rống dữ dội hơn cả con Hương. Khiến Chương còm cũng phải cười. Mọi người trong nhà, mở tung cửa, ào ra sân vỗ bụng làm trống cơm, cười như điên, như dại. Trận cười kéo dài năm phút. Rồi im bặt. Mọi người ở khu phố của giáo sư Cuội, kéo vào nhà. Thì, bỗng con Hương ré lên mấy tiếng cười…tàn. Thế là hàng trăm người lại cười hơn sấm sét.
Giáo sư Cuội vỗ vai con Hương:
– Em bé Việt Nam thông minh quá.
Chương còm ngạc nhiên:
– Nó hỗn láo tại sao giáo sư khen nó?
Bây giờ trận bão cười chấm dứt. Giáo sư Cuội thân mật mời anh em Chương còm vô nhà. Giáo sư nói:
– Cười là dân tộc tính Mặt Trăng, nó cần thiết như cơm, nước và tình thương yêu. Kẻ nào biết cười, kẻ ấy được dân Mặt Trăng kính trọng. Các em đã được họ cảm mến rồi đó.
Con Hương hỏi một câu vớ vẩn:
– Giáo sư bị cúm hở?
Giáo sư Cuội gật cái đầu trọc:
– Ừa!
Con Hương móc túi lấy hai viên “Coọc tan”:
– Giáo sư uống đi, năm phút sau khỏi liền tù tì…
Giáo sư Cuội khen con Hương:
– Em “đề” quá!
Con Hương phụng phịu:
– Giáo sư đọc tên ông ngoại Hương rồi. Ông ngoại Hương là Nguyễn Ngọc Đề mà…
Giáo sư Cuội xoa đầu Chương còm:
– Còn em, em là anh hùng dân tộc.
Con Hương vênh mặt:
– Giáo sư lại đọc tên ông nội Hương nữa. Ông nột Hương là Vũ Mộng Hùng.
Giáo sư Cuội thở dài:
– Khó quá xá.
Rồi giáo sư lảng chuyện khen:
– Làm sao em Hương có thuốc “Coọc tan”?
Con Hương có dịp “khoe” mẹ nó:
– Úi giời ơi, mẹ cháu rắc rối lắm. Đi đâu xa là mẹ cháu bắt mang theo đủ các thứ thuốc nhức đầu, cảm mạo. Lại có cả dầu cù-là, dầu chổi Huê Kỳ, dầu Nhị Thiên Đường, dầu An-côn đờ măng. Giáo sư có đau bụng không? Một giọt An-côn đờ măng là hết nhăn nhó…
Giáo sư Cuội nghĩ thầm:”Con bé này đi bán thuốc cao đơn huờn tán với gánh xiệc thì nhất”. Chợt, giáo sư nhớ ra một điều:
– Hai em đừng gọi anh là giáo sư nữa nhé! Cứ kêu đại anh là…anh Cuội đi. Cho nó thân mật.
Con Hương vồn vã trước:
– Anh Cuội ơi, anh uống thuốc đi!
Cuội (giờ khỏi gọi là giáo sư) toét miệng cười:
– Anh đi uống đây.
Cuội rót nước nóng, uống hai viên “Coọc tan” liền. Nó cảm thấy tỉnh táo ngay. Và nó vào chuyện với Chương còm, Hương nhè như gió.
– Anh rất tiếc không tới dự cuộc tiếp tân khoản đãi hai em. Nhưng anh báo cho Chương còm biết Viện Đại học Mặt Trăng đã gửi giấy mời em tới diễn thuyết.
Chương còm giật mình đánh thót một cái:
– Em diễn thuyết hở, trời!
Cuội cười toe:
– Chứ sao. Anh đây còn là giáo sư Đại học Văn khoa cưa mà.
Con Hương phá ngang:
– Anh ơi, tại sao tên anh là Cuội?
Cuội chớp mắt lia lịa. Kỷ niệm khốn khổ của đời nó vừa hiện ra. Đó là chuỗi kỷ niệm khốn khổ dài lê thê của một đứa bé mồ côi bố mẹ, phải sống nhờ chú thím. Thím hành hạ. Chú hắt hủi. Cuội bị đối xử tàn tệ hơn cả đứa đầy tớ. Nó không được đi học. Suốt ngày chăn trâu ngoài đồng, mưa nắng dãi dầu. Một hôm đói quá, Cuội bỏ trâu đi vào xóm xin khoai nướng ăn. Trâu húc nhau văng mạng và chạy bừa xuống ruộng lúa. Chú Cuội đánh Cuội một trận thừa sống thiếu chết. Thím Cuội xích chân nó vào gốc cây cau sau nhà, bỏ Cuội đói khát hai ba ngày liền. Cuội chết lả. Khi nó tỉnh dậy nó thấy nó lơ lửng trong bầu trời. Một người có bộ râu dài quá rốn ôm nó bay lên cao, cao tít. Đến lúc ông già này đặt nó xuống đất, nó mới hỏi han. Thì được biết ông già là Thần Kim Quy.
An Dương Vương xây thành trì để ngăn chặn rợ Hán xâm lấn cứ bị loài yêu quái tức là bọn Hán nằm vùng phá hoại. Xây bao năm trời cũng không xong. Bấy giờ, có một nhà hiền tài là Thần Kim Quy thương hại An Dương Vương ghê lắm. Kẻ sĩ có quyền thương hại vua. Vua không có quyền thương ai cả, chỉ có bổn phận làm cho dân hạnh phúc thôi.
Thần Kim Quy là một kiến trúc sư kỳ tài, mặc dù, ngài chẳng có cái “pờ ri” nào ở La Mã cả. Bởi vì, khi Việt Nam đã biết dùng đồ sắt (Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt đánh nát giặc Ân), bởi vì khi Việt Nam đã có Thần Kim Quy thì La Mã, nơi tượng trưng cho văn minh Âu châu hãy còn ngụp lặn trong bóng tối dầy đặc của man di mọi rợ. Dân tộc Việt Nam mới là dân tộc văn minh trước nhất của loài người.
Ẩn sĩ Kim Quy vẽ tặng An Dương Vương cái họa đồ Loa Thành. An Dương Vương theo đúng họa đồ của kiến trúc sư Kim Quy xây cất thành Cổ Loa. Thành giống hình thù con ốc, dưới lớn trên nhỏ tức là con ốc úp xuống, kiên cố vô cùng, rợ Hán hết bề xâm lấn. Cổ Loa thành xây xong, loài yêu quái bó tay. An Dương Vương mang ơn kiến trúc sư Kim Quy, phong chức tước, bổng lộc cho Kim Quy. Nhưng Kim Quy từ chối.
Trước khi rời kinh đô về ẩn nơi thâm sơn cùng cốc, Kim Quy dâng An Dương Vương một quốc sách. (Sử chép Thần Kim Quy dâng vua một cái móng. Vua lấy cái móng rùa này làm cái nỏ gọi là nỏ thần. Hễ có giặc tới đánh, đem nỏ thần ra bắn một phát là giặc tan). Kim Quy chỉ dẫn An Dương Vương xử dụng quốc sách này. An Dương Vương mừng lắm, đem ra áp dụng ngay. Tức thì trong nước dân chúng ấm no hạnh phúc. Không có cảnh bóc lột khốn khổ. Dân thương quân, quân kính dân, mọi người thương yêu nhau, nhường nhịn nhau, cùng nhau luyến lưu, gìn giữ quê hương. An Dương Vương không ăn cắp công quỹ, nghèo mạt rệp, tận tụy vì đất nước, vì trăm họ đến nỗi nám phổi. Nên dân chúng càng kính mến An Dương Vương.
Mỗi lần có giặc xâm lăng bờ cõi, An Dương Vương kêu gọi dân chúng bảo vệ tổ quốc. Thì tất cả mọi người già trẻ trai gái đều vùng lên đuổi giặc. Và giặc mạnh như vũ bão vẫn thua tơi bời trước sức mạnh đoàn kết quân dân dưới thời An Dương Vương. Quốc sách mà Kim Quy dâng An Dương Vương hay như vậy đó. Các nước ngoại bang muốn thôn tính Việt Nam đành bó tay.
Bấy giờ có tên Triệu Đà vốn mang nhiều máu của rợ Hán biết được một điểm yếu của An Dương Vương. Hắn đã nghĩ nát óc mới vớ nổi điểm yếu này. Và hắn ta cương quyết thực hiện một âm mưu xâm lăng êm ái. Chả là, An Dương Vương có mỗi mụn con gái Mỵ Châu. Ngài cưng Mỵ Châu lắm. Tới tuổi cập kê, An Dương Vương muốn tìm chồng cho Mỵ Châu rồi trao ngôi báu cho nàng và về dưỡng già ở chân núi Sóc, viết cuốn “Văn Minh Hồng Bàng” cùng sáng tác một bộ trường thiên lịch sử tiểu thuyết dài 5000 trang. Nhưng con trai các vị thượng thư toàn lũ xấu giai. Anh này không rổ thì sứt môi. Anh kia mặt mũi khôi ngô thì lại thọt… Trong dân giả chẳng ai thèm lấy con vua. Đời sống có tự do, hạnh phúc là tiên rồi. Làm vua chỉ mang tội vào thân. Cúc cung phục vụ dân chúng đến ho lao, đâu được hưởng cảnh thơ túi, rượu bầu trên con thuyền nhỏ, dưới ánh trăng trong “cùng với giai nhân sống ngoài vòng cương tỏa” . Kiểu này Mỵ Châu dám ế chồng lắm à…
An Dương Vương buồn bã. Đốc-tờ chiếu phổi cho ngài bảo phổi ngài nám nửa lá rồi. May sao, một hôm có chàng phong lưu công tử cưỡi con ngựa trắng lỏng buông giây cương, tha thẩn trong đường phố kinh kỳ. Mỵ Châu đang ngồi làm tóc ở tiệm Elizabeth bỗng trông thấy chàng.
Đôi mắt nàng sáng rực cơ hồ đôi mắt trong cổ tích. Nàng bắt con tì tất tên là Liên Tử theo rõi chàng phong lưu công tử. Bất ngờ, chàng phong lưu công tử cho ngựa bước tới gần cung điện. Và lôi cây lục huyền cầm Y Pha Nho dắt ở yên ngựa bên phải y hệt cây súng dài của dân coi bò miền Tếch-xa thuở dân Mỹ còn ăn lông ở lỗ, dã man thượng thặng.
Chàng phong lưu công tử bắt con tuấn mã đứng im. Và tay búng sáu sợi giây, tay bấm “ác co” miệng ca bài “ò e Rô be đánh đu, Tạc giăng nhảy dù, cao bồi bắn súng. Chết cha, con ma nào đây, làm tao hết hồn, thằn lằn cụt đuôi”. An Dương Vương đang ngồi đọc sách bỗng gấp sách lại, chạy ra cửa sổ, ngó xuống đường. Chàng phong lưu công tử “xô lô” một bản đờn thật tha thiết. Rồi ca bài khác:“Hoan hô bàn tay anh cầm cần câu, đã câu được ba con rô, bốn con mè, năm con chép..” An Dương Vương vỗ tay khen hay. Bèn mời chàng phong lưu công tử vào “buya rô” hỏi han sự tình.
Vừa khi đó, Mỵ Châu làm tóc đã về. Nàng xịt keo khiến mái tóc của nàng cứng như rễ tre. Câu ca dao “Tóc rễ tre em chải lược bồ cào” xuất xứ từ mái tóc của Mỵ Châu. Nàng giáp mặt chàng phong lưu công tử thì thẹn đỏ mặt mũi. An Dương Vương giới thiệu với con gái yêu:
– Gã này hát hay hơn…sẩm!
Chàng phong lưu công tử cười khiêm tốn:
– Tâu bệ hạ, tui ca còn kém sẩm ngoài chợ.
An Dương Vương phán:
– Trẫm muốn thưởng thức một chương trình đại nhạc hội, mi nghĩ sao? À mày là gì?
– Bẩm, nhà cháu tên là Trọng Thủy.
An Dương Vương âu yếm cầm tay con gái:
– Con nhỏ này tên là Mỵ Châu. Ta là vua, con ta là công chúa, mi biết không?
Trọng Thủy cười tình:
– Bẩm biết hết trơn.
Sau câu chuyện…văn nghệ, Trọng Thủy ở ì trong cung điện, đi lại khắp chỗ kể cả những chỗ bị ngăn cấm vì sợ bí mật quốc phòng lộ ra ngoài. Nhờ đẹp trai nên được Mỵ Châu yêu, nhờ hát hay nên được An Dương Vương khoái, Trọng Thủy mới rảnh tay để thi hành âm mưu của Triệu Đà. Chiều chiều, Trọng Thủy thường đánh “tê lê típ” bằng mật mã về nước cho bố mình là Triệu Đà biết rõ cách trị dân của An Dương Vương. Triệu Đà vẽ kế hoạch, sai người vượt tuyến đem sang cho Trọng Thủy.
Lập tức Trọng Thủy xúi An Dương Vương mở các sòng bạc, cho phép chọi gà, xây nhiều trung tâm giải trí để các vị Bộ trưởng và phu nhân vui chơi. Hễ có sòng bạc là có kẻ thua. Kẻ thua không đâm đầu vô xe tự tử thì tìm cách ăn cắp. Các vị Bộ trưởng đã ăn cắp công quỹ. An Dương Vương mê đỏ đen đâm ra bê bối, giao việc quốc gia cho Trọng Thủy. Trọng Thủy một mặt sát hại nhân tài của An Dương Vương, một mặt tăng đủ thuế và giảm lương lính. Khiến quân dân oán ghét An Dương Vương vô cùng, chỉ mong An Dương Vương chết đi. Triều đình nát bét. Cờ bạc rượu chè năm này qua năm khác. Dân gian ly tán. Trộm cướp nổi lên như rươi.
Hiền tài Kim Quy chống gậy xuống núi về kinh đô gặp An Dương Vương. An Dương Vương nghĩ tình xưa, tiếp Kim Quy mười lăm phút. Kim Quy khuyên vua hãy vì giống nòi Bách Việt trừ khử ngay Trọng Thủy. Kế hoạch quốc phòng và quốc sách đã bị Trọng Thủy khám phá hết. Vua dùng nó là dùng một tên địch nằm vùng. Muốn cứu dân cứu nước, trước hết, phải quy tội cho Trọng Thủy rồi đem nó ra pháp trường xử tử để trăm họ đều hay. Sau đó, dẹp các sòng bạc, hỏa thiêu các trung tâm giải trí, bãi bỏ thuế hai năm, tăng lương quân đội gấp đôi và “rèn quân chỉnh cán” đề phòng giặc xâm lăng.
An Dương Vương cười hề hề. Thần Kim Quy buồn bã. Mười lăm phút ngắn quá, không đủ thì giờ “giác ngộ” ông vua bê bối. Mấy lần sau, Kim Quy xin yết kiến, vua sai người tặng tiền Kim Quy và từ chối không tiếp. Trọng Thủy được mật báo, cho người ám sát Kim Quy. Hiền tài Kim Quy chết dưới chân thành Cổ Loa và hiển thánh. Ít lâu sau, Triệu Đà khởi binh đánh An Dương Vương. Dân oán, quân ghét, chẳng ai thèm đánh giặc. Nhờ thế, Triệu Đà cướp nước của An Dương Vương. Kim Quy chờ tới phút này mới chỉ mặt An Dương Vương mắng một chập rồi bay lên mặt trăng. Khi bay lên, ông đem theo cả Cuội.
Kể xong tiểu sử đời mình, Cuội thở dài:
– Nước Việt chúng ta không ngóc đầu lên nổi là vì bọn vua quan dốt nát, ngu xuẩn. Anh hy vọng thế hệ búp bê mai này sẽ đưa nước Việt về nguồn. Anh sẽ dẫn hai em tới gặp Thần Kim Quy. Ta đến mộ của ngài cầu cơ, ngài phải hiện lên tặng dân tộc ta một quốc sách.
Chương còm rút cuốn sổ ra. Làm báo là vậy. Ai nói gì cũng phải ghi chép cho đầy đủ và đúng. Viết văn có quyền tưởng tượng. Chứ viết báo mà tưởng tượng thì không …có lương tâm và bị ra toà án. Cuội biết thóp Chương còm, cười hê hê:
– Tính phỏng vấn anh chăng?
– Dạ.
– Phỏng vấn đi!
– Thưa anh, nhà cửa, công thự ở Mặt Trăng đều kiến thiết theo hình con ốc. Phải chăng kiến trúc sư Kim Quy đã vẽ hoạ đồ?
– Đúng.
– Anh là người có công phổ biến văn hoá Việt trên Mặt Trăng. Và anh đã phổ biến bằng cách nào?
– Bằng bộ “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” của cụ Trần Trọng Kim.
– Thế nghĩa là Mặt Trăng mới được hấp thụ văn hoá nước ta ngót trăm năm nay?
– Đúng.
– Còn tiếng nước ta?
– Anh dạy họ nói từ mấy nghìn năm rồi.
– Tại sao anh sống lâu thế?
– Vì Hằng Nga cho anh liều thuốc trường sinh của Hậu Nghệ.
– Mặt Trăng có bao nhiêu người bất tử tất cả?
– Bốn người. Tứ bất tử: Hằng Nga, Nguyễn Tiếu Lâm, Lưu Hài Hước và anh.
– Em có thể tiếp kiến Hằng Nga được không?
– Tại sao?
– Hằng Nga bị Hậu Nghệ bắn tên trúng cẳng. Nàng bị cưa một chân đi đâu phải chống nạng. Nàng buồn và hối hận phụ chồng, nên sau khi uống thuốc trường sinh nàng cạo trọc đầu đi tu. Giờ nàng không tiếp ai. Quanh năm ngày tháng đọc “Gia Huấn Ca” của Nguyễn Trải.
– Thưa anh, ai bảo anh phổ biến văn hóa Việt bằng bộ sách “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”?
– Cụ tổ Hồng Bàng. Cách đây mười mấy năm, chính cụ Trần Trọng Kim khuyên anh nên “rinh” bộ sách này lên đây. Vì ở nước ta, giờ có nhiều giáo viên soạn sách giáo khoa…đợt sóng mới. Sách giáo khoa có cả thơ đả đảo Cộng sản và hoan hô Ngô Đình Diệm thì nhất rồi. Nên Bộ Quốc Gia Giáo Dục mới chê bộ sách tuyệt vời của cụ Trần Trọng Kim. Giờ chỉ có Mặt Trăng được hân hạnh vỡ lòng chữ Việt bằng bộ sách cao quý “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”.
– Thưa anh.
– Gì em?
– Em hỏi câu này anh đừng giận nhé?
– Ô kê
Con Hương kê khẽ giáo sư Cuội:
– Mặt Trăng chê tiếng Mỹ là thứ tiếng nhà quê, tại sao anh còn ô kê?
Giáo sư Cuội cười xòa:
– Anh quen miệng. Từ nay anh hứa sẽ không thèm ô kê nữa.
Chương còm phỏng vấn tiếp:
– Anh hứa đừng giận nhé?
– Anh hứa mà.
– Nhất định nhé!
– Ừa!
– Nếu anh giận thì sao?
– Đứa nào giận, đứa ấy chết lòi ruột.
– Thưa anh, tại sao đầu anh lại nhẵn thín như hòn đá cuội vậy?
Cuội phá ra cười. Nó xoa tay lên đầu:
– Đố các em biết tại sao đầu anh lại nhẵn thín?
Con Hương liếm môi:
– Dễ ợt.
Cuội hỏi:
– Tại sao?
Con Hương bẻ đốt tay “rắc” một cái:
– Tại hồi mới sanh, mẹ anh tắm cho anh, mẹ anh lấy khăn kỳ mạnh đầu anh nên nó nhẵn thín chứ gì?
Giáo sư Cuội nhún vai:
– Sai rồi.
Chương còm phỏng vấn:
– Thế tại sao?
Cuội nhe răng cười. Và nhờ đó Chương còm biết thêm Cuội có hai cái răng vàng.
– Tại vì anh chăm chỉ, ngoan ngoãn, ai cũng xoa đầu anh, khen ngợi anh nên tóc nó rụng hết.
Con Hương nghiêm trang:
– Anh có muốn mọc tóc không?
Cuội hớn hở:
– Muốn lắm chứ, có tóc anh sẽ mua “bờ ri ăng tin” chải cho mượt. Anh khoái chải kiểu…”tăng gô si noa”.
Con Hương xoa tay:
– Tiếc quá, thôi để em gửi thuốc mọc tóc cho anh. Mà bưu điện trên này có ăn cắp đồ không hở, anh?
Cuội lắc đầu:
– Trên này không ai nói hai tiếng “ăn cắp”. Em yên tâm mà gửi thuốc mọc tóc cho anh.
Chương còm ngậm ngón tay trỏ giữa hai hàm răng. Cuội hất đầu:
– Em tập viết báo hả?
– Không.
– Thế sao hỏi và ghi chép kỹ lưỡng vậy?
– Ghi giùm bố em.
– Bố em làm báo?
– Vâng.
– Em có muốn làm báo không?
– Bố em thích em trở thành một chuyên viên ngành điện. Bố em bảo đất nước ta nhất định phải kỹ nghệ hoá thì mới mở mặt được. Khi hết chiến tranh, đất nước ta cần rất nhiều chuyên viên. Nếu ai cũng ham văn chương, luật liếc thì thiếu bàn tay xây dựng. Bố em bảo rồi đây, một người thợ sẽ được trọng vọng hơn một ông tiến sĩ. Bố em có làm một bài thơ mà bố em đặt tên là “Giấc Mơ Kỹ Nghệ Hoá”…
– Em thuộc bài thơ đó không?
– Dạ, em thuộc.
– Ngâm..tao đàn đi!
– Anh biết thổi sáo chứ?
– Sáo là tiếng buồn nhẹ nhàng, man mác của quê hương ta. Ôi, tiếng sáo diều lơ lửng bầu trời mùa hạ, ôi tiếng sáo trúc mê hồn, anh phải thích, phải biết thổi chứ em…
Giáo sư Cuội rút ống sáo ra. Nó thổi dạo đầu một điệu. Và Chương còm ngâm:
Sáng sớm ra bờ sông
Nhìn về phía Ba Son
Thấy khói tuôn mù mịt
Bỗng yêu dấu Sàigòn.
Biết tại sao anh thích
Những ống khói đen sì
Những hồi còi rền rĩ.
Những chuyến tàu đến, đi.
Tương lai con mình đấy
Em ơi, đất nước này
Sắt thép và nhà máy
Cuộc đời sẽ đổi thay.
Chờ anh ngâm dứt mười hai câu thơ, con Hương hỏi Cuội:
– Thơ cù lần quá hén anh?
Cuội vẩy ống sáo:
– Đường được, không tồi tệ lắm đâu. Bố em chịu khó tập thêm, thơ bố em có hy vọng đăng ở báo Sàigòn Mới.
Anh em Chương còm cười khúc khích. Bây giờ, Chương còm mới hỏi cái câu mà nó sợ Cuội giận:
– Thưa anh, anh trồng cái răng vàng ở đâu đấy ạ?
Cuội nhe răng:
– Trồng ở Khánh Hội, tiệm Ba Tầu. Nó viết “bịch răng” anh phải sửa giùm “bịt răng“.
Chương còm hết thắc mắc. Nó thừa hiểu tại sao Mặt Trăng vô số nhân tài. Chuyện nhảy dù xuống Khánh Hội bịt vài cái răng vàng nào có nghĩa lý gì so với chuyện “thuổng” tài liệu khoa học Nga, Mỹ của ông Nguyễn Tiếu Lâm.
Anh em Chương còm được giáo sư Cuội cho uống xá xị Con Gấu và ăn kẹo dồi chó. Giáo sư Đại học Văn khoa nhìn hai đứa bé quê hương Việt Nam đau khổ nhai kẹo dồi chó một cách ngon lành. Bất giác, hai hàng lệ ứa ra:
– Này hai em, bốn người Việt giỏi nhất thế giới là Kim Quy, Tiếu Lâm, Hài Hước và anh đây muốn về giúp đỡ xứ sở nhưng không thể về được. Không phải vì nước ta nghèo nàn trả lương ít, và “bị” thi hành quân dịch, mà vì chúng ta xa quê hương, đất nước mấy nghìn năm nay, trở về đồng bào không nhận chúng ta nữa. Kẻ xa quê hương lâu ngày đi hưởng sung sướng ở miền đất khác, còn mặt mũi nào nhận quê hương. Nên chúng ta nhờ Tiên nguyên tử mang các em lên đây để nhận một quốc sách của Kim Quy hiến dâng dân tộc mẹ. Sinh ở lòng đất mẹ phải biết cách đền đáp mẹ. Mặt Trăng thừa sức chinh phục càn khôn nếu Kim Quy tặng một quốc sách. Nhưng Kim Quy đã để dành tặng đất nước Việt Nam.
Con Hương ngắt ngang lời Cuội:
– Kim Quy chết nhăn răng rồi mà.
Cuội nói:
– Hiển thánh là bất tử. Hiện giờ Kim Quy cư ngụ tại một ngôi đền gần nghĩa địa.
Con Hương cong cớn:
– Sao anh bảo phải cầu cơ?
Cuội cuời:
– Anh nói dối chút xíu.
Con Hương kê luôn:
– Hèn chi, anh là …Cuội!
Chương còm cảm động:
– Thưa anh, sao Tiên nguyên tử không nói điều đó?
Cuội tiết lộ một bí mật:
– Vì chính Tiên nguyên tử là Kim Quy.
Anh em Chương còm ngơ ngác. Con Hương há hốc miệng. Chương còm trợn trừng mắt. Cuội giải thích:
– Khi đã là thần thánh thì có nhiều phép lạ. Kim Quy hoá phép thành Tiên nguyên tử cũng được. Hai em ạ, niềm sung sướng của Kim Quy là Việt Nam sẽ xua quân chinh phục năm châu. Vó ngựa của nòi Bách Việt phải tung bụi từ Á sang Âu, sang Mỹ, Úc, Phi. Ta xua quân không phải để xâm lăng thiên hạ mà là để dạy loài người biết yêu thương nhau. Chiến tranh liên miên từ mấy nghìn năm nay đã gieo rắc biết bao oan nghiệp. Loài người sống độc ác như rắn rết. Tại sao Mỹ trắng cứ bắt nạt Mỹ đen? Mỹ trắng văn minh còn mọi đen man rợ? Tại sao Hồi giáo ghét Do Thái? Tại sao da đỏ bị tận diệt, da vàng bị khinh bỉ?
Nước Đại Việt ta sẽ nhân danh da vàng dạy dỗ loài người đủ các sắc da yêu thương nhau. Kẻ hiếu chiến sẽ bị treo cổ. Ta sẽ giáo dục loài người rằng: thế giới là một vườn hoa muôn mầu. Chỉ màu trắng mà không có màu đen, đỏ, vàng thì còn gì là vườn hoa. Văn minh Bách Việt là văn minh yêu thương. Các búp bê Việt Nam sẽ lãnh trách nhiệm gieo rắc văn minh yêu thương khắp trái đất. Yêu thương cấy xuống, căm thù chết héo. Cộng sản chết. Thực dân chết. Phát xít chết hết. Loài người liên kết nhau mà khỏi cần ngờ vực nhau.
Cuội say sưa nói. Đôi mắt nó sáng ngời, long lanh cơ hồ linh hồn tổ quốc Việt Nam đang hiện trong đôi mắt kẻ nặng lòng với quê hương xứ sở.
– Bổn phận các búp bê là phải làm cho nước Việt Nam hùng cường. Nếu cần, các em sẽ đặt nền đô hộ ở bốn nước Nga, Mỹ, Tầu, Pháp, dạy cho bọn lãnh tụ bốn nước này sự khiêm tốn. Nòi Bách Việt ta hôm nay nheo nhóc, bị người Mỹ cậy có tiền viện trợ, khinh thường và làm tàng quá. Nhưng ngày mai, khi xua quân cắm lá cờ Đại Việt lên nóc điện Bạch Ốc, chúng ta không hèn hạ đến cái độ vênh vang làm thứ cao bồi, thứ công tử bột. Nhân loại chỉ có hai nước có lịch sử lập quốc vĩ đại… Đó là nước Đại Việt và nước Ba Lan. Ta chỉ cần cho dân tộc Mỹ biết rõ lịch sử lập quốc kiêu hùng của ta là không tung đô la mua đất, làm lịch sử là đầy đủ rồi. Ca dao Việt Nam bất diệt. Thơ lục bát bất diệt. Tiếng Việt Nam bất diệt. Lịch sử Việt Nam lừng lẫy nhất thế giới.Người Việt Nam đáng yêu nhất thế giới. Các búp bê Việt Nam sẽ vươn mình như Phù Đổng Thiên Vương và nâng giòng giống Bách Việt lên ngôi thần tượng.
Anh em Chương còm chưa từng được nghe ai ngợi ca nước Việt Nam như Cuội. Ôi, nước Việt Nam đau khổ đến nỗi có nhiều người Việt Nam than thân “sinh lầm xứ sở” không ngờ lại có một tương lai huy hoàng đến thế.
Cuội nắm chặt tay Chương còm:
– Kim Quy đã bảo với em là búp bê Việt Nam có tầm mơ mộng lớn nhất thế giới phải không?
Chương còm chớp mắt:
– Vâng ạ!
Cuội gật gù:
– Sự nghiệp phi thường đều nằm gọn trong tay những người biết mộng mơ. Không biết mơ mộng, không dám đi xa xôi. Và tương lai chỉ có giới hạn. Thành Cát Tư Hãn là một người biết mộng mơ. Ông ta đã mơ mộng đi tìm mặt trời để giết. Càng đi càng xa mặt trời, nhưng vó ngựa của ông đã làm tung bụi Âu châu, đã làm giống da trắng khiếp đảm dân da vàng. Nã Phá Luân là người biết mộng mơ nên vó ngựa của ông đã ghi dấu trên tuyết kinh thành Nga La Tư. Lý Thường Kiệt là người biết mộng mơ nên vó ngựa giòng Bách Việt đã dẫm nát nòi Hán. Hồ Quý Ly là người biết mộng mơ nên mới có thành nhà Hồ. Quang Trung là người biết mộng mơ nên mới dám nghĩ chuyện đòi đất của Trung Hoa, mới dám cách mạng văn hoá. Chúa, Phật là những người biết mộng mơ. Ôi, bao nhiêu người biết mộng mơ đều làm nên việc phi thường. Các em bé Việt Nam ơi, các em hãy mộng mơ đi. Rằng, các em sẽ vươn mình, nâng Việt Nam lên ngôi bá chủ hoàn cầu. Loài người cần phải học hỏi tình thương yêu, lòng tha thứ của nòi giống Bách Việt. Không có nước nào cao cả như nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Chỉ có người Việt Nam biết thương hại kẻ thù của mình.
Đánh nhau xong dù thắng hay bại, người Việt Nam sẵn sàng bắt tay kẻ thù của mình với niềm thông cảm sâu xa. Chúng ta có văn hiến. Người dân nước bốn ngàn năm văn hiến không giống bọn mọi Khờ-me, bọn rợ Cộng sản, bọn ngu xuẩn da trắng, lúc nào cũng nuôi mầm mống căm thù.
Bây giờ, Chương còm thấy đôi mắt của Cuội to như hai cái khung ảnh vô tuyến truyền hình. Và trong đôi mắt đó, thấp thoáng hình ảnh Lý Thường Kiệt, Ngô Quyền, Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hưng Đạo, Quang Trung, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản… Những anh hùng lập quốc, phá cường địch lần lượt xuất hiện. Rồi kết tụ thành một khối vĩ đại. Đó là linh hồn tổ quốc Việt Nam bất khuất. Không cứ gì Cuội, bất cứ ai chứa nổi linh hồn tổ quốc ta tâm hồn mình, đều có thể nói như Cuội, đều yêu quê hương Việt Nam như Cuội và đều muốn quê hương Việt Nam cựa quậy, đứng thẳng dậy, vươn vai, ngạo nghễ dưới ánh mặt trời.
Cuội đập bàn, hét lớn:
– Việt Nam phải hiển hách. Chúng ta phải làm lại lịch sử.
Bỗng Cuội dịu giọng:
– Văn minh nước ta rải rác khắp thế giới, các em ạ! Nước Tầu nó ăn cắp gần hết văn minh của nước ta. Những gì mà Tầu và Nhật nổi tiếng đều là thừa hưởng của dân tộc ta. Các em biết không, Tầu nó bắt hết nhân tài của ta. Nguyễn Phi Khanh, Hồ Quý Ly và bao nhiêu anh hùng khác.
Ôi, cái đáy thông minh của nhân loại là Quý Ly, kẻ đi trước thời đại hàng nghìn năm, mà bị Tầu nó bắt đem về nước nó, để phục vụ cho nền văn minh của nước nó thì làm chi nước ta chẳng yếu kém. Các em biết không, khi Trần Hưng Đạo đánh tan nát các chiến thuyền của đại quân Mông Cổ thì nước Nhật lúc ấy nghe hai tiếng Mông Cổ đã rụng rời. Họ cũng chiến thắng Mông Cổ một trận, đó là chó ngáp phải ruồi. Mông Cổ là lớp quân tinh nhuệ. Kỵ binh của nó vô địch thế giới. Nó sống trên sa mạc nên đánh rất “chì”. Vó ngựa của nó đi đến đâu là chiến thắng ở đó. Nó chỉ tan nát ở Việt Nam thôi. Nhật thắng Mông Cổ vì Mông Cổ ngu xuẩn cưỡi ngựa trên thuyền, vượt biển đánh Nhật. Dân Nhật là dân bơi lội số dzách, hải quân của nó khá lắm nhưng nếu không có thiên thời tức là nếu trời không làm giông bão, chiến thuyền Mông Cổ bị chìm gần hết thì sức mấy Nhật thắng nổi Mông Cổ.
Nhưng các em ơi, cuốn sách chép về chiến thuật, chiến lược chiến thắng Mông Cổ của Đức Trần Hưng Đạo nằm trong Viện Đại Học Quân Sự Nhật Bản! Biết bao dấu vết văn minh của nòi Bách Việt đang triển lãm tại các viện bảo tàng trên thế giới. Còn ở cái viện bảo tàng trong Sở Thú chỉ còn lại mấy thứ cà là dỉ mà cũng cấm chụp hình.
Cuội ngừng dần tả lòng xót thương nền văn minh Bách Việt. Nó có thể nói hàng đời không hết niềm tự kiêu của dân tộc. Nhưng Cuội thấy con Hương sốt ruột. Nó ra mở tủ lạnh, lấy một trái đào, mời Hương:
– Em ăn một trái đào tiên nhé! Đào Mặt Trăng thì đúng hơn. Yên chí, không phải thuốc khôn ra.
Con Hương đang khát nước, vớ được trái đào ướp lạnh, nó nhai ngấu nghiến. Cuội nhìn Hương ăn đào, bảo Chương còm:
– Trẻ con trên các hành tình ngu ngốc lắm, ngu ngốc như trẻ con trên thế giới. Chỉ có trẻ con Việt Nam là thông minh thôi. Và trẻ con thế hệ Búp Bê là trẻ con đủ khôn ngoan đi gieo rắc văn minh yêu thương của nòi giống Bách Việt. Một nhà văn Việt Nam nói:”Nước ta nghèo quá, chẳng có gì để xuất cảng cả, ta chỉ xuất cảng tình yêu thương“. Các em sẽ là những người đem tình yêu trao tận tay từng người trên thế giới. Nòi giống Bách Việt có nhiệm vụ phải thực hiện đúng câu “Tứ hải giai huynh đệ“. Phật Thích Ca không làm nổi, Chúa Giê Su không làm nổi, người Việt Nam sẽ làm nổi. Loài người sẽ yêu thương nhau và chả còn chiến tranh nóng lạnh nữa. Các em sẽ tạo một thế giới khác khỏi cần có nạn hồng thủy.
Chương còm không ghi chép kịp. Nó muốn gọi giây nói cho bố nó rồi nhờ Cuội nói vài câu. Nhưng Chương còm sợ Cuội từ chối. Cuội giơ đồng hồ, trợn mắt:
– Đến giờ anh đi dạy học rồi. Các em ở đây chờ anh nhé! Dạy xong anh về bàn với em bài diễn thuyết của Chương tại Đại học Văn Khoa chiều mai.
Cuội uống một ly nước lạnh. Nhà giáo…đại học mặc quần dài áo chùng đội khăn đến trường Văn Khoa, y hệt giáo sư Nghiêm Toản ở Sàigòn. Anh em Chương còm ngồi đợi Cuội, vặn nhạc nghe. Con Hương gọi điện thoại vòi vĩnh Tiên nguyên tử. Nó cứ giả vờ chưa biết Tiên nguyên tử là Kim Quy.