← Quay lại trang sách

Chương 6

Trí nhớ tin trước khi sự hiểu biết nhớ lại. Nó tin lâu hơn nó nhớ, thậm chí lâu hơn sự hiểu biết tự hỏi chính mình. Nó biết, tin, nhớ một cái hành lang trong một dãy nhà lớn, dài, lạnh lẽo, lộn xộn, đầy tiếng dội, bằng gạch đỏ sẫm, bị bồ hóng từ số lượng ống khói nhiều hơn số căn nhà bám đen, được xây trên một khoảng đất không cỏ, vung vãi bụi than cháy dở đã đóng thành bánh, xung quanh là những nhà máy nhả khói nằm trong vùng phụ cận, và bị bao kín bởi một hàng rào dây thép cao tới ba mét, trông giống như một nhà tù hay vườn thú, nơi mà những đứa bé mồ côi, với giọng nói trẻ con líp chíp như chim sẻ và mặc đồng phục bằng vải xanh, xuất hiện trong những ảo ảnh rời rạc, tình cờ, rồi biến mất trong trí nhớ, nhưng ở lại cố định trong sự hiểu biết, cũng cố định như những bức tường u ám, những cửa sổ tối tăm, nơi mà các cơn mưa bụi than từ những ống khói cận kề hằng năm chảy dài như nước mắt đen.

Trong cái hành lang yên tĩnh và trống vắng, trong cái giờ yên lặng đầu buổi chiều, nó trông như một cái bóng, thậm chí nhỏ so với tuổi lên năm của nó, kín đáo và im lặng như một cái bóng. Người nào ở trong hành lang hẳn không thể nói chính xác là khi nào, ở đâu nó đã biến mất, qua cửa nào, vào phòng nào. Nhưng không có ai khác ở trong hành lang vào giờ này cả. Nó biết điều đó. Nó đã làm chuyện này từ gần một năm nay, từ ngày nó tình cờ khám phá ra kem đánh răng mà cô tư vấn dinh dưỡng sử dụng.

Khi đã vào trong phòng, nó đi thẳng bằng đôi bàn chân trần và êm như ru đến chậu rửa mặt và tìm thấy cái ống tuýp. Nó đang nhìn kem màu hồng chảy ra như con giun vặn mình, mềm, mát, chậm, trên ngón tay màu giấy da của mình thì nghe tiếng chân trong hành lang, rồi nhiều tiếng nói ngay sau cánh cửa. Nó có lẽ nhận ra tiếng nói của cô tư vấn dinh dưỡng. Dù sao đi nữa, nó không chờ để biết họ sắp vào hay không. Ống tuýp kem đánh răng còn trên tay, và êm ru như cái bóng trên hai bàn chân trần, nó đi xuyên căn phòng và luồn ra sau một bức màn vải che riêng một góc phòng. Ở đó, nó ngồi xổm giữa những đôi giày đóng khéo và áo quần đàn bà mềm mại treo phía trên. Vẫn ngồi xổm, nó nghe cô tư vấn dinh dưỡng và người đi cùng bước vào phòng.

Người đàn bà này lúc đó đối với nó chỉ là một thứ đồ phụ tùng máy móc cần cho việc ăn uống, thực phẩm, nhà ăn, cho nghi thức của việc ăn uống trên những chiếc bàn dài và ghế dài bằng gỗ, một đồ phụ tùng thỉnh thoảng đi ngang qua tầm mắt nó mà không gây ấn tượng gì ngoại trừ như là một thứ gì đó dễ chịu trong sự liên tưởng, và nhìn chính người cô thì cũng thấy dễ chịu - trẻ, hơi béo tròn, màu da hồng-và-trắng nhẵn nhụi, cô gợi lên trong trí nó hình ảnh của cái nhà ăn, khiến cho miệng nó nghĩ đến cái gì đó ngọt ngào và dễ dính vào tay, vào môi... để ăn, cái gì đó cũng có màu hồng và lén lút. Ngày đầu tiên mà nó, kẻ chưa hề biết đến kem đánh răng là gì, khám phá ra cái này trong phòng cô, nó đã đi thẳng tới đó, như thể nó đã biết là cô sở hữu cái gì đó thuộc loại này và nó sẽ tìm thấy cái đó. Nó cũng biết giọng nói của người đi cùng với cô. Đó là của anh bác sĩ thực tập nội trú ở bệnh viện quận, anh cũng là người phụ tá cho viên bác sĩ của giáo xứ, và là một khuôn mặt quen thuộc trong ngôi nhà và cũng chưa phải là kẻ thù của nó.

Nó được an toàn lúc này, sau bức màn. Khi nào họ đi khỏi, nó sẽ để ống kem đánh răng vào lại chỗ cũ và cũng sẽ rời đi. Vậy là nó ngồi xổm sau bức màn, nghe mà chẳng để ý cho lắm tiếng nói bồn chồn thầm thì: “Không! Không! Không ở đây được đâu! Không bây giờ được đâu! Họ có thể bắt gặp mình. Ai đó có thể... Không, Charley! Đừng đừng!” Và người đàn ông nói gì thì nó không hiểu chút nào. Tiếng nói anh ta cũng lẩm nhẩm. Nhưng mang cái âm sắc tàn nhẫn như tất cả giọng nói của đàn ông vào thời đó đối với nó, vì nó còn quá trẻ để trốn thoát khỏi thế giới đàn bà và hưởng được một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi trước khi trở lại nơi đó và ở luôn cho tới giờ phút lâm chung. Nó nghe những tiếng động khác mà nó biết rõ: tiếng chân kéo lê trên sàn, tiếng chìa khóa xoay ở cửa. “Không, Charley! Charley, đừng đừng! Đừng, Charley!” người đàn bà thì thào. Nó nghe các tiếng động khác, tiếng sột soạt, tiếng thầm thì, không phải lời nói. Nó không nghe; nó chỉ đợi, nghĩ mà không chú tâm hay tò mò gì đặc biệt, rằng giờ này mà vào giường thì thật là lạ. Một lần nữa, tiếng thì thào yếu ớt của người đàn bà đi xuyên qua bức màn mỏng: “Em sợ lắm! Nhanh lên! Nhanh lên anh!”

Nó ngồi chồm hổm giữa các đôi giày và quần áo mềm mại và đẫm mùi đàn bà. Nó thấy, nhưng chỉ qua xúc giác thôi, ống tuýp lúc trước hình trụ, giờ thì bẹp dúm. Qua vị giác chứ không thấy, nó ngắm con giun vô hình, mát rượi vặn mình trên ngón tay và, một cách tự động, làm miệng nó mang mùi gắt và ngọt cùng lúc. Thường thường, nó đã bỏ vào đầy miệng chỉ một lần rồi đặt ống tuýp vào chỗ cũ và rời phòng. Ngay mới năm tuổi, nó cũng biết là nó không được lấy nhiều hơn thế. Có lẽ bản năng con vật trong nó cảnh báo là, nếu lấy nhiều hơn nó sẽ mang bệnh. Có lẽ bản năng con người trong nó cảnh báo là, nếu lấy nhiều hơn thì cô sẽ nhận ra. Đây là lần đầu tiên nó lấy nhiều hơn. Núp sau màn và chờ đợi, nó bây giờ lấy hơn trước rất nhiều. Qua xúc giác, nó có thể thấy ống tuýp xẹp xuống. Nó bắt đầu đổ mồ hôi. Rồi nó nhận ra là nó đã đổ mồ hôi từ lâu rồi, là nó không làm gì khác ngoài việc đổ mồ hôi cho tới lúc này. Nó không còn nghe gì nữa bây giờ. Giá như có tiếng súng nổ bên kia bức màn thì nó cũng đã không nghe. Dường như nó tự quay về chính mình, nhìn mình đổ mồ hôi, nhìn mình nhét vào miệng một con giun khác mà bao tử không muốn. Và không nghi ngờ gì nữa, con giun không chịu chui xuống. Giờ thì nó bất động, nhưng đầu óc đắm chìm trong sự ngẫm nghĩ, lưng có vẻ còng xuống như một nhà hóa học trong phòng thí nghiệm, và chờ đợi. Nó không phải đợi lâu. Chất kem nhão mà nó đã nuốt vào bỗng dưng trồi lên trong người, cố nhoi ra bên ngoài, cố tìm lại không khí mát mẻ. Không còn ngọt nữa. Trong bóng tối thấm đẫm mùi đàn bà màu hồng, ngồi xổm sau tấm màn, bọt mép màu hồng tràn ra môi, nó lắng nghe ruột gan mình, nó chờ đợi trong sự chấp nhận cái gì sắp sửa xảy ra với nó là không thể tránh được. Rồi cái đó xảy ra thực. Nó tự nhủ, hoàn toàn thụ động và buông xuôi: ‘Thôi, xong rồi!’

Khi chiếc màn bị giựt tung ra, nó không nhìn lên. Khi các bàn tay kéo nó một cách dữ tợn ra khỏi các đồ ói mửa bầy nhầy, nó không chống cự. Nó để thân người mềm nhẽo bị nhấc lên, và với cặp mắt lờ đờ của một thằng ngốc, miệng thì há hốc, nó nhìn khuôn mặt lúc này không còn hồng-và-trắng nhẵn nhụi, tóc tai bù xù, hoang dại mà những cái băng kẹp tóc mượt mà từng làm nó nghĩ đến các viên kẹo. “Đồ chuột con bẩn thỉu!” một giọng lanh lảnh và giận dữ rít lên; “Đồ chuột con bẩn thỉu! Mày đang theo dõi tao à? Đồ mọi con bẩn thỉu!”

***

Cô tư vấn dinh dưỡng hai mươi bảy tuổi - khá già để mà còn mạo hiểm trong vài cuộc phiêu lưu tình ái nhưng vẫn khá trẻ để dành một tầm quan trọng lớn lao, không phải vào chuyện yêu đương đâu mà là vào chuyện bị bắt gặp khi đang làm tình. Cô cũng khá ngu để tin rằng một đứa bé năm tuổi không những có thể suy ra sự thật từ những gì nó nghe được mà còn muốn kể ra sự thật đó như người lớn hay làm. Cho nên, trong hai ngày tiếp đó, cô hình như cảm thấy dù mình nhìn đâu, đi đâu thì bao giờ cũng có thằng bé quan sát cô với đôi mắt mang vẻ dò hỏi sâu sắc và chăm chú của một con thú, và cô gán ép thêm cho nó những thuộc tính của người lớn: cô tin là nó không những có ý định kể ra mà còn cố tình trì hoãn làm vậy chỉ để cô phải đau khổ hơn. Cô không bao giờ nhận thấy là nó tin rằng mình là người bị bắt quả tang trong khi phạm tội và giờ đây đang bị dày vò bởi sự trừng phạt được trì hoãn đó, và nếu nó cứ xuất hiện ở nơi nào cô có mặt, chính là để chấm dứt sự dày vò này, để nhận đòn roi vọt, trả giá một lần cho xong và không nghĩ đến việc này nữa.

Vào cuối ngày thứ hai, cô thấy tuyệt vọng quá đỗi. Đêm, cô không ngủ được. Cô nằm, cả người căng thẳng, nghiến chặt hàm răng, siết chặt nắm tay, thở hổn hển vì giận dữ và kinh hãi, và còn tệ hơn tất cả, vì hối tiếc: nỗi giận dữ mù quáng để lội ngược thời gian, dù chỉ một giờ, một giây. Ngay cả tình yêu cũng bị cho ra rìa trong khoảng thời gian này. Giờ đây, anh bác sĩ trẻ được cô quan tâm còn ít hơn đứa bé, anh đơn giản chỉ là công cụ cho cái tai họa của cô chứ không phải cho sự thoát nạn. Cô hẳn không thể nói cô ghét nhất kẻ nào trong hai người đó. Thậm chí cô không thể nói khi nào thì cô ngủ, khi nào thì cô thức. Bởi vì lúc nào cũng đè nặng trên mí mắt, in đậm trong võng mạc, là khuôn mặt màu giấy da, bất động, nặng nề, không thể tránh được, đang theo dõi cô.

Vào ngày thứ ba, cô ra khỏi trạng thái hôn mê, mộng du mà trong suốt thời gian đó, vào giờ có ánh sáng ban ngày và có người qua lại, cô mang bộ mặt của riêng mình như cái mặt nạ đau đớn, sững ra trong sự nhăn nhó giả vờ không dám chùng xuống. Vào ngày thứ ba, cô bắt đầu hành động. Cô tìm ra nó dễ dàng. Đó là ở trong hành lang, cái hành lang vắng ngắt vào giờ yên tĩnh sau bữa ăn tối. Nó đứng đó, không làm gì cả. Có lẽ nó đã đi theo cô. Không ai có thể nói là nó đang đợi cô hay không. Và cô chẳng ngạc nhiên khi thấy nó, và nó chẳng ngạc nhiên khi nghe tiếng và quay người lại và thấy cô: hai bộ mặt, một cái không còn hồng-và-trắng nhẵn nhụi, cái kia thì nặng nề, hai mắt điềm tĩnh, hoàn toàn không có thứ gì bên trong, ngoại trừ sự chờ đợi. ‘Giờ thì mình sắp xong rồi đó,’ nó nghĩ.

“Nghe này,” cô nói. Rồi cô ngừng lại, nhìn nó. Làm như cô không thể nghĩ ra điều gì để nói tiếp. Thằng bé chờ, im lặng, bất động. Chầm chậm và từ từ, những cơ bắp trên lưng nó trở nên phẳng, cứng và căng như các tấm ván. “Có phải mày sắp kể ra phải không?” cô nói.

Nó không trả lời. Nó tin rằng mọi người chắc phải biết là không đời nào nó chịu mở miệng nói ra chuyện kem đánh răng, chuyện ói mửa. Nó không nhìn thẳng vào mặt cô. Nó nhìn hai bàn tay cô, chờ đợi. Một trong hai bàn tay đang nắm lại trong túi cái váy. Xuyên qua lớp vải, nó có thể thấy tay nắm rất chặt. Nó chưa hề ăn đòn bằng những cú đấm. Nó cũng chưa hề chờ đến ba ngày mới bị trừng phạt. Khi thấy bàn tay rút ra khỏi cái túi, nó tin là cô sắp sửa đấm nó. Nhưng không; bàn tay chỉ mở ra dưới mắt nó. Một đồng đô-la bạc nằm sẵn trên đó. Với giọng lanh lảnh, gấp gáp, cô thì thào, dù hành lang thì vắng tanh xung quanh hai người. “Mày có thể mua được nhiều thứ lắm bằng cái này. Cả một đô-la đó.” Đây là lần đầu tiên nó thấy một đô-la, dù nó biết đó là cái gì. Nó nhìn. Nó muốn đồng đô-la này như thể nó muốn cái nắp sáng loáng trên đầu chai bia. Nhưng nó không tin là cô sẽ cho nó, bởi vì nó sẽ không cho cô nếu đồng đô-la là của nó. Nó không biết cô muốn nó làm gì. Nó đang chờ ăn đòn rồi được thả ra. Giọng nói tiếp tục, gấp, căng, nhanh: “Cả một đô-la. Thấy không? Mày mua được nhiều thứ lắm đó! Khá nhiều kem đánh răng để ăn hàng ngày cho một tuần đó. Và tháng tới có lẽ tao sẽ cho mày một đô-la khác.”

Nó không cử động, không nói. Tưởng như nó được tạc ra thành một món đồ chơi bự tổ chảng: bé nhỏ, bất động, đầu tròn, mắt tròn, mặc quần yếm. Nỗi ngạc nhiên, cú sốc, sự xúc phạm khiến nó đờ người ra. Mắt nhìn chằm chằm đồng đô-la, nó có vẻ thấy những ống tuýp kem đánh răng được xếp đống như những khúc củi, bất tận và kinh hoàng; cả con người nó co rúm lại trong một nỗi khiếp sợ sâu sắc, mãnh liệt. “Tui không... không muốn nữa,” nó nói. ‘Mình không bao giờ muốn nữa,’ nó nghĩ.

Sau đó, nó cũng không dám nhìn mặt cô. Nó có thể cảm thấy cô, nghe thấy cô, nghe tiếng thở rùng mình kéo dài của cô. Bây giờ chuyện đang đến đó nó nghĩ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Nhưng cô thậm chí không đưa tay lắc nó. Cô chỉ giữ chặt nó, không lắc nó, như thể hai tay cô cũng không biết muốn làm gì tiếp đó. Mặt cô gần đến mức nó cảm thấy hơi thở cô trên má. Nó không cần nhìn lên để biết bộ mặt cô trông giống cái gì lúc này. “Kể ra đi!” cô nói. “Này, kể ra đi! Đồ con hoang mọi đen bẩn thỉu! Đồ con hoang mọi đen bẩn thỉu!”

Việc này xảy ra vào ngày thứ ba. Ngày thứ tư, cô phát điên hoàn toàn, một cách khá trầm lặng. Cô không còn dự định gì nữa. Các hành động sau đó của cô bắt đầu tuân theo một thứ bói toán, như thể trong những ngày và những đêm mất ngủ cô đã nuôi dưỡng, dưới cái mặt nạ điềm tĩnh, niềm lo sợ và nỗi giận dữ của mình, đã để cho phát triển nơi cô những tính năng siêu linh cùng với tính chất không thể nào sai lầm, tự nhiên nơi đàn bà, để hiểu cái ác một cách tự phát.

Lúc này, cô trở nên khá trầm tĩnh. Lúc này cô đã thoát khỏi ngay cả sự thôi thúc cấp bách. Như thể bây giờ cô có thì giờ để nhìn chỗ này, chỗ nọ và nghĩ ra các dự định. Cô nhìn xung quanh mình, và cái nhìn, trí óc, ý tưởng của cô đều đi ngay lập tức, thẳng tới tên gác cổng đang ngồi ở cửa căn phòng đặt máy sưởi bằng nước nóng cho tòa nhà. Không có suy luận, không có ý định gì cả. Cô chỉ có vẻ nhìn ra ngoài con người mình trong một lát, giống như một người hành khách ngồi trong xe đưa mắt nhìn ra ngoài và thấy, không ngạc nhiên chút nào, người đàn ông nhỏ con, dơ dáy này ngồi trên chiếc ghế xếp ở một khuông cửa bám đầy bồ hóng, đang đọc qua cặp kính gọng thép một cuốn sách đặt trên đùi - một hình dạng, gần như một thứ đồ đạc cố định mà cô biết từ năm năm nay dù không một lần thực sự nhìn hắn. Cô hẳn không nhận ra khuôn mặt hắn ở ngoài đường. Cô hẳn có thể đi ngược chiều hắn mà không để ý đến, dù đó là một người đàn ông. Cuộc đời cô, bây giờ, có vẻ đơn giản và thẳng băng như một cái hành lang có hắn ngồi ở cuối đằng kia. Cô đi về phía hắn tức khắc, và ngay trước khi nhận ra là mình đã chuyển động, cô đã dấn bước trên lối đi bẩn thỉu này.

Hắn đang ngồi trên chiếc ghế xếp ở khuông cửa, một cuốn sách đã mở đặt trên đùi. Khi đến gần, cô thấy ra đó là cuốn Kinh thánh. Nhưng cô chỉ để ý đến nó y như cô có thể để ý đến con ruồi trên chân hắn. “Ông cũng thù ghét nó,” cô nói. “Ông cũng đang theo dõi nó. Tôi có thấy ông. Đừng chối nghe.” Hắn nhìn lên khuôn mặt cô, sau khi đẩy cặp kính lên trán. Hắn không già. Trong công việc hiện tại, trông hắn không phù hợp lắm. Thời trẻ, hắn là một người mang tính khắc nghiệt; một người lẽ ra phải sống một cuộc sống gian khổ và tích cực, nhưng thời gian, hoàn cảnh, cái gì đó, đã phản bội lại hắn, đẩy cái thân thể cường tráng, sự suy nghĩ của một người đàn ông bốn mươi tuổi vào chỗ nước đọng tù túng thích hợp với một người sáu mươi hay sáu mươi lăm tuổi. “Ông biết đấy,” cô nói. “Ông đã biết trước khi những đứa bé khác bắt đầu gọi nó là mọi đen. Ông đến đây cùng lúc với nó mà. Ông làm việc ở đây chưa đầy một tháng khi Charley, đêm Giáng sinh đó, tìm thấy nó ở bậc tam cấp đằng kia. Kể cho tôi đi.” Khuôn mặt tên gác cổng thì tròn, hơi béo nhão, râu ria lởm chởm, có vẻ dơ dáy. Đôi mắt hắn thì khá sáng, khá xám, khá lạnh. Và cũng khá điên nữa. Nhưng người đàn bà không để ý đến điều này. Hay có lẽ đối với cô, chúng không có vẻ điên lắm. Vậy là hai người đối mặt nhau ở khuông cửa dính bẩn bụi than, mắt điên nhìn sâu vào mắt điên, giọng điên nói với giọng điên, cũng điềm tĩnh, cũng kín đáo và ngắn gọn như hai kẻ mưu phản. “Tôi đã quan sát ông từ năm năm nay.” Cô tin là cô đang nói sự thật. “Ngồi ngay đây, trên chiếc ghế này, theo dõi nó. Ông không bao giờ ngồi đây trừ khi đám con nít ra chơi ngoài trời. Ngay từ lúc chúng ra ngoài, ông mang chiếc ghế này đây ra cửa và ngồi ở chỗ mà ông có thể nhìn chúng. Ông đưa mắt theo dõi nó, và ông nghe mấy đứa kia gọi nó là Mọi đen. Đó chính là việc ông đang làm. Tôi biết mà. Ông đã đến đây chỉ để làm việc đó, để theo dõi nó và thù ghét nó. Ông đã đến đây trước, sẵn sàng, khi nó đến. Có lẽ chính ông đã mang nó đến và bỏ nó ở bậc tam cấp đằng kia. Thôi, dù gì đi nữa, ông biết mà. Và tôi cũng phải biết chớ. Khi nào nó kể ra thì tôi sẽ bị đuổi việc. Và Charley có thể... sẽ... Nói tôi nghe đi nào. Nói tôi nghe đi, ngay bây giờ.”

“A,” tên gác cổng nói. “Tôi đã biết là nó sẽ ở đó để bắt gặp cô khi giờ của Chúa điểm. Tôi đã biết mà. Giờ thì tôi biết ai đã gửi nó đến đó, như một dấu hiệu và sự sa địa ngục cho tính chó má của đàn bà.”

“Phải đó. Nó núp ngay sau tấm màn. Cũng gần như ông đây. Bây giờ, ông nói đi. Tôi đã thấy cặp mắt ông khi ông nhìn nó. Đã quan sát ông, năm năm chớ ít sao.”

“Tôi biết chớ,” hắn nói. “Tôi biết cái ác ra sao mà. Có phải tôi đã làm chuyện ác để nó lan tràn trong khắp thế gian của Chúa không? Một sự ô nhiễm di động trên chính mặt Chúa, tôi đã làm đó cô. Từ miệng mấy đứa con nít mà ra. Nó không hề giấu chuyện đó. Cô đã nghe tụi nó rồi mà. Tôi không hề biểu tụi nó nói ra chuyện đó, biểu gọi nó theo đúng bản chất của nó, đúng cái tên sa địa ngục của nó. Tôi không hề biểu tụi nó. Tụi nó biết rồi. Tụi nó đã nghe ai nói, nhưng không phải tôi đâu. Tôi chỉ chờ, sớm hay muộn thì tùy Ngài, khi Ngài thấy thích hợp để tiết lộ chuyện đó cho thế gian đang sống đây của Ngài. Và giờ phút đó lúc này đang đến. Đây là dấu hiệu, được viết thêm một lần nữa trong tội lỗi của đàn bà và tính chó má của chúng nó.”

“Được rồi. Nhưng tôi phải làm gì đây? Nói cho tôi biết đi!”

“Chờ thôi. Như tôi đã chờ. Tôi đã chờ năm năm trời để Chúa Trời hành động và cho tôi thấy ý Ngài. Và Ngài đã làm. Cô cũng chờ đi. Khi nào Ngài sẵn sàng thì Ngài sẽ cho thấy ý muốn của Ngài trước những người có trách nhiệm nói lời quyết định.”

“Phải, lời quyết định.” Hai người nhìn nhau trừng trừng, bất động, và thở đều.

“Bà giám đốc. Khi Ngài sẵn sàng, Ngài sẽ tiết lộ với bả.”

“Ông muốn nói là, nếu bà giám đốc biết thì bả sẽ đuổi nó đi? Được lắm, nhưng tôi nóng ruột lắm rồi.”

“Cô không thể thúc giục Chúa Trời hơn nữa đâu. Tôi đã đợi năm năm, không phải vậy sao?”

Cô bắt đầu vỗ nhẹ hai bàn tay. “Nhưng ông không thấy sao? Có lẽ đó là ý Chúa. Để ông nói ra cho tôi nghe. Bởi vì ông biết. Có lẽ đó là ý Chúa để ông nói ra cho tôi nghe và để tôi nói lại với bà giám đốc.” Đôi mắt điên của cô thì khá điềm tĩnh, giọng điên của cô thì kiên nhẫn và ôn hòa. Chỉ có hai bàn tay cử động rất nhẹ, không ngừng.

“Cô phải đợi, như chính tôi đã đợi,” hắn nói. “Cô đã cảm thấy sức nặng bàn tay ăn năn của Chúa có lẽ trong ba ngày. Tôi đã sống dưới sức nặng này cả năm năm nay, theo dõi, chờ đợi cái giờ phút theo ý muốn của riêng Ngài, bởi vì tội lỗi của tôi thì lớn hơn tội lỗi của cô.” Mặc dù đang nhìn thẳng vào mặt cô, hắn có vẻ không thấy cô chút nào. Cặp mắt hắn không thấy. Mở to, lạnh lẽo, cuồng tín, cặp mắt đó nhìn cô như thể chúng bị mù. “So với những gì tôi đã làm, với những gì tôi đã đau khổ để chuộc tội, thì những gì cô đã làm và sự đau khổ đàn bà của cô thì không hơn một đống rác thối rữa. Tôi đã mang gánh nặng của mình trong năm năm. Cô là ai mà dám giục Chúa với thứ rác rưởi đàn bà không ra gì của cô?”

Cô quay người lại ngay tức khắc. “Thôi được. Ông không phải nói ra cho tôi. Dù sao, tôi cũng biết mà. Tôi biết chuyện đó từ khuya là nó lai mọi đen.” Cô trở về nhà. Giờ thì cô không bước nhanh, và cô ngáp, như thể buồn ngủ ghê gớm. ‘Mình chỉ một việc phải làm: nghĩ ra cách nào để khiến bà giám đốc tin vào chuyện này. Ông ta sẽ không bao giờ nói với bả đâu. Không bao giờ ủng hộ mình đâu.’ Cô lại ngáp, miệng mở ra hết sức, cả gương mặt bỗng trống hết mọi thứ, trừ cái ngáp, và rồi trống luôn cả cái ngáp. Cô vừa mới nghĩ đến điều gì khác. Cô đã không nghĩ đến nó trước đây, nhưng cô tin là cô có nghĩ, đã luôn biết nó, bởi vì điều này có vẻ đúng lắm: nó không những sẽ bị đuổi đi, nó sẽ còn bị trừng phạt vì đã làm cô kinh hãi, làm cô day dứt. ‘Họ sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen,’ cô nghĩ. ‘Tất nhiên rồi. Họ phải làm vậy thôi.’

Cô thậm chí không đi ngay đến gặp bà giám đốc. Cô đã có ý định đó, nhưng thay vì rẽ về phía cửa văn phòng cô thấy mình đi ngang qua nó, tiếp tục về phía cầu thang và leo lên. Như thể cô tự đi theo chính mình để thấy mình đi đâu. Trong hành lang bây giờ yên tĩnh và trống vắng, cô ngáp lần nữa, một cách cực kỳ thư giãn. Cô bước vào phòng mình, khóa cửa lại, cởi áo quần rồi lên giường. Các màn sáo đã hạ xuống, và cô nằm ngửa, bất động trong bóng tối lờ mờ. Đôi mắt nhắm lại, gương mặt nhẵn nhụi và trống không. Sau một lát, cô bắt đầu dang hai chân ra rồi khép lại từ từ, cảm thấy tấm ra giường trơn và mát trượt trên da thịt rồi nó trượt lại lần nữa, trơn và ấm. Sự suy nghĩ của cô dường như bị treo giữa giấc ngủ đã tránh cô từ ba đêm nay và giấc ngủ mà cô sắp sửa thụ hưởng, thân thể cô mở rộng, sẵn sàng tiếp nhận giấc ngủ như thể tiếp nhận một người đàn ông. ‘Mình chỉ có một việc phải làm, thuyết phục bà giám đốc,’ cô nghĩ. Rồi cô nghĩ Nó sẽ trông giống y chang một hạt đậu Hà Lan trong cái xoong đầy hạt cà phê

Việc này xảy ra trong buổi chiều. Vào chín giờ, ngay tối hôm đó, giữa lúc đang cởi quần áo lần nữa, cô nghe tên gác cổng trong hành lang, về phía cửa phòng cô. Cô không biết, cô không thể biết là ai đó, rồi bằng cách nào đó cô biết thật, chỉ nghe những bước chân đều đặn rồi những cú gõ lên cánh cửa đã bắt đầu mở trước khi cô kịp lao ra. Cô không lên tiếng gọi. Cô nhào đến cánh cửa, đem cả sức nặng thân người chận nó lại. “Tôi đang thay quần áo!” cô nói với giọng lanh lảnh, đau đớn, biết là ai đó rồi. Hắn không trả lời, dùng sức nặng rắn chắc và đều đặn đẩy cánh cửa vào trong, và chỗ hé mở rộng dần. “Ông không được vào đây!” cô kêu lên, không to hơn tiếng thầm thì. “Bộ ông không biết người ta...” Giọng cô thì hổn hển, yếu ớt và tuyệt vọng. Hắn không trả lời. Cô cố sức giữ chặt, chặn lại cánh cửa đang từ từ mở vào trong. “Để tôi mặc cái gì đã rồi tôi sẽ đi ra. Ông chịu không đó?” Cô nói, thì thào yếu ớt, với cái giọng nhẹ nhàng và không thích hợp mà người ta dùng để nói với một đứa con nít có phản ứng không thể đoán trước được, hay với một thằng điên: dỗ dành, mơn trớn: “Chờ đã! Ông có nghe không? Xin ông chờ một chút đã!” Hắn không trả lời. Cánh cửa vẫn cứ hé rộng ra, chậm và không thể cưỡng được. Chống cả người lên cánh cửa, không mặc gì trên người ngoài đồ lót, cô trông giống như một con rối trong một vở hài kịch tục tĩu có sự bắt cóc và nỗi tuyệt vọng. Chống người lên cửa, đầu cúi xuống đất, bất động, cô có vẻ đắm mình trong những suy tưởng thâm sâu nhất, như thể con rối ngay giữa màn kịch bị thất lạc trong chính nó. Rồi cô quay lưng, buông cánh cửa ra và lao về phía giường, chụp đại một đồ mặc mà không nhìn, xoay người đối diện cánh cửa, hai bàn tay giữ chặt cái đồ mặc đang che ngực, co người lại. Hắn đã vào trong; chắc là hắn đã quan sát cô và đã chờ đợi trong cái khoảnh khắc do dự mù quáng và vội vã vô tận này.

Hắn vẫn còn mặc cái quần yếm và giờ đội thêm cái mũ. Hắn không dỡ mũ xuống. Một lần nữa, cặp mắt xám, điên, lạnh của hắn dường như không thấy cô, không nhìn cô chút nào. “Nếu chính Chúa Trời đi vào trong phòng một đứa nào trong bọn cô,” hắn nói, “cô ắt nghĩ là Ngài đi tìm chuyện chó má.” Hắn nói, “Cô đã kể ra với bả chưa?”

Người đàn bà đã ngồi lên giường. Có vẻ lún sâu từ từ trên đó, tay giữ chặt cái đồ mặc, nhìn hắn chằm chằm, mặt tái xanh. “Kể ra với bả à?”

“Bả sẽ làm gì nó?”

“Làm gì nó à?” Cô quan sát hắn: cặp mắt sáng ngời và bất động này có vẻ nhìn cô thì ít hơn là bao bọc cô lại. Miệng cô cứ há hốc như miệng một thằng đần.

“Họ sẽ gửi nó đi đâu?” Cô không trả lời. “Đừng nói láo với tôi. Đừng nói láo với Chúa Trời. Họ sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen.” Cô khép miệng lại; như thể cuối cùng cô hiểu ra hắn đang nói về cái gì. “Vậy đó, tôi đã nghĩ cạn nước rồi. Họ sẽ gửi nó đến trại dành cho con nít mọi đen.” Cô không trả lời, nhưng bây giờ cô nhìn hắn không chớp mắt, mắt cô vẫn còn đôi chút lo sợ nhưng cũng bí ẩn nữa, đang tính toán. Và hắn nữa, bây giờ, đang nhìn cô; cặp mắt hắn tuồng như co lại trên cơ thể cô, trên bản thân cô. “Trả lời đi, đồ đàn bà trơ tráo!” hắn hét lên.

“Shhhhhhhhh!” cô nói. “Đúng đó. Họ phải làm vậy thôi. Khi họ biết ra...”

“A,” hắn nói. Cái nhìn đăm đắm của hắn tắt dần; cặp mắt hắn buông cô ra rồi bao bọc cô lại lần nữa. Khi nhìn chúng, cô có vẻ thấy mình là kẻ không đáng gì trong đó, nhỏ mọn như một nhánh cây nổi trên một vũng nước. Rồi đôi mắt hắn gần như trở nên tử tế. Hắn bắt đầu nhìn quanh căn phòng đàn bà như thể hắn đã chưa từng thấy một cái gì như vậy trước đó: phòng đóng kín, ấm áp, bừa bộn, thoảng mùi đàn bà màu hồng. “Đồ đàn bà thối tha,” hắn nói. “Ngay trước mặt Chúa.” Hắn quay lưng và bỏ đi. Một lát sau, người đàn bà ra khỏi giường. Đứng một lúc, tay vẫn nắm chặt cái đồ mặc, bất động, ngu ngốc, mắt nhìn chằm chằm cái cửa trống hoác như thể cô không nghĩ ra được cái gì để tự bảo mình làm. Rồi cô chạy. Nhảy vọt tới cửa, lao vào nó, đóng một cái rầm, khóa lại, rồi dựa cả thân người lên nó, cô thở hổn hển, nắm chặt cái chìa khóa trong cả hai bàn tay.

Sáng hôm sau, vào giờ ăn sáng, tên gác cổng và thằng bé đã biến mất tiêu, không để lại dấu vết gì. Cảnh sát được thông báo ngay lập tức. Người ta thấy ra một cánh cửa hông mà tên gác cổng có chìa khóa, bị mở toang.

“Đó là bởi vì ổng biết,” cô tư vấn dinh dưỡng nói với bà giám đốc.

“Biết cái gì?”

“Biết rằng thằng bé, thằng Christmas đó, nó là mọi đen.”

“Cái gì? bà giám đốc nói. Ngả người trong ghế bành, bà nhìn chăm chú người đàn bà trẻ hơn mình này. “Một tên mọ... Tôi không tin được chuyện này!” bà kêu lên. “Tôi không tin được!”

“Bà không phải tin gì cả,” người kia nói. Nhưng ổng biết chuyện này. Vì vậy mà ổng ‘bốc’ nó đi.”

Bà giám đốc đã qua tuổi năm mươi, có gương mặt béo bệu với đôi mắt tử tế, yếu đuối và không được thỏa mãn về tình dục. “Tôi không tin được!” bà nói. Nhưng ba ngày sau, bà cho gọi cô tư vấn dinh dưỡng đến. Bà trông có vẻ như đã không ngủ từ lâu. Người đàn bà trẻ, trái lại, thì khá tươi mát, khá bình tâm. Cô vẫn tỏ ra thản nhiên khi bà giám đốc cho biết tin là người ta đã tìm ra tên gác cổng và thằng bé. “Ở Little Rock [47] ”, bà giám đốc nói. “Hắn tìm cách đưa thằng bé vào trại mồ côi ở dưới đó. Người ta cho là hắn điên nên đã giữ hắn lại cho tới khi cảnh sát đến.” Bà nhìn người đàn bà trẻ hơn mình. “Cô bảo tôi... Hôm trước cô có nói là... Làm sao cô biết được chuyện này?”

Cô tư vấn dinh dưỡng không đưa mắt nhìn chỗ khác. “Tôi không biết. Tôi không biết chút nào cả. Dĩ nhiên, tôi có biết chuyện này là vô nghĩa, chuyện những đứa trẻ khác gọi nó là Mọi đen...”

“Mọi đen sao?” bà giám đốc nói. “Những đứa trẻ khác à?”

“Tụi nhỏ gọi nó là Mọi đen từ nhiều năm nay rồi. Đôi khi tôi nghĩ, trẻ con có cái thiên tư biết được những thứ mà người lớn ở tuổi bà hay tuổi tôi không thấy được. Trẻ con, và người già như ổng, như ông già đó. Đó là lý do tại sao ổng luôn luôn ngồi ở trước cửa, đằng kia, trong khi tụi nhỏ chạy chơi ngoài sân: để theo dõi thằng bé đấy. Có lẽ ổng biết ra nhờ nghe những đứa bé khác gọi nó là Mọi đen. Nhưng ổng cũng có thể đã biết trước đó. Nếu bà còn nhớ, hai người đó đến đây gần như cùng lúc. Ổng làm việc tại đây chưa đầy một tháng thì vào đêm... đêm Giáng sinh đó, bà không nhớ sao... khi Ch [48] ... khi họ nhìn thấy đứa bé ở bậc tam cấp?” Cô nói nhẹ nhàng, quan sát đôi mắt của người đàn bà lớn tuổi hơn, đôi mắt mang vẻ ngạc nhiên, sợ sệt, cứ nhìn mắt cô đăm đăm như thể bà không thể tách rời chúng sang chỗ khác. Đôi mắt người đàn bà trẻ thì dịu dàng và vô tội. “Rồi hôm ấy tôi và ổng nói chuyện với nhau, ổng hình như có điều gì đó để nói với tôi về thằng bé; điều gì đó ổng muốn nói với tôi, muốn nói với ai đó, rồi cuối cùng ổng mất can đảm, có lẽ vậy, và không muốn nói ra nữa, và vậy là tôi bỏ đi. Tôi đã không còn nghĩ đến chuyện đó chút nào. Nó đã hoàn toàn ra khỏi đầu tôi khi...” Tiếng nói ngừng lại. Cô nhìn bà giám đốc chằm chằm, và gương mặt cô bỗng dưng lộ ra vẻ sáng tỏ và thông hiểu; không ai có thể nói đó là giả bộ hay không. “Sao, đó là vì sao chuyện đó... Đúng rồi, bây giờ tôi hiểu hết rồi. Chuyện xảy ra ngay trước ngày họ biến mất. Tôi ở trong hành lang, đang đi về phòng mình; đó là cùng một ngày mà tôi tình cờ nói chuyện với ổng và ổng không chịu nói ra... bất kể cái gì mà ổng đã bắt đầu nói. Bất thình lình, ổng đến gần và chặn tôi lại; lúc đó tôi thấy lạ lùng bởi vì tôi chưa từng thấy ổng ở bên trong nhà. Và ổng nói... ổng ăn nói như thằng khùng, ông trông như phát khùng. Tôi sợ quá, sợ đến nỗi không cử động được, và ổng thì chặn đường... ổng nói, ‘Cô đã nói với bả chưa?’ và tôi nói, ‘Nói với ai? Với ai, nói chuyện gì?’ và tôi hiểu ra là ổng nghĩ đến bà đó... ổng muốn biết là tôi có nói lại với bà rằng ổng đã muốn nói với tôi điều gì đó về thằng bé hay không. Nhưng tôi đâu biết cái điều gì mà ổng nghĩ trong đầu để tôi có thể nói lại với bà, và tôi muốn hét lên kêu cứu và rồi ổng nói, ‘Bả sẽ làm gì nếu bả biết ra?’ và tôi không biết nói gì, không biết làm sao thoát khỏi ổng, rồi ổng nói, ‘Cô không cần nói ra với tôi. Tôi biết bả sẽ làm gì rồi. Bả sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen.’ ”

“Dành cho người da đen chớ?”

“Tôi không biết làm sao mà chúng ta đã vô ý, vô tứ lâu đến vậy, đã không nhận ra chuyện đó. Bà chỉ cần nhìn khuôn mặt, cặp mắt và tóc tai nó thì biết ngay. Tất nhiên, kinh khủng thật, nhưng đó là nơi nó phải đi, tôi tin vậy.”

Sau cặp kính, đôi mắt yếu ớt, lo âu của bà giám đốc biểu lộ trạng thái bị quấy rối, sững sờ như thể bà đang cố sức ép chúng làm cái gì đó nằm ngoài quy luật tự nhiên. “Nhưng tại sao hắn lại muốn đem thằng bé đi mất?”

“Ôi, nếu bà muốn nghe ý tôi thì tôi nghĩ ổng bị điên rồi. Giá như bà có thể thấy ổng, ở trong hành lang, vào cái đêm... ơ, cái ngày đó như tôi đã thấy. Tất nhiên, thằng bé mà phải đi vào trại mồ côi mọi đen thì đúng là tồi tệ thật, sau khi ở đây, sau khi lớn lên với người da trắng. Nó như vậy thì đâu phải lỗi của nó. Cũng đâu phải lỗi của chúng ta...” Cô ngừng nói, nhìn bà giám đốc. Sau cặp kính, đôi mắt của người đàn bà già hơn cô vẫn còn như bị quấy rối, yếu ớt, hoang mang; miệng bà run rẩy khi tìm chữ để nói. Và những lời nói của bà thì cũng hoang mang, nhưng người ta cảm thấy có cái gì khá dứt khoát, khá kiên quyết trong đó.

“Ta phải tìm chỗ ở cho nó với ai đó. Ta phải tìm chỗ cho nó ngay lập tức. Mình đang có những đơn xin nào đây? Vui lòng đưa tôi tập hồ sơ...”

***

Khi thằng bé thức dậy, nó được mang đi. Trời tối đen và rất lạnh; nó được một người nào đó mang xuống cầu thang một cách lặng lẽ và cực kỳ thận trọng. Một cái ba lô chèn giữa nó và một trong hai cánh tay đỡ người nó. Nó biết quần áo mình đựng trong đó. Nó không la hét, không gây tiếng động. Nó biết mình đang ở đâu, nhờ cái mùi, cái không khí của cầu thang sau nối cái cửa hông dưới đất với căn phòng lớn, nơi mà nó ngủ trên một trong bốn mươi cái giường, nếu nó còn nhớ được chính xác. Nó cũng biết, qua cái mùi, người mang nó là đàn ông. Nhưng không gây tiếng động, cũng nằm im, cũng buông lỏng như khi ngủ trước đó, nó lượn cao trong các cánh tay vô hình, di chuyển, đi xuống từ từ về phía cái cửa hông mở ra sân chơi.

Nó không biết ai đang mang nó đi. Nó không bận tâm bởi vì nó tin rằng nó biết mình đang đi đâu. Hay nói cho đúng hơn, nó biết tại sao. Nó không bận tâm về nơi chốn nó sẽ đến, bây giờ thì chưa đâu. Phải ngược lại hai năm trước, khi nó ba tuổi. Một ngày nọ, một cô gái nhỏ mười hai tuổi tên là Alice bỗng dưng biến mất. Nó thích cô, thích vừa đủ để cô tự ý nâng niu nó một chút; có lẽ cũng vì đó mà nó thích cô. Và vậy là dưới mắt nó, cô cũng lớn tuổi, cũng to lớn gần như bằng những người đàn bà ra lệnh cho nó ăn, tắm rửa, lên giường ngủ, chỉ khác là cô không và sẽ không bao giờ là kẻ thù của nó. Một đêm kia, cô đánh thức nó dậy. Cô nói lời từ biệt nhưng nó không biết điều này. Nó ngái ngủ và hơi bực mình, không tỉnh hẳn, chịu đựng cô bởi vì cô lúc nào cũng cố gắng tỏ ra tử tế với nó. Nó không biết là cô đang khóc bởi vì nó không biết là người lớn có khóc, và đến khi nó biết ra điều này thì trí nhớ nó đã quên cô. Nó ngủ lại trong khi vẫn chịu đựng sự có mặt của cô bên cạnh mình, và sáng hôm sau thì cô đã đi rồi. Biến mất tiêu, không để lại một vết tích nhỏ nhặt nào, ngay cả một cái áo, một cái quần cũng không, ngay cái giường cô từng ngủ thì bị một thằng bé mới vào chiếm mất. Nó không bao giờ biết cô đi đâu. Ngày hôm đó nó nghe một vài cô gái lớn tuổi hơn - họ đã giúp cô sửa soạn rời khỏi nơi này với những lời thầm thì lặng lẽ, bí mật, y như sáu cô gái trẻ chuẩn bị đám cưới cho cô thứ bảy vậy - nó nghe họ nói một cách háo hức về cái áo đầm mới, đôi giày mới, về chiếc xe đã đến chở cô đi xa. Và khi đó nó hiểu ra là cô đã bước ra ngoài cái cổng sắt của hàng rào thép, là cô đã ra đi mãi mãi. Nó dường như thấy cô, khi đó, trở nên dũng cảm vào lúc biến mất sau cánh cổng đóng nghe chói tai, hình bóng cô mờ dần mà vóc dáng không nhỏ lại trong sự rực rỡ mà nó không biết gọi làm sao, tương tự như cảnh mặt trời lặn. Hơn một năm sau nó mới biết rằng cô không là người đầu tiên và sẽ không là người cuối cùng. Rằng Alice không phải là người duy nhất biến mất đằng sau cánh cổng kêu chói tai, với cái áo đầm mới hay quần yếm mới và một cái bọc nhỏ gọn gàng đôi khi không lớn hơn cái hộp đựng giày. Nó tin rằng, bây giờ, là đến lượt mình. Nó tin là mình biết, bây giờ, làm sao chúng, gái và trai, đã xoay sở bỏ đi mà không để lại dấu vết gì sau lưng. Nó tin là người ta đã mang chúng đi, như nó đang được mang đi lúc này, ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.

Giờ thì nó có thể cảm thấy cánh cửa ra vào. Gần lắm rồi. Nó biết chính xác còn bao nhiêu bậc cầu thang không thấy được trong bóng tối mà người đàn ông mang nó phải đi xuống, cực kỳ thận trọng và lặng lẽ. Sát bên má, nó có thể cảm thấy hơi thở nhanh, ấm, đều của người đàn ông; và bên dưới, nó có thể cảm thấy hai cánh tay căng, cứng, và cái ba lô mềm mà nó biết là áo quần của mình đã được vơ vào bằng cách sờ soạng trong bóng tối. Người đàn ông ngừng bước. Khi ông cúi xuống thì hai bàn chân của đứa bé đung đưa và chạm phải sàn nhà, các ngón chân co lại vì cái lạnh như thép của sàn gỗ. Người đàn ông lên tiếng, lần đầu tiên. “Đứng thẳng coi,” ông nói. Và đứa bé biết ông là ai.

Nó nhận ra người đàn ông tức khắc, không tỏ ra ngạc nhiên chút nào. Sự ngạc nhiên hẳn là dành cho bà giám đốc nếu như bà biết được là nó biết người đàn ông này mới rõ làm sao. Nó không biết tên ông, và trong ba năm kể từ khi nó sống như một con người tuy bé nhỏ nhưng có tri giác, hai người đã trao đổi không quá một trăm lời. Nhưng trong cuộc đời của đứa bé, người đàn ông này là một nhân vật rõ nét hơn bất cứ ai khác, hơn cả Alice nữa. Ngay ở tuổi lên ba, đứa bé đã hiểu là giữa hai người có cái gì đó mà không cần nói ra. Nó biết là không bao giờ nó ra ngoài sân chơi mà không có người đàn ông bắc ghế ngồi ở cửa phòng đặt máy sưởi đưa mắt theo dõi nó, là ông theo dõi nó với sự chú ý tột bậc và không giảm sút. Giá như lớn tuổi hơn thì đứa bé có lẽ đã nghĩ Ổng ghét mình và sợ mình. Nhiều đến nỗi ổng không thể để mình ra khỏi tầm mắt ổng Nếu với số tuổi hiện nay nhưng với số từ vựng nhiều hơn, có thể nó đã nghĩ Đó là lý do tại sao mình khác với những đứa khác: bởi vì ổng lúc nào cũng theo dõi mình Nó chấp nhận sự việc này. Do vậy nó không thấy ngạc nhiên khi biết ra người này là ai mà đưa nó ra khỏi giấc ngủ, ra khỏi giường và mang nó xuống dưới nhà; đứng gần cửa, trong bóng tối đậm đặc và lạnh lẽo, trong khi người đàn ông giúp nó mặc quần áo, nó có thể đã nghĩ Ổng ghét mình đến mức đủ để ngăn chặn điều gì đó đang hăm dọa mình không xảy ra

Nó vừa run lập cập, vừa ngoan ngoãn mặc đồ, một cách nhanh nhất có thể, cả hai người cùng sờ soạng trong đống quần áo nhỏ, rồi cứ mặc cho nó bằng cách này hay cách khác. “Giày nữa,” người đàn ông nói, giọng thì thào như sắp chết. “Đây này.” Đứa bé ngồi trên sàn nhà lạnh, xỏ giày. Người đàn ông không còn đụng chạm đến nó nữa nhưng đứa bé vẫn nghe thấy, vẫn cảm thấy là người đàn ông cũng cúi người, bận tay làm cái gì đó. ‘Ông cũng đang mang giày,’ nó nghĩ. Người đàn ông lại mò mẫm chạm tay đến nó, kéo nó đứng lên. Đôi giày nó không cột dây. Nó chưa học cách tự mình làm việc đó. Nó không bảo người đàn ông là nó không cột giày. Nó không gây ra tiếng động nào. Nó chỉ đứng đó, rồi thình lình một cái áo rộng hơn trùm cả người nó. Vừa ngửi mùi, nó biết cái áo này là của người đàn ông. Và nó cảm thấy được nâng bổng lên lần nữa. Cánh cửa mở hé ra. Không khí lạnh ùa vào cùng với ánh sáng đèn đường. Nó có thể thấy các ngọn đèn và những bức tường nhà máy trơ trụi và những ống khói cao không khói trên nền trời đầy sao. Hàng rào bằng thép nổi bật dưới ánh sáng đèn đường trông như cuộc diễu hành của đám binh lính đói khát. Trong khi đi xuyên qua sân chơi, hai bàn chân lủng lẳng của nó đung đưa nhịp nhàng theo bước chân của người đàn ông, và hai chiếc giày không cột dây đập nhẹ vào cổ chân nó. Họ tới cổng sắt và ra ngoài.

Họ không phải đợi tàu điện lâu. Nếu như lớn tuổi hơn, nó hẳn đã để ý là người đàn ông tính toán giờ giấc giỏi làm sao. Nhưng nó không tỏ ra ngạc nhiên hay để ý đến. Nó chỉ đứng ở góc đường, bên cạnh người đàn ông, với đôi giày không cột dây, trùm người đến tận gót chân bằng cái áo khoác của ông ta, đôi mắt tròn, mở to, gương mặt nhỏ nhắn đã tỉnh ngủ, bình thản. Tàu điện đến - nó thấy một hàng cửa sổ chạy ngang - rít lên chói tai khi thắng lại, rồi kêu vù vù khi họ bước lên. Tàu gần như trống không, vì đã hơn hai giờ sáng. Bây giờ người đàn ông thấy ra đôi giày không cột dây, và ông đưa tay cột lại, dưới mắt nhìn của đứa bé đang ngồi yên trên ghế, duỗi thẳng hai chân trước mặt mình. Nhà ga xe lửa thì rất xa, và nó đã từng đi xe điện trước đây nên khi xe đến ga thì nó đã ngủ queo tự bao giờ. Trời sáng tỏ khi nó tỉnh giấc, và hai người đã ở trên tàu một đỗi khá lâu. Đây là lần đầu tiên nó đi tàu lửa, nhưng không ai có thể biết được điều này. Nó ngồi khá yên, như trên tàu điện, toàn thân trùm chiếc áo khoác của người đàn ông, trừ đôi chân duỗi thẳng và cái đầu, đưa mắt nhìn quang cảnh đồng quê lần lượt lướt qua bên ngoài: đồi núi, cây cối, bò cái và đại loại như vậy, mà nó chưa hề thấy trước đây. Khi biết nó đã thức dậy, người đàn ông mở đồ ăn từ gói giấy báo. Bánh mì kẹp phó mát. “Đây này,” người đàn ông nói. Nó cầm lấy đồ ăn, và vừa ăn vừa nhìn ra ngoài cửa sổ.

Nó không mở miệng nói ra một lời, không tỏ ra chút gì ngạc nhiên, ngay cả khi, vào ngày thứ ba, cảnh sát đến bắt nó và người đàn ông. Và nơi chốn mà họ bây giờ đang ở thì chẳng khác gì nơi chốn mà họ đã rời bỏ trong đêm khuya: cũng những đứa trẻ, với tên họ khác; cũng những người lớn, với mùi vị khác. Nó không thể hiểu lý do tại sao nó không được ở lại trại mồ côi thứ hai này, y chang như nó không hiểu tại sao nó đã phải rời bỏ trại mồ côi thứ nhất. Nhưng nó không ngạc nhiên khi họ đến và một lần nữa bảo nó đứng dậy và mặc áo quần vào, quên nói cho nó biết là tại sao và nơi chốn nào nó sắp đi đây. Có lẽ nó biết nó sẽ quay lại chỗ cũ. Có lẽ, với sự sáng suốt của trẻ con, nó đã luôn biết điều mà người đàn ông không biết: là việc đó sẽ không kéo dài, không thể kéo dài. Một khi ở trên tàu lửa, nó thấy lại cùng những ngọn đồi, cây cối, bò cái như lần trước nhưng ở phía bên kia và theo chiều ngược lại. Viên cảnh sát cho nó đồ ăn. Bánh mì kẹp phó mát ở giữa, tuy không lấy ra từ bọc giấy báo. Nó nhận ra điều này nhưng không nói gì, có lẽ không nghĩ gì.

Và vậy là nó lại ở ngôi nhà cũ lần nữa. Có lẽ nó chờ đợi người ta trừng phạt mình khi quay về, tại sao, vì tội gì, nó không mong biết được, bởi vì nó đã học là, nếu trẻ con có thể chấp nhận người lớn như là người lớn, người lớn lại không bao giờ có thể chấp nhận trẻ con như trẻ con, mà là như người lớn. Nó đã quên khuấy cái chuyện kem đánh răng. Bây giờ nó tránh mặt cô tư vấn dinh dưỡng, giống như cách đây một tháng nó thường xuất hiện đây đó trước mắt cô. Nó luôn tìm cách tránh cô đến mức nó quên bẵng từ lâu lý do vì sao nó làm vậy; và nó cũng sớm quên chuyến đi trong đêm đó, bởi vì nó không bao giờ được phép biết là có một mối dây liên hệ giữa hai việc. Thỉnh thoảng nó nghĩ đến chuyến đi đó một cách mơ hồ và lơ đãng. Nhưng chỉ khi nào nó nhìn về cửa phòng chứa máy sưởi và nhớ lại người đàn ông trước đây thường ngồi đó và theo dõi nó và giờ đã ra đi, tuyệt tích, y chang như tất cả những người đã rời nhà này mà đi, không một dấu vết để lại sau lưng, cả chiếc ghế xếp ở khuông cửa cũng không. Ổng đã đi đâu? Đứa bé không nghĩ đến, và cũng chẳng buồn thắc mắc.

Một buổi tối, người ta đến tìm nó ở phòng học. Hai tuần trước lễ Giáng sinh. Hai người trong đám đàn bà trẻ - không phải cô tư vấn dinh dưỡng - đưa nó đến phòng tắm, kỳ cọ nó sạch sẽ, chải mái tóc còn ẩm ướt, mặc quần yếm sạch cho nó rồi dẫn nó đến văn phòng bà giám đốc. Một người đàn ông, lạ mặt, ngồi sẵn ở đó. Và nó nhìn ông ta và nó hiểu ngay cả trước khi bà giám đốc lên tiếng. Có lẽ trí nhớ cho ta cái hiểu biết, cái hiểu biết bắt đầu nhớ lại; có lẽ ngay cả sự ham muốn, bởi vì năm tuổi thì vẫn còn quá nhỏ để có thể tuyệt vọng đến mức biết hy vọng. Có lẽ nó đột ngột nhớ lại chuyến đi bằng tàu lửa và đồ ăn nó đã ăn, bởi vì trí nhớ nó không đi xa nhiều hơn các thứ này. “Joseph [49] ,” bà giám đốc nói, “con có thích về sống ở nông thôn với những người tử tế không?”

Nó đứng đó, hai tai và mặt đỏ và bỏng rát vì xà bông thô và khăn lau ráp, trong bộ quần yếm mới, cứng, lắng nghe người lạ mặt đó. Nó đã liếc nhìn một lần và thấy một người đàn ông thấp và mập với bộ râu màu nâu rất ngắn và tóc tai cũng rất ngắn, dù không phải mới cắt. Tóc và râu ông ta, cả hai trông cứng và khỏe, không có lấy một sợi bạc, như thể sự nhiễm sắc tố không thể thâm nhập vào tuổi bốn mươi mấy mà khuôn mặt ông để lộ ra. Đôi mắt ông có màu sáng và lạnh. Ông mặc bộ đồ lớn đen cực kỳ nhưng tươm tất. Một cái mũ đen đặt trên đùi, một bàn tay thô ráp, sạch sẽ giữ nó, các ngón tay nắm lại ngay ở vành mũ bằng dạ phớt mềm. Một sợi dây chuyền to nặng bằng bạc dùng để đeo đồng hồ lủng lẳng trước áo gi-lê. Đôi giày đen, to, bóng nhờ đánh xi bằng tay, để cạnh nhau. Ngay cả đứa con nít lên năm cũng biết, khi nhìn ông, là chính ông không dùng thuốc lá sợi và chắc là không cho phép ai dùng. Nhưng nó không nhìn người đàn ông vì cặp mắt của ông ta.

Tuy vậy, nó vẫn cảm thấy ông nhìn nó chòng chọc, ánh mắt lạnh lẽo và chăm chú dù không cố ý nghiêm khắc. Đó là cái nhìn soi xét mà ông hẳn đã dùng để đánh giá một con ngựa hay cái cày cũ bán hạ giá, đã tin trước là mình sẽ thấy ra những khuyết điểm, đã tin trước là mình sẽ mua. Lời nói của ông thì hiếm hoi, dứt khoát, tẻ nhạt: giọng nói của một người đòi hỏi người nghe trong im lặng hơn là nghe với sự chú ý. “Và ngay bà cũng không thể, hay không muốn, cho tôi các thông tin về gia đình đó?”

Bà giám đốc không nhìn ông. Sau cặp kính, đôi mắt bà hình như đông cứng lại, ít ra là trong một khoảnh khắc. Bà vội nói ngay lập tức, gần như quá vội một chút: “Chúng tôi đã không nỗ lực xác minh dòng dõi gia đình cháu. Như tôi đã kể với ông, cháu nó được tìm thấy trên bậc tam cấp ở đây, vào đêm Giáng sinh; hai tuần nữa là đủ năm năm đó. Nếu dòng dõi cha mẹ cháu đối với ông là quan trọng, tốt hơn ông không nên nuôi con nuôi làm gì.”

“Đó có phải chính xác là điều tôi muốn nói đâu,” người lạ mặt nói. Giọng ông giờ trở nên hòa giải một chút. Ông xoay sở ngay tức khắc để xin lỗi mà không nhân nhượng tí nào trong quan niệm của mình. “Tôi tưởng mình có thể nói chuyện với cô Atkins (đó là tên cô tư vấn dinh dưỡng) chứ, bởi vì tôi trao đổi thư từ với chính cô ấy mà.”

Một lần nữa giọng nói của bà giám đốc lại lạnh lùng và gấp rút, vang lên không chờ ông chấm dứt: “Tôi có thể, có lẽ chẳng kém gì cô Atkins đâu, đưa cho ông các thông tin về cháu này hay bất cứ cháu nào khác trong đám trẻ của chúng tôi, bởi vì cô ấy, chính thức, chỉ phụ trách phòng ăn và nhà bếp ở đây thôi. Chỉ là ngẫu nhiên trong trường hợp này cô ấy tỏ ra tử tế làm thư ký giúp chúng tôi trong việc trao đổi thư từ với ông.”

“Không có gì đâu,” người lạ mặt nói. “Không có gì đâu. Trước đây tôi chỉ nghĩ...”

“Ông chỉ nghĩ cái gì? Chúng tôi không ép buộc ai nhận nuôi trẻ con của chúng tôi, và chúng tôi cũng không ép buộc các cháu phải ra đi mà không muốn, nếu chúng có những lý do vững chắc. Đây là chuyện mà hai bên phải ngồi lại giải quyết với nhau. Chúng tôi chỉ góp ý tư vấn thôi.”

“Tôi biết” người lạ mặt nói. “Không có gì đâu, như tôi vừa mới nói với bà. Tôi chắc chắn là thằng nhỏ này sẽ ổn thôi. Nó sẽ có một cuộc sống gia đình êm ấm với bà McEachern và tôi. Chúng tôi không còn trẻ nữa, và chúng tôi thích sự yên tĩnh. Và nó sẽ không được ăn ngon mặc đẹp hay ăn không ngồi rồi đâu. Cũng không phải làm việc quá sức nó. Tôi tin chắc là với chúng tôi, nó sẽ lớn lên biết kính sợ Chúa và biết ghê tởm sự vô công rồi nghề và tính kiêu căng, dù dòng dõi cha mẹ nó thế nào đi nữa.”

Vậy là cái giấy hẹn trả tiền mà nó đã ký bằng ống tuýp kem đánh răng vào một buổi chiều cách đây hai tháng thì được hủy bỏ, và người ký, đã quên bẵng nó, giờ đây đang ngồi bất động, trùm người bằng chiếc mền dùng để đắp ngựa sạch sẽ, trông nhỏ thó, không hình dạng rõ ràng, trên cái ghế chiếc xe ngựa nhỏ xóc lên xóc xuống trên con đường làng đóng băng đầy vết xe lún, trong bóng hoàng hôn tháng chạp. Họ đã đi suốt ngày hôm đó. Buổi trưa, người đàn ông cho nó ăn, lấy từ bên dưới ghế ngồi một cái hộp bằng các-tông đựng đồ ăn nhà quê nấu ba ngày trước. Chỉ lúc này người đàn ông mới mở miệng nói với nó. Ông nói không quá hai từ, đưa bàn tay mang găng đang nắm cái roi ngựa chỉ về phía cuối con đường làng, nơi có cái ánh sáng duy nhất đang sáng chói trong cảnh hoàng hôn. “Nhà đó,” ông nói. Thằng nhỏ không nói gì. Người đàn ông hạ ánh mắt về phía nó. Ông cũng trùm kín người để chống lạnh, thấp đậm, bự con, không ra hình dạng rõ rệt, trông ít nhiều giống như tảng đá, không dễ khuất phục, thô lỗ hơn là khắc nghiệt. “Tao nói rồi, nhà đó.” Thằng bé vẫn không lên tiếng. Nó chưa bao giờ ở dưới một mái ấm gia đình nên không thể nói gì. Và nó còn quá nhỏ để biết nói mà không nói gì cùng lúc. “Ở đó mày sẽ tìm thấy đồ ăn, chỗ ngủ và được hai tín đồ Cơ đốc chăm sóc,” người đàn ông nói. “Và công việc để làm, tùy theo sức mày, có làm lụng thì mày mới không nghịch ngợm. Vì tao sẽ sớm dạy cho mày biết là có hai điều đáng ghét: sự lười biếng và tính lông bông; và hai đức tính là lao động và lòng kính sợ Chúa.” Thằng bé vẫn không lên tiếng. Nó không bao giờ lao động mà cũng chẳng biết sợ Chúa. Nó biết về Chúa còn ít hơn biết về công việc. Nó đã thấy công việc được làm thông qua những người cầm xẻng và cào ở sân chơi, sáu ngày mỗi tuần. Nhưng Chúa chỉ đến ngày chủ nhật thôi. Và lúc đó, ngoại trừ phải tắm rửa cho sạch sẽ và ăn mặc tươm tất, chính là âm nhạc mới làm vui tai chứ lời giảng thì chỉ qua tai này sang tai kia rồi mất hút - nói chung là dễ chịu, dù hơi buồn chán một chút. Nó không nói gì cả. Chiếc xe ngựa cứ gập ghềnh. Hai chú ngựa cứng cáp, được chăm sóc tốt, biết là gần tới nhà, tới chuồng, kéo xe nhanh hơn.

Còn có một chuyện khác mà nó sau này mới nhớ lại, khi trí nhớ không còn giữ lại bộ mặt nó, không còn giữ lại những kỷ niệm hời hợt. Khi đó là ở văn phòng bà giám đốc. Đứng không nhúc nhích, tránh ánh mắt của người lạ mặt mà nó cảm thấy đang dán chặt lên người, nó chờ người lạ mặt nói ra những gì mà đôi mắt ông đang nghĩ. Rồi cuối cùng ông lên tiếng: “Christmas. Một cái họ tà đạo. Phạm thánh đó. Tôi sẽ đổi nó.”

“Về phương diện pháp lý, ông có toàn quyền mà,” bà giám đốc nói. “Chúng tôi không quan tâm đến tên họ các cháu, nhưng đến việc các cháu được đối xử ra sao.”

Nhưng người lạ mặt đã không lắng nghe ai cũng như không nói chuyện với ai. “Bắt đầu từ bây giờ, họ nó là McEachern.”

“Thích hợp lắm,” bà giám đốc nói. “Cho cháu mang họ của ông.”

“Nó sẽ ăn bánh mì của tôi và nó sẽ theo đạo của tôi,” người lạ mặt nói. “Vậy thì tại sao nó lại không mang họ tôi chớ?”

Thằng bé không nghe. Không bận tâm. Nó không để ý đặc biệt gì hơn nếu ông nói trời hôm nay nóng quá trong khi trời mát thực sự. Thậm chí, nó cũng chẳng buồn tự nhủ Họ mình không phải là McEachern. Họ mình là Christmas Bận tâm về cái họ lúc này thì có ích gì. Còn nhiều thời gian mà.

“Tại sao không chớ?” bà giám đốc nói.