Chương 7
Và trí nhớ biết điều này; hai mươi năm sau, trí nhớ còn có thể tin Cái ngày đó tôi trở thành đàn ông
Nắng chủ nhật vào tràn đầy căn phòng khắc khổ nhưng sạch sẽ. Những tấm màn ở cửa sổ thì cũng sạch tuy bị mạng nhiều chỗ, khẽ khàng lung lay trong gió thoảng đầy mùi đất mới cày và mùi táo dại. Trên chiếc đàn đạp hơi [50] màu vàng bằng gỗ sồi giả, với các bàn đạp được bọc bằng những mảnh thảm cũ mòn và giạt sợi, có một cái bình đựng hoa phi yến [51] . Thằng nhỏ ngồi trên một cái ghế lưng thẳng, trước cái bàn mà trên đó đặt một cái đèn bằng kền và một cuốn Kinh thánh to đùng với quai cài và bản lề bằng đồng, và một ổ khóa cũng bằng đồng. Nó mặc áo sơ-mi trắng, sạch sẽ, không cổ cồn. Quần nó thì mới, bằng vải thô, có màu sẫm. Đôi giày thì vừa mới đánh xi một cách vụng về, như một đứa bé tám tuổi có thể làm, với vài vết còn xỉn đây đó, nhất là xung quanh gót giày, nơi mà nó đã quên không quẹt xi tới. Trên bàn, đã mở sẵn trước mặt nó, là một cuốn sách giáo lý vấn đáp của giáo hội Trưởng lão.
McEachern đứng bên cạnh bàn. Ông mặc áo sơ-mi được hồ bột, rất sạch, và cùng cái quần màu đen mà thằng bé đã thấy khi gặp ông lần đầu. Tóc ông cứng, hơi ướt, không có sợi bạc, thì được chải gọn gàng trên cái sọ tròn. Bộ râu cũng được chải chuốt, hơi còn ướt. “Mày không cố gắng học giáo lý,” ông nói.
Thằng nhỏ không ngước mắt nhìn lên. Nó cũng không cử động. Nhưng bộ mặt của người đàn ông thì cũng chai cứng như nó. “Con thiệt tình đã ráng hết sức mà.”
“Vậy thì ráng thêm lần nữa đi. Tao cho mày một tiếng đồng hồ đó.” McEachern rút từ túi ra một cái đồng hồ quả quít to bằng bạc và đặt ngửa nó lên bàn, rồi kéo lại sát bàn một cái ghế thứ hai lưng thẳng, bằng gỗ cứng, và ngồi xuống, đặt hai bàn tay được cọ rửa sạch sẽ lên đùi, đặt đôi chân mang giày được đánh xi láng cón nằm ngay ngắn. Giày không có lấy một vết xỉn vì được quẹt xi đều khắp. Tuy nhiên, hôm qua, vào giờ ăn tối, chúng vẫn còn có những vết xỉn. Và sau đó, vừa cởi đồ xong và sắp sửa vào giường ngủ, trên người chỉ có cái áo sơ-mi, thì thằng nhỏ đã phải chịu một trận đòn bằng roi và phải đánh giày lại. Thằng nhỏ ngồi ở bàn. Bộ mặt cúi xuống của nó thì hầu như bất động, không biểu lộ gì hết. Không khí mùa xuân đi vào từng cơn rất nhẹ, thoáng qua căn phòng trần trụi và sạch sẽ.
Lúc đó là chín giờ. Hai người đã ngồi đó từ tám giờ. Gần đó có nhiều nhà thờ nhưng nhà thờ thuộc giáo hội Trưởng lão thì cách xa năm dặm và cần một tiếng đồng hồ đánh xe mới tới đó. Lúc tám giờ rưỡi thì bà McEachern đến. Bà mặc đồ đen, đội cái mũ có dây buộc dưới cằm - nhỏ con, lưng hơi khòm, vẻ mặt mệt mỏi, bà bước vào một cách rụt rè. Bà trông già hơn đức ông chồng thô kệch và mạnh khỏe cả mười lăm tuổi. Bà chưa vào hẳn bên trong căn phòng. Bà chỉ vào đến ngưỡng cửa rồi đứng đó một lát, với mũ và bộ áo đầm có màu đen đã phai dù được chải khá thường, mang theo cái dù và cái quạt bằng lá cọ, và có cái gì đó lạ lùng xung quanh đôi mắt, như thể bất cứ cái gì bà thấy hay nghe thì bà thấy hay nghe qua hình dạng đàn ông hay giọng nói đàn ông thường tức thì hơn, như thể bà chỉ là phương tiện diễn đạt cho ý muốn kiểm soát mọi thứ của ông chồng mạnh mẽ và tàn nhẫn. Ông có lẽ đã nghe tiếng chân bà. Nhưng ông không nhìn lên mà cũng không nói. Bà quay lưng đi chỗ khác.
Đúng giờ đã định, McEachern ngẩng đầu lên. “Bây giờ mày biết rồi chớ?” ông nói.
Thằng nhỏ không cử động. “Không biết,” nó nói.
McEachern đứng dậy một cách dứt khoát nhưng không vội vàng. Ông đưa tay lấy cái đồng hồ, đóng nắp lại, bỏ vào túi, buộc cái dây chuyền vào dải đeo quần. “Đi nào,” ông nói. Ông không nhìn ra sau. Thằng nhỏ theo ông, đi dọc theo hàng lang ra tận phía sau nhà; nó cũng bước đi thẳng người, đầu ngẩng cao, trong im lặng. Nhìn tấm lưng hai người, ta có cảm tưởng thật sự có một quan hệ thân tộc trong tính ương ngạnh, như một sự giống nhau di truyền. Bà McEachern đứng ở trong bếp. Bà vẫn đội mũ, vẫn cầm dù và quạt. Bà đang nhìn ra cửa thì họ đi ngang. “Ông ơi,” bà kêu lên. Cả hai người, chẳng ai buồn nhìn đến bà. Có lẽ họ đã không nghe; có lẽ bà đã không kêu lên. Họ cứ đi tiếp, người này sau người kia, và hai cái lưng, trong sự chối từ cứng ngắc trước bất cứ thỏa hiệp nào của họ, trông giống nhau hơn là sự liên hệ máu mủ đã có thể tạo ra chúng. Họ băng qua cái sân sau, tiếp tục đi về phía chuồng ngựa và bước vào trong. McEachern mở cánh cửa chuồng có cái máng thức ăn rồi bước tránh sang bên. Thằng nhỏ đi vào. McEachern đưa tay rút xuống từ trên vách một cái dây da thuộc bộ yên cương. Nó không mới, không cũ, như đôi giày của ông. Nó sạch, như đôi giày của ông, và nó có cùng mùi như ông: một cái mùi da thuộc sạch sẽ, cứng rắn, có tính đàn ông, sống động. Ông nhìn xuống thằng nhỏ.
“Cuốn sách đâu rồi?” ông nói. Thằng nhỏ đứng trước ông, bất động, bộ mặt thản nhiên và hơi xanh xao dưới làn da mềm mại như tờ giấy da. “Bộ mày không mang theo à?” McEachern nói. “Quay lại lấy nó đi.” Giọng nói ông không có gì hằn học, nhưng cũng chẳng có gì là con người hay riêng tư cá nhân trong đó. Nó chỉ lạnh lùng, khắt khe, như những con chữ được viết hay in ra. Thằng nhỏ quay lưng và đi ra ngoài.
Khi nó vào trong nhà thì bà McEachern đang đứng ở hành lang. “Joe,” bà gọi. Nó không trả lời. Thậm chí không nhìn bà, không thấy mặt bà, không thấy cái cử chỉ cứng nhắc đưa bàn tay lên nửa chừng, một bức tranh biếm họa vụng về về cái cử chỉ dịu dàng nhất mà bàn tay con người có thể làm ra. Nó bước qua trước mặt bà một cách căng thẳng, dáng vẻ cứng đờ, mặt đanh lại, có lẽ vì kiêu hãnh hay vì tuyệt vọng. Hay có lẽ vì kiêu căng, sự kiêu căng ngu ngốc của đàn ông. Nó lấy cuốn giáo lý vấn đáp trên bàn và quay lại chuồng ngựa.
McEachern đang đợi, tay cầm cái dây da. “Để nó xuống,” ông nói. Thằng nhỏ đặt cuốn sách xuống đất. “Không phải chỗ đó,” McEachern nói, không tỏ vẻ nóng nảy. “Tất nhiên là mày tưởng mặt đất chuồng ngựa mà các con thú giậm chân là chỗ hợp với Kinh thánh. Nhưng tao cũng sẽ dạy mày chuyện đó.” Ông tự mình nhặt cuốn sách và để nó trên cái gờ tường. “Tụt quần xuống,” ông nói. “Không được làm dơ quần.”
Và thằng nhỏ đứng im, cái quần nằm dưới chân, đôi chân trần lộ ra dưới cái áo sơ-mi ngắn. Nó đứng đó, mảnh khảnh và thẳng người. Khi cái roi da quất xuống, nó không tỏ ra nao núng, mặt không rung rinh. Nó nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt trông ngây ngất và trầm tĩnh như một nhà sư trong tranh vẽ. McEachern bắt đầu quất roi một cách có phương pháp, dùng sức chậm và dứt khoát, nhưng không hăng tiết hay giận dữ. Thật khó mà nói cái nào trong hai bộ mặt trông ngây ngất, trầm tĩnh và vững tin hơn.
Ông quất mười lần rồi ngừng tay. “Cầm sách đi,” ông nói. “Cứ để quần mày như vậy.” Ông đưa cuốn giáo lý vấn đáp cho thằng nhỏ. Nó cầm lấy. Nó vẫn đứng yên, thẳng người, ngẩng mặt và đưa cuốn sách lên với thái độ phấn khích. Nếu khoác lên người chiếc áo thụng trắng, nó đã có thể là một lễ sinh trong ca đoàn đạo Thiên chúa, và thay vì gian giữa của giáo đường là cái máng thức ăn tối tăm và đe dọa, và cái vách ngăn làm bằng những tấm ván sần sùi mà đằng sau là các con thú thỉnh thoảng cựa quậy trong bóng tối hăng mùi a-mo-ni-ắc với tiếng thở phì phì và tiếng uỳnh uỵch lười biếng. McEachern ngồi xuống, cứng nhắc, trên cái thùng đựng đồ ăn cho gia súc, hai chân giạng ra, một bàn tay để trên đầu gối, cái đồng hồ bạc ở trong lòng bàn tay kia, bộ mặt sạch sẽ và nhiều râu trông cứng như đá tạc, cặp mắt lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng không có gì hằn học.
Hai người, kẻ đứng, người ngồi như vậy cả một tiếng đồng hồ. Trước khi hết giờ bà McEachern đi ra phía cửa sau nhà. Nhưng bà không nói. Bà chỉ đứng đó, nhìn cái chuồng ngựa, đầu vẫn đội mũ, tay vẫn cầm dù và quạt. Rồi bà quay vào trong nhà.
Và một lần nữa, khi kim giây chỉ chính xác là đủ một giờ, McEachern lại bỏ đồng hồ vào túi. “Bây giờ thì mày biết chưa?” ông nói. Thằng nhỏ không trả lời, vẫn đứng thẳng người, cứng nhắc, vẫn cầm cuốn giáo lý trước mặt mình. McEachern giật cuốn sách ra khỏi tay nó. Nếu không thì nó chẳng nhúc nhích chút nào. “Lập lại các lời giáo lý đi,” McEachern nói. Thằng nhỏ nhìn thẳng vào bức vách trước nó, nhìn chằm chằm. Mặt nó giờ thì tái mét dù nước da nó thường mềm mại và ấm áp. Một cách cố ý, ông cẩn thận đặt cuốn sách lên gờ tường và nắm cái dây da. Ông quất mười lần. Khi ông đánh xong, thằng bé còn đứng bất động một lát. Nó chưa ăn sáng. Cả hai người, chưa ai ăn sáng. Rồi thằng bé lảo đảo, và nó chắc đã té nếu ông không chụp cánh tay nó để giữ lại. “Lại đây,” McEachern nói, cố gắng đưa nó đến cái thùng đựng thức ăn cho gia súc. “Ngồi xuống đi.”
“Không,” thằng nhỏ nói. Và nó bắt đầu giật mạnh cánh tay để khỏi bị nắm nữa. McEachern thả nó ra.
“Mày sao rồi? Mày bệnh à?”
“Không,” thằng nhỏ nói. Giọng yếu ớt, mặt tái mét.
“Cầm sách này,” McEachern nói, ấn nó vào tay thằng nhỏ. Bà McEachern, đến từ nhà, hiện ra ở khung cửa sổ gian nhà chứa đồ ăn cho gia súc. Bây giờ bà mặc một cái áo đầm [52] rộng và dài, suôn đuột, đã bạc màu và một cái mũ che nắng, và xách một cái xô bằng gỗ tuyết tùng. Bà đi ngang qua cửa sổ, mắt không nhìn vào cái gian nhà đó và biến mất. Một lát sau họ nghe tiếng ken két của cái ròng rọc nơi giếng nước được kéo chậm rãi, cái âm thanh yên bình và gây ngạc nhiên đến trong không khí ngày “xa-ba”. Rồi bà xuất hiện lại trước cửa sổ, lần này người hơi nghiêng sang một bên vì xách xô nước nặng, và đi vào nhà, không buồn nhìn về phía chuồng ngựa.
Và một lần nữa, đúng một giờ sau, McEachern đưa mắt rời khỏi đồng hồ, nhìn lên. “Mày có học không?” ông nói. Thằng nhỏ không trả lời, không cử động. Khi McEachern lại gần, ông thấy là thằng nhỏ không nhìn vào trang sách chút nào, đôi mắt nó thì trừng trừng và trống rỗng hoàn toàn. Khi đặt tay mình lên cuốn sách, ông nhận ra nó bám chặt cứng như thể bám một cuộn dây hay một cái cột. Khi McEachern dùng sức giật mạnh cuốn sách ra khỏi tay nó, thằng nhỏ ngã nhào cả người xuống, nằm dài dưới đất không nhúc nhích.
Khi nó tỉnh lại, trời đã xế chiều. Nó nằm trong giường riêng của mình, trong cái gác xép ngay dưới mái thấp. Căn gác thì yên tĩnh, đã ngập bóng hoàng hôn. Nó cảm thấy khá khỏe, và nó nằm thêm một lát, thanh thản nhìn lên cái trần nhà nằm nghiêng ở trên đầu trước khi nhận ra có người đang ngồi gần bên giường. Đó là McEachern. Bây giờ ông mặc quần áo thường ngày - không phải bộ quần yếm mặc khi ra đồng, nhưng cái áo sơ-mi phai màu, sạch, không cổ cồn, và cái quần bằng vải ka-ki phai màu, sạch. “Mày thức rồi,” ông nói. Ông đưa tay giở cái mền ra. “Lại đây,” ông nói.
Thằng nhỏ không cử động. “Cha lại sắp đánh con nữa phải không?”
“Lại đây,” McEachern nói. “Dậy đi.” Thằng nhỏ ngồi dậy, bước xuống giường rồi đứng đó, mảnh khảnh, luống cuống trong bộ đồ lót bằng vải bông. McEachern cũng cử động, một cách nặng nề, vụng về, cơ bắp xơ cứng, như thể tiêu xài hết cả sức lực; thằng nhỏ nhìn ông với cặp mắt quan tâm nhưng không ngạc nhiên của con nít, và thấy ông chậm chạp và nặng nề quỳ xuống bên cạnh giường. “Quỳ xuống đi,” McEachern nói. Thằng nhỏ quỳ xuống; Hai người quỳ trong căn gác ngột ngạt, đầy bóng hoàng hôn: đứa bé trong bộ đồ lót được cắt ngắn, và người đàn ông tàn nhẫn chưa hề biết đến lòng thương xót hay nỗi hoài nghi. McEachern bắt đầu cầu nguyện. Ông cầu nguyện một đỗi lâu, giọng đều đều tẻ nhạt, gây buồn ngủ, đơn điệu. Ông xin được tha thứ vì đã làm điều sai trái trong ngày “xa-ba” và vì đã giơ tay đánh một đứa bé, một đứa mồ côi, được Chúa yêu thương. Ông cầu cho quả tim chai cứng của thằng nhỏ được mềm dịu lại và cho cái tội bất phục tùng, nó cũng được tha thứ nữa, nhờ sự nói giúp của chính người mà nó đã coi thường, đã không vâng lời. Ông cầu xin đấng Toàn Năng thể hiện tất cả lòng rộng lượng của Ngài bằng, thông qua, và vì ân sủng toàn trí của Ngài.
Khi cầu nguyện xong, ông đứng dậy một cách khó nhọc. Thằng nhỏ vẫn quỳ. Nó không cử động chút nào. Nhưng đôi mắt nó mở (nó không bao giờ giấu mặt hay ngay cả cúi mặt cũng không) và gương mặt thì rất bình thản; bình thản, lặng câm, không dò thấu được. Nó nghe người đàn ông sờ soạng ở bàn có đặt cái đèn. Một que diêm bật lên, cháy đỏ; ngọn lửa được giữ yên trên bấc, dưới cái chụp đèn hình cầu mà trên đó bàn tay người đàn ông bây giờ hiện ra như thể nó đã nhúng máu trước đây. Những cái bóng xoay tròn rồi đứng yên. McEachern lấy lên cái gì đó trên bàn bên cạnh đèn: cuốn giáo lý vấn đáp. Ông nhìn xuống thằng nhỏ: một cái mũi, một gò má cao trông giống đá hoa cương, râu mọc tận hốc mắt sâu như cái hang đằng sau cặp kính. “Cầm sách đi,” ông nói.
***
Chuyện ấy đã bắt đầu từ sáng chủ nhật đó, trước bữa ăn sáng. Nó đã không ăn sáng; chắc là cả nó và người đàn ông, không ai nghĩ tới việc ăn dù chỉ một lần. Chính ông đã không ăn sáng dù ông đã đến bàn và nói lời nguyện xá tội cho đồ ăn và cho sự cần thiết phải ăn đồ ăn đó. Vào bữa ăn trưa, ông ngủ vì kiệt lực thần kinh. Rồi đến giờ ăn tối, cả hai đều không nghĩ đến việc ăn. Thằng nhỏ thậm chí không biết tại sao có cái gì không ổn trong người, tại sao nó cảm thấy yếu ớt và bình yên.
Giờ nằm trong giường, đó chính là điều nó cảm thấy. Ngọn đèn vẫn cháy. Đêm đã buông xuống đủ đầy. Một khoảng thời gian đã trôi qua, nhưng dường như nếu nó quay đầu nó vẫn thấy cả hai người, người đàn ông và chính nó, quỳ bên cạnh giường, hay ít ra, thấy trên tấm thảm những dấu lõm không thực sự hiển nhiên của hai cặp đầu gối. Ngay cả không khí cũng có vẻ tiết ra cái giọng nói đơn điệu đó, giọng của một ai đó đang nói trong giấc mơ, nói, cầu khẩn, tranh cãi với một sự Hiện diện, và chính cái này cũng không thể để lại vết lõm ma quái nào trên một tấm thảm thật.
Nó đang nghỉ ngơi như vậy, nằm ngửa, hai tay khoanh chéo trên ngực như bức tượng trên mộ, thì lại nghe tiếng chân lần nữa ở cái cầu thang hẹp. Không phải tiếng chân của người đàn ông đâu. Vì trước đó nó đã nghe McEachern đánh xe ngựa ra đi trong bóng hoàng hôn để đến một ngôi nhà thờ cách đó ba dặm, không thuộc giáo hội Trưởng lão nhưng ở đó ông có thể sám hối, việc mà ông đã tự buộc cho mình trong buổi sáng.
Không quay đầu, thằng nhỏ nghe bà McEachern chậm chạp, cực nhọc leo lên cầu thang. Nó nghe bà lại gần trên sàn gỗ. Nó không nhìn bà, mặc dù sau vài khoảnh khắc bóng bà trải dài trên tường mà nó có thể thấy, và nó thấy là bà đang bưng theo cái gì đó. Một cái khay với đồ ăn. Bà đặt khay lên giường. Nó đã không nhìn bà lấy một lần. Nó đã không cử động. “Joe này,” bà nói. Nó không cử động. “Joe này,” bà nói. Bà thấy mắt nó mở. Bà không chạm đến người nó.
“Con không đói,” nó nói.
Bà không cử động. Bà đứng đó, hai tay khoanh trước tạp dề. Bà cũng không có vẻ đang nhìn nó. Bà có vẻ đang nói chuyện với bức tường bên kia giường. “Má biết con nghĩ gì. Không phải vậy đâu. Ổng không hề biểu má mang đồ ăn cho con. Chính má nghĩ ra mà làm đó. Ổng không biết đâu. Không phải ổng biểu đưa đồ ăn cho con đâu.” Nó không cử động. Bộ mặt nó bình thản như một bộ mặt tạc vào đá, mắt nhìn cái góc nhọn tạo ra bởi trần nhà bằng gỗ. “Con chưa ăn gì cả ngày hôm nay. Ngồi dậy ăn đi. Không phải ổng biểu má mang đồ ăn lên cho con. Ổng không biết đâu. Má chờ cho đến khi ổng đi xong rồi má mới tự mình nấu cái này đó.”
Vậy là nó ngồi dậy. Trong khi bà luôn đưa mắt nhìn, nó ra khỏi giường, cầm cái khay lên, mang đến góc phòng và lật úp nó lại, đổ cả dĩa lẫn đồ ăn, mọi thứ, xuống đất. Rồi nó quay lại giường, tay vẫn bưng cái khay trống như thể nó là người mang cái bình bày bánh thánh cúng lễ, và thay vì áo thụng trắng, nó mặc bộ đồ lót, trước đây mua cho người lớn, nay đã được cắt ngắn lại. Giờ thì bà không nhìn nó, dù bà cứ đứng im. Hai tay bà vẫn khoanh trước tạp dề. Nó lên giường, nằm ngửa như trước, mắt mở to dán lên trần nhà. Nó thấy cái bóng của bà, bất động, không hình thù rõ rệt, hơi khòm. Rồi cái bóng biến đi. Nó không nhìn nhưng nó nghe thấy bà quỳ ở góc phòng, nhặt các dĩa bể để lại trong khay. Rồi bà rời phòng. Cả không gian đều im ắng. Ngọn đèn vẫn cháy bình thường từ cái bấc đứng yên; trên tường, những cái bóng chập chờn của các con bướm đêm lượn qua lượn lại thì lớn như những con chim. Từ bên ngoài cửa sổ, nó ngửi thấy, cảm thấy bóng tối, mùa xuân và mùi đất.
Hồi đó nó mới tám tuổi. Chỉ rất nhiều năm sau trí nhớ mới biết những gì nó nhớ; rất nhiều năm sau buổi tối đó, khi mà một giờ sau, nó ngồi dậy, rời giường, đến quỳ ở góc phòng, không như nó quỳ trên tấm thảm đâu, quỳ phía trên những đồ ăn đã lấm bẩn, và nó đưa tay bốc ăn, như một tên mọi rợ, như một con chó.
Đêm đang xuống. Lẽ ra nó đã về tới gần nhà, xa hẳn nơi mà nó đang đứng đây. Mặc dù mỗi chiều thứ bảy được tự do nhưng chưa bao giờ nó ở xa nhà đến vậy, vào cái giờ muộn đến vậy. Khi về đến nhà, nó sẽ ăn đòn roi. Nhưng không phải vì những gì nó đã có thể hay đã không thể làm trong khi vắng mặt. Khi về đến nhà, nó sẽ ăn đòn roi, dù nó chẳng phạm tội gì, y chang như thể McEachern bắt nó quả tang phạm tội.
Nhưng có lẽ chính nó chưa biết là nó sẽ không phạm tội. Chúng tụ họp một cách lặng lẽ, cả năm đứa, trong lúc chạng vạng, gần ô cửa sắp sụp của một xưởng cưa bỏ hoang. Núp chờ cách đó khoảng một trăm thước, chúng thấy một đứa con gái da đen đi vào, đưa mắt liếc ra sau một cái, rồi biến mất. Một trong những thằng nhỏ lớn tuổi hơn đã sắp xếp việc này trước đó, và giờ thì hắn vào đó đầu tiên. Những thằng nhỏ khác thì rút thăm bằng những cọng rơm để chia phiên nhau. Chúng mặc quần yếm giống nhau, và sống chung quanh đây, trong vòng bán kính ba dặm, và giống như thằng nhỏ mà chúng biết tên là Joe McEachern, và mới lên mười bốn hay mười lăm tuổi, tất cả bọn chúng đều có thể đi cày, vắt sữa bò, bửa củi như người lớn. Có lẽ nó thậm chí không nhận ra đó là tội lỗi cho tới khi nó nghĩ đến người đàn ông đang đợi nó ở nhà, bởi vì ở tuổi mười bốn, tội lỗi lớn nhất có lẽ là bị buộc tội công khai là còn tân.
Đến phiên nó. Nó đi vào cái nhà hoang. Bên trong tối tăm. Ngay lập tức, nó cảm thấy cả người bị một sự hối hả ghê gớm khống chế. Trong người nó có cái gì đó đang tìm cách chạy ra ngoài, giống như mỗi khi nó nghĩ đến kem đánh răng trước đây. Nhưng nó không thể cử động ngay tức khắc, cứ đứng đực người ra đó, ngửi mùi đàn bà với mùi da đen, tất cả cùng lúc; bị bắt làm tù nhân của conảcáiđĩdađen [53] đó và sự gấp rút của chính mình, bị cuốn hút, bị buộc phải đợi cho đến khi cô ta lên tiếng: một âm thanh dẫn đường, không phải là một tiếng gì đặc biệt và khiến nó bất ngờ. Rồi nó dường như có thể thấy ra cô ta - một cái gì đó nằm sóng soài, đáng khinh bỉ; có lẽ đó là đôi mắt cô ta. Khom lưng xuống, nó tưởng mình đang nhìn xuống một cái giếng tối om, và dưới đáy nó thấy hai tia sáng lóe lên như ánh phản chiếu của những vì sao đã chết. Nó bước tới, vì chân nó đụng cô ta. Rồi chân nó đụng cô ta lần nữa, vì lần này nó đá cô ta. Nó đá cô ta thật mạnh, đá vào trong và xuyên qua tiếng rên la nghẹn ngào vì kinh ngạc và sợ hãi. Cô ta bắt đầu hét to trong khi nó kéo cô ta lên, giữ chặt bằng cánh tay, và tung những cú đấm ác liệt, dã man vào người cô ta, có lẽ đánh vào tiếng hét nữa, nhưng dù sao nó vẫn cảm thấy da thịt cô ta, cảm thấy mình là tù nhân của conảcáiđĩdađen đó và sự gấp rút của chính mình.
Rồi cô ta bỏ chạy dưới những cú đấm của nó, và nó cũng bỏ chạy về phía sau, khi những thằng nhỏ khác nhào lên người nó, cả đám, lóng ngóng ghì lấy nó, và nó đánh trả, hơi thở phì phò vì giận dữ và tuyệt vọng. Lúc đó, chính mùi con đực mà nó ngửi, mà cả bọn ngửi; và ở đâu đó, dưới cái mùi này, con Cái vừa bỏ chạy, vừa la hét. Chúng giẫm đạp, lắc lư, đánh đấm bất kể vào thứ gì mà tay hay người chúng chạm tới, cho tới khi cả bọn đổ xuống thành một đống, nó nằm dưới cùng. Vậy mà nó vẫn vừa khóc, vừa chống cự, đánh trả. Bây giờ không còn là vì con Cái đó nữa. Chúng chỉ đánh nhau. Như thể có một ngọn gió dữ nhưng sạch thổi qua bọn chúng. Chúng giữ chặt nó dưới đất, không để nó cựa quậy được chút nào. “Bây giờ mày thôi chưa? Tụi tao hạ mày rồi. Mày hứa không đánh nhau nữa đi.”
“Tao không...,” nó nói. Nó cố sức cựa quậy, thở hổn hển.
“Joe, thôi đi! Mày không thể đánh lại cả tụi tao. Hơn nữa, không thằng nào muốn đánh nhau với mày mà.”
“Không,” nó nói, vùng vẫy, gần như đứt hơi. Cả nó lẫn những đứa khác không còn thấy, không còn nhận ra đứa nào là đứa nào nữa. Chúng đã hoàn toàn quên cô gái, quên cả lý do tại sao chúng đánh nhau, nếu như chúng có biết lý do. Về phần bốn thằng nhỏ, đó chỉ là phản xạ hoàn toàn tự động: sự thôi thúc tự phát đẩy con đực đánh với, hay do, hay cho con cái mà nó vừa mới hay sắp sửa giao cấu. Nhưng không đứa nào trong bọn biết tại sao Joe lại đánh nhau. Và nó đã không thể nói với mấy đứa kia. Chúng vẫn đè chặt nó dưới đất, nói chuyện với nhau bằng những giọng đều đều, hơi nghẹn.
“Mấy thằng nào phía sau đó, đi đi. Rồi tụi tao sẽ thả nó ra cùng lúc.”
“Ai kẹp nó đây? Thằng nào tao đang kẹp đây chớ?”
“Đây này. Thả nó ra. Không, chờ đã. Tao giữ nó. Tao và...” Một lần nữa, cả đám trồi lên, vật lộn nhau. Chúng lại kẹp nó được. “Tụi mình giữ chặt nó rồi. Giờ tất cả thả nó ra cùng lúc rồi chạy đi nghe. Tránh ra đi.”
Hai đứa trong bọn đứng lên, đi lùi về phía cửa. Rồi hai đứa nữa dường như từ dưới đất nhảy lên, chạy như bay ra khỏi căn nhà hoang lờ mờ tối. Ngay lúc được thả, Joe đã tìm cách đấm chúng, nhưng chúng đã xa rồi. Nằm ngửa, nó nhìn theo bốn thằng kia đang bỏ chạy trong bóng chạng vạng, rồi chúng chậm lại, ngoái đầu nhìn ra phía sau. Nó đứng dậy, đi ra khỏi căn nhà đó. Nó dừng lại, đứng ở cửa, đưa tay phủi áo quần, một cử chỉ hoàn toàn không tự giác, trong khi cách đó một quãng ngắn bọn kia lặng lẽ xúm lại và quay nhìn hắn. Nó không nhìn chúng. Nó đi tiếp, cái quần yếm nhuốm màu chạng vạng trong bóng chạng vạng. Trễ giờ về nhà rồi. Sao hôm đã mọc, sáng và nặng như một nụ hoa lài. Nó không một lần nhìn ra sau. Nó cứ đi, hình dáng nhòa dần như một bóng ma; bốn thằng nhỏ kia lặng lẽ xúm lại, đưa mắt dõi theo nó, mặt chúng trông nhỏ và tái đi trong ánh chạng vạng. Từ nhóm chúng đột ngột bật ra giọng nói oang oang: “Daaa!” Nó không ngoái nhìn. Một giọng nói thứ hai phát ra, dịu dàng, và đến tai nó, nghe êm và rõ: “Gặp lại mày ở nhà thờ ngày mai nghe Joe.” Nó không trả lời. Thỉnh thoảng nó đưa tay phủi cái quần yếm, một cách máy móc.
Khi nó về đến chỗ mà nhà nó hiện ra trong tầm mắt thì mọi ánh sáng đã lụi tàn ở phía Tây. Trong cánh đồng cỏ nằm sau kho thóc, có một con suối: một khóm cây liễu mà trong bóng tối người ta có thể ngửi, nghe, nhưng không thấy. Khi nó lại gần, tiếng kêu như sáo thổi của những chú ếch con ngưng bặt như nhiều sợi dây bị những cây kéo cắt đứt cùng lúc. Nó quỳ xuống; trời quá tối để có thể phân biệt đâu là cái đầu nó, ngay cả bằng đường nét. Nó rửa ráy mặt mũi, chùi sạch đôi mắt bị sưng. Nó đi tiếp, xuyên qua cánh đồng cỏ, về phía ánh sáng trong nhà bếp. Cái ánh sáng này có vẻ quan sát nó, dò xem nó, đầy vẻ hăm dọa, như một con mắt.
Khi đến sát hàng rào sân sau, nó dừng lại, đưa mắt nhìn ánh sáng hắt ra từ cửa sổ nhà bếp. Nó đứng đó một lát, người tựa vào hàng rào. Đám cỏ thì ồn ào, sống động với tiếng dế kêu vang. Trên mặt đất xám ướt sương, trên tấm màn tối tăm của cây cối, những con đom đóm lập lòe bay, khi ẩn khi hiện thất thường. Một con chim nhại hót trên cây bên cạnh nhà. Sau lưng nó, trong các rừng cây bên kia con suối, hai con chim đớp muỗi [54] hót vang. Xa hơn, như thể ở bên kia chân trời cuối cùng của mùa hè, một con chó săn hú lên. Rồi nó bước qua hàng rào và thấy một người nào đó ngồi bất động trước cửa chuồng bò trong đó có hai con bò cái mà nó đã chưa vắt sữa.
Nó không có vẻ ngạc nhiên khi nhận ra McEachern, như thể toàn bộ cái hoàn cảnh này thì hoàn toàn lô-gích, hợp lý và không thể tránh được. Có lẽ khi đó nó nghĩ đến việc là nó và người đàn ông lúc nào cũng có thể tin cậy lẫn nhau, tùy thuộc lẫn nhau; là chỉ riêng người đàn bà thì không thể đoán trước được. Và nó, kẻ đã chưa phạm cái mà McEachern chắc chắn xem như một trọng tội, có lẽ thấy là hoàn toàn phù hợp việc nó sắp sửa bị trừng phạt, đúng y như thể nó đã phạm cái tội đó. McEachern không đứng lên. Ông vẫn ngồi đó, dửng dưng như tảng đá, cái áo sơ-mi nổi lên mờ mờ trắng trên nền đen của cánh cửa hé mở. “Tao đã vắt sữa và cho bò ăn rồi,” ông nói. Rồi ông đứng dậy, vẻ dứt khoát. Có lẽ thằng nhỏ biết là ông đã cầm sẵn cái dây da trong tay. Dây vút lên, quất xuống, một cách đều đặn, có đếm số, tiếng roi quất nghe đục và rõ. Thân thể thằng nhỏ hẳn là bằng gỗ hay đá: một cái cột hay cái tháp mà trên đó cái phần có tri giác của nó suy tưởng như một nhà tu kín, trầm mặc và xa xôi trong sự nhập định hay sự đóng đinh tự nguyện trên thập giá.
Khi hai người đến gần nhà bếp thì đã bước đi bên nhau. Rồi khi ánh sáng từ cửa sổ hắt lên họ, người đàn ông ngừng lại, quay người, cúi xuống nhìn kỹ. “Mày đánh nhau à?” ông nói. “Về chuyện gì vậy?”
Thằng nhỏ không trả lời. Bộ mặt nó thì khá khép kín và điềm tĩnh. Sau một lát, nó trả lời. Giọng lạnh tanh và bình thản. “Không có gì cả.”
Họ cứ đứng đó. “Có phải ý mày là mày không thể hay không muốn nói ra đây?” Thằng nhỏ không trả lời. Nó không hạ ánh mắt xuống. Nó không nhìn cái gì cả. “Vậy thì mày là thằng ngu nếu mày không biết. Và nếu mày không nói ra thì mày là thằng điếm từ trước đến nay. Mày có đi với gái à?”
“Đâu có,” thằng nhỏ nói. Người đàn ông nhìn nó. Khi ông nói, giọng nghe có vẻ trầm ngâm.
“Mày không bao giờ nói láo với tao. Ít ra theo chỗ tao biết.” Ông nhìn thằng nhỏ, nét mặt nhìn nghiêng của nó trông bình thản. “Mày đánh nhau với đứa nào vậy?”
“Nhiều hơn một đứa.”
“Chà,” người đàn ông nói. “Tụi nó chắc bị đánh bầm tím chớ gì?”
“Con không biết. Chắc vậy.”
“Chà,” người đàn ông nói. “Đi tắm rửa đi. Bữa ăn tối sẵn sàng rồi đó.”
Khi lên giường ngủ tối đó, nó quyết định trốn đi. Nó cảm thấy mình như con đại bàng: cứng cỏi, đầy đủ, mạnh mẽ, không hối tiếc, tràn trề sinh lực. Nhưng cái quyết định này không tồn tại lâu, dù lúc đó nó không biết là, giống như con đại bàng, da thịt của chính nó cũng như toàn bộ cái không gian kia vẫn mãi là cái lồng.
***
McEachern mất hết hai ngày mới nhận ra là con bò cái tơ đã biến mất. Rồi ông tìm thấy một bộ com-lê mới ở chỗ mà người ta giấu trong chuồng ngựa; và khi xem xét nó, ông biết là chưa ai mặc cả. Ông tìm thấy nó trong buổi sáng, nhưng không nói gì. Tối hôm đó, ông đi vào chuồng bò, nơi Joe đang vắt sữa. Ngồi trên ghế đẩu, đầu tựa vào hông con bò, thân thể thằng nhỏ giờ đây ít nhất cũng cao bằng thân thể một người đàn ông. Nhưng McEachern không thấy điều đó. Nếu ông mà thấy được cái gì thì đó là đứa bé mồ côi năm tuổi ngồi trên ghế xe ngựa với sự thụ động lặng lẽ, cảnh giác và coi thường của một con thú vào buổi tối mùa đông mười hai năm trước. “Tao không thấy con bò cái tơ của mày,” McEachern nói. Joe không trả lời. Nó khom người trên cái xô, trên tiếng sữa phụt ra kêu xì xì liên tục. McEachern đứng sau, đang nhìn nó từ trên xuống. “Mày có nghe không, tao vừa nói, không thấy con bò cái tơ của mày đâu cả.”
“Con biết mà,” Joe nói. “Nó đi xuống chỗ con suối chớ đâu. Con sẽ đi tìm nó, bởi vì nó là của con mà.”
“À há!” McEachern nói. Không lên giọng. “Con suối đó ban đêm không phải là chỗ ở cho một con bò cái đáng giá năm chục đô-la đâu.”
“Nó mà mất thì mặc kệ con,” Joe nói. “Nó là của con trước đây mà.”
“Trước đây à?” McEachern nói. “Mày vừa nói trước đây con bò cái đó là của mày, phải vậy không?”
Joe không ngước nhìn lên. Giữa các ngón tay nó, sữa tiếp tục tia ra xuống cái xô. Nó nghe McEachern di chuyển phía sau lưng mình. Nhưng Joe không nhìn quanh cho tới khi sữa không ra nữa. Rồi nó quay người lại. McEachern đang ngồi trên một miếng gỗ gần cửa. “Tốt hơn mày xách sữa lên nhà trước đi,” ông nói.
Joe đứng lên, xô sữa đung đưa trong tay. Giọng nó quả quyết nhưng điềm tĩnh: “Con sẽ đi tìm nó sáng mai.”
“Đem sữa lên nhà đi đã,” McEachern nói. “Tao chờ mày ở đây.”
Joe còn đứng đó thêm một lát. Rồi nó bước đi. Nó ra khỏi chuồng bò và đi về phía nhà bếp. Bà McEachern đi vào khi nó đặt xô sữa lên bàn. “Bữa ăn tối sẵn sàng rồi đó,” bà nói. “Ông McEachern đã về chưa?”
Joe đã quay người đi về phía cửa. “Ổng sắp vào nhà rồi,” nó nói. Nó cảm thấy người đàn bà quan sát mình. Bà nói, giọng ngần ngừ và lo ngại:
“Con chỉ đủ thì giờ tắm rửa thôi đó.”
“Con và ổng sẽ vào nhà nhanh thôi mà.” Nó quay về chuồng bò. Bà McEachern ra đứng ở ngưỡng cửa, nhìn theo nó. Trời chưa tối hẳn và bà thấy ông chồng mình đứng ở cửa chuồng bò. Bà không lên tiếng gọi. Bà chỉ đứng đó, nhìn hai người đàn ông gặp nhau. Bà không thể nghe họ nói gì.
“Mày nói chắc nó phải ở dưới chỗ suối phải không?” McEachern nói.
“Con đã nói có lẽ vậy. Đồng cỏ dưới đó thì rộng mà.”
“À há,” McEachern nói. Cả hai giọng nói đều điềm tĩnh. “Mày nghĩ nó ở đâu bây giờ?”
“Con không biết. Con không phải là con bò cái. Con không biết nó có thể ở đâu.”
McEachern cất bước. “Tao với mày đi tìm xem sao,” ông nói. Họ đi vào cánh đồng cỏ, người này sau người kia. Con suối cách xa khoảng bốn trăm thước. Những con đom đóm lập lòe trên hàng cây tối tăm giăng ngang như tấm màn. Họ đến hàng cây đó. Các thân cây thì bị các bụi rậm chằng chịt ở đầm lầy làm cho nghẹn thở, khó mà vào sâu, thậm chí giữa ban ngày. “Kêu nó đi,” McEachern nói. Joe không trả lời, không cử động. Hai người đối mặt nhau.
“Nó là của con mà,” Joe nói. “Cha đã cho con mà. Con đã nuôi từ khi nó còn là con bê bởi vì cha cho con để nó là riêng của con mà.”
“Đúng,” McEachern nói. “Tao đã cho nó cho mày. Để dạy mày biết trách nhiệm khi có cái gì, khi sở hữu, khi có quyền sở hữu cái gì. Trách nhiệm của người sở hữu đối với cái mà mình sở hữu, dưới sự chấp thuận miễn cưỡng của Chúa. Để dạy mày biết lo xa và làm tăng giá trị. Kêu nó đi.”
Hai người còn đứng đối mặt nhau thêm một lát nữa. Có lẽ họ nhìn chòng chọc lẫn nhau. Rồi Joe quay người, đi dọc theo bờ đầm lầy, McEachern theo sau.“Tại sao mày không kêu nó?” ông nói. Joe không trả lời. Nó có vẻ không xem xét cả đầm lầy lẫn con suối chút nào. Trái lại, nó nhìn cái ánh sáng duy nhất đánh dấu ngôi nhà trong bóng tối, thỉnh thoảng ngoảnh mặt nhìn ra sau như thể tính toán khoảng cách giữa nó và ngôi nhà. Họ không đi nhanh, vậy mà họ đến được cái hàng rào đánh dấu ranh giới cuối cùng của cánh đồng cỏ. Trời bây giờ đã tối đen. Khi đến hàng rào, Joe quay lưng và dừng lại. Bây giờ nó nhìn người kia. Một lần nữa, họ đứng đối mặt nhau. Rồi McEachern nói: “Mày đã làm gì với con bò cái tơ đó?”
“Con đã bán nó,” Joe nói.
“À há! Mày đã bán nó. Và người ta trả mày bao nhiêu, nếu mày để tao hỏi?”
Giờ thì họ không thể phân biệt mặt mũi lẫn nhau nữa. Hai người chỉ còn là bộ dạng, cao gần như nhau, dù McEachern thì to con hơn. Trên áo sơ-mi trắng giờ chỉ thấy được lờ mờ, cái đầu của McEachern trông giống như một trong những viên đạn đại bác bằng cẩm thạch người ta thấy ở các đài tưởng niệm cuộc Nội chiến. “Con bò cái của con mà,” Joe nói. “Nếu nó không phải của con thì tại sao cha biểu nó là của con? Tại sao cha đã cho con?”
“Mày có lý đó. Nó là riêng của mày. Tao không rầy la mày về chuyện mày bán nó, miễn là mày bán được giá. Và thậm chí mày có bị thiên hạ gạt trong việc mua bán này, một thằng nhỏ mười tám tuổi thì chắc dễ bị gạt lắm, tao vẫn không la rầy mày đâu. Tuy vậy, đáng lẽ mày nên hỏi ý kiến của người nào có nhiều kinh nghiệm đời hơn. Nhưng thôi, mày phải tự học chuyện đời mà, như tao đã từng. Điều mà tao muốn hỏi là, mày đã để tiền ở đâu cho an toàn?” Joe không trả lời. Hai người đối mặt nhau. “Mày đã đưa cho má nuôi để giữ giùm, phải vậy không đó?”
“Phải,” Joe nói. Miệng nó nói ra như vậy, một lời nói láo. Trước đó, nó đã không có ý định trả lời chút nào. Nó nghe miệng nó buột ra cái tiếng đó với một thứ ngạc nhiên tức tối. Nhưng, đã trễ rồi. “Con đã đưa tiền cho má giữ,” nó nói.
“À há,” McEachern nói. Ông thở dài; đó là một tiếng thở khoan khoái vì thỏa mãn và chiến thắng. “Và mày chắc chắn cũng sẽ nói rằng chính má nuôi đã mua bộ com-lê mới mà tao thấy giấu ở tầng trên chuồng ngựa. Mày đã để lộ ra tất cả tội lỗi mà mày đủ sức phạm phải: lười biếng, vô ơn bạc nghĩa, và ăn nói thiếu tôn kính và xúc phạm Chúa. Và bây giờ tao bắt quả tang mày phạm hai tội còn lại: nói láo và dâm đãng. Mày dùng bộ com-lê đó để làm gì, để đi chơi bời đàng điếm chớ gì? Rồi ông chợt nhận ra thằng bé ông mang về nuôi mười hai năm trước giờ đây đã là một người đàn ông rồi. Mặt đối mặt, chân đối chân, ông vung nắm tay đấm mạnh Joe.
Joe nhận hai cú đấm đầu tiên; có lẽ vì thói quen, có lẽ vì ngạc nhiên. Nhưng nó chịu đựng, cảm thấy hai lần cái nắm tay cứng rắn của McEachern đập mạnh vào mặt mình. Rồi nó nhảy vọt ra phía sau, thu mình lại, đưa lưỡi liếm máu, thở hổn hển. Hai người vẫn đối mặt nhau. “Này, đừng có cả gan đánh tôi lần nữa,” nó nói.
Sau đó, nằm trên giường ở gác mái, người lạnh và cứng đờ, nó nghe tiếng nói của họ từ căn phòng bên dưới vang đến qua cái cầu thang hẹp.
“Chính tôi đã mua nó cho con!” Bà McEachern nói. “Chính tôi mà! Tôi đã mua nó bằng tiền túi của tôi. Ông có nói là tôi có thể sở hữu... có thể tiêu xài mà... Ôi, ông Simon ơi! Ông Simon ơi!”
“Bà nói láo còn vụng về hơn cả nó,” người đàn ông nói, giọng chừng mực, khàn khàn, không giận dữ, đi qua cầu thang chật hẹp mà lên tận giường Joe đang nằm. Nó không nghe nữa. “Quỳ xuống đi! Quỳ xuống đi! QUỲ XUỐNG, CON ĐÀN BÀ kia. Hãy cầu xin Chúa, chớ không phải ta, ban ân sủng và tha tội cho.”
***
Bà luôn cố gắng tỏ ra tử tế với nó, ngay từ buổi tối tháng chạp đầu tiên cách đây mười hai năm. Bà đang đợi ở ngoài hiên - một con người kiên nhẫn, mờ nhạt, không có gì biểu lộ giới tính của mình ngoại trừ cái váy và cái búi tóc hoa râm gọn gàng - khi chiếc xe ngựa về đến nhà. Dường như thay vì bị giết hại hay bị biến đổi một cách tinh tế bởi người đàn ông tàn nhẫn và cố chấp thành một cái gì đó mà bà không nhận thấy và nằm ngoài ý định của ông, bà đã bị gò một cách bền bỉ, càng ngày càng mỏng đi như một thứ kim loại thụ động và dễ dát, cho đến mức chỉ còn là một mớ những hy vọng mơ hồ, những ham muốn không được thỏa mãn, giờ đây yếu ớt và nhợt nhạt như tro tàn.
Khi chiếc xe ngựa dừng lại, bà đi tới như thể bà đã sửa soạn trước mọi thứ, đã tập dợt trước mọi thứ: bằng cách nào bà sẽ đỡ nó xuống xe và bế nó vào nhà. Nó không hề được đàn bà bế từ khi nó biết đi. Nhưng nó tránh né bà, quờ quạng xuống xe, đi vào nhà trên chính đôi chân của mình, từng bước ngắn, trông nhỏ thó và không ra hình thù gì rõ ràng trong cái mền trùm lên người. Bà đi theo, lởn vởn quanh nó. Bà kéo ghế cho nó ngồi. Như thể bà lởn vởn quanh nó với một thứ như sự cảnh giác căng thẳng, vẻ mặt vừa bối rối, vừa tỉnh táo, chờ lúc thuận tiện để bắt đầu lại và cố gắng làm cho nó và cả chính mình xử sự theo như bà đã sắp đặt trước đó. Quỳ trước mặt nó, bà tìm cách cởi giày cho nó. Khi nhận ra điều bà muốn làm, nó đẩy tay bà ra rồi tự mình cởi hai chiếc giày, dù không đặt chúng xuống sàn nhà. Nó giữ chúng trong tay. Bà cởi đôi bít tất dài của nó, rồi đi lấy một chậu nước nóng. Bà mang nước tới nhanh đến nỗi hẳn ai cũng biết, trừ con nít, là bà chắc phải giữ nước nóng chờ đó cả ngày để được sẵn sàng như vậy. Vào lúc đó thì nó mở miệng lần đầu tiên. “Tui đã rửa ráy hôm qua rồi,” nó nói.
Bà không trả lời. Bà quỳ trước nó trong khi nó nhìn đỉnh đầu bà và hai bàn tay bà sờ soạng đôi bàn chân nó một cách hơi vụng về. Nó không thử giúp bà nữa. Nó không biết bà đang cố sức làm gì, ngay cả khi nó ngồi đó, hai bàn chân bị lạnh đang ngâm trong nước nóng. Nó không biết rằng chẳng có cái gì khác, vì cảm thấy quá sướng. Nó chờ đợi cái phần còn lại bắt đầu, cái phần chẳng dễ chịu chút nào, bất cứ cái phần đó là cái gì. Chuyện này thì cũng chưa bao giờ xảy ra với nó trước đây.
Sau đó, bà đưa nó vào giường. Nó đã tự mặc và cởi áo quần một mình trước đó, trong gần hai năm, không để ai chú ý hay giúp đỡ, ngoại trừ thỉnh thoảng một vài Alice [55] . Nó quá mệt để có thể nhắm mắt ngủ ngay lập tức, và bây giờ nó cảm thấy bối rối và do đó trở nên căng thẳng, chờ cho đến khi bà đi khỏi để có thể ngủ. Nhưng bà không đi ra. Trái lại, bà kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống. Phòng lạnh ngắt, không có đốt lửa để sưởi. Bây giờ bà quấn một khăn choàng quanh vai, và hơi thở được bọc ấm trong khăn trở thành hơi nước như thể bà đang hút thuốc. Và giờ thì nó tỉnh như sáo sậu. Nó chờ đợi sự bắt đầu của cái phần mà nó không thích, bất kể cái đó là cái gì, bất kể cái đó là cái gì mà nó đã làm. Nó đâu biết rằng chẳng có cái gì khác. Và đó cũng là điều chưa bao giờ xảy ra với nó trước đây.
Đêm đó, chuyện bắt đầu. Nó tin là chuyện này sẽ kéo dài đến hết phần đời còn lại của nó. Vào tuổi mười bảy, khi nhìn lại quá khứ, nó có thể thấy, bây giờ, một chuỗi dài những cố gắng nhỏ mọn, vụng về, vô ích, phát sinh từ sự bất mãn, từ sự dò dẫm và từ bản năng tối tăm: những đồ ăn cho nó mà bà sửa soạn một cách kín đáo và nằn nì nó chấp nhận và ăn uống cũng một cách kín đáo trong khi nó không muốn chút nào, và nó biết là dù gì đi nữa thì McEachern cũng chẳng thèm để ý đến; Đã có nhiều lần, như tối nay, bà ra sức xen vào giữa nó và sự trừng phạt, dù xứng đáng hay không, dù đúng hay không, sự trừng phạt này vẫn là khách quan mà người đàn ông và thằng nhỏ chấp nhận như một sự việc tự nhiên và không thể tránh được, cho tới khi, bằng cách xen vào, bà cho sự việc ấy một mùi thơm, một sự giảm nhẹ, một dư vị.
Đôi khi Joe nghĩ mình sẽ nói ra với riêng bà, một người không thể, vì sự bất lực của mình, thay đổi hay bỏ qua cái chuyện này, và cho riêng bà biết, buộc bà phải giấu với người đàn ông mà cái phản ứng tức khắc và thấy trước được của ông ta đối với cái biết đó sẽ xóa bỏ cái chuyện này như là một yếu tố trong mối quan hệ của họ đến độ cái chuyện này sẽ không bao giờ xuất hiện lại nữa. Để nói với bà một cách kín đáo, để đền đáp một cách kín đáo những đồ ăn kín đáo mà nó đã không muốn: “Má nghe này, ổng nói là ổng đã nuôi dưỡng một thằng ăn nói báng bổ và vô ơn bạc nghĩa. Con thách má nói với ổng là ổng đã nuôi dưỡng ai cho tới nay. Là ổng đã nuôi dưỡng một thằng mọi đen ngay dưới mái nhà của mình, với đồ ăn của chính mình, ngay tại bàn ăn của chính mình.”
Bởi vì bà bao giờ cũng tỏ ra tử tế với nó. Người đàn ông đó, người đàn ông cứng rắn, đúng đắn, tàn nhẫn đó, chỉ đơn giản trông chờ nó hành sử theo một cách nào đó và nhận phần thưởng hay hình phạt nào đó, y như nó có thể trông chờ người đàn ông đó phản ứng theo một cách nào đó đối với những việc làm tốt hay xấu nào đó của riêng nó. Chính là người đàn bà đó, với tính cách và bản năng phụ nữ ưa giữ bí mật, mới tìm ra dấu vết mơ hồ của cái ác trong những hành động tầm thường và vô tội nhất. Đằng sau tấm ván di động trên tường của gác mái nơi nó ngủ, bà đã giấu một số tiền tích trữ nhỏ trong một cái lon thiếc. Tiền thì chẳng bao nhiêu và chắc không phải là bí mật đối với ai ngoại trừ ông chồng, và thằng nhỏ tin là nó đã không quan tâm đến làm gì. Nhưng chuyện giấu tiền này thì không bao giờ bí mật đối với nó. Ngay từ khi nó còn là trẻ con, bà đã dẫn nó theo với mình, và với tất cả sự thận trọng chi li và bí ẩn của một đứa bé chơi đùa, bà leo lên gác mái và bỏ thêm vào số tiền tích trữ ít oi và hiếm hoi và kinh khủng đó những đồng năm và mười xen (kết quả của vài trò lừa dối, vài trò lường gạt nhỏ nhặt, tuy rằng không ai ở bất cứ nơi nào dưới mặt trời này đã từng nói không với bà, và việc này thì nó không biết), bỏ vào lon dưới cặp mắt tròn xoe của nó những đồng xu mà nó thậm chí không biết đến giá trị của chúng. Chính bà đã tin cậy nó, khăng khăng tin cậy nó, y như bà khăng khăng bắt nó ăn: cùng nhau âm mưu, cùng nhau giữ bí mật, biến chính cái hành động này thành một bí mật mà sự việc tin cậy phải làm ví dụ minh họa.
Không phải công việc vất vả mà nó ghét; cũng không phải sự trừng phạt hay sự bất công. Nó đã quen với chuyện đó ngay cả trước khi gặp cha mẹ nuôi của mình. Nó không trông đợi ít hơn các điều đó đâu, và như vậy nó không cảm thấy bị xúc phạm mà cũng chẳng tỏ ra ngạc nhiên. Chính là người đàn bà đó: lòng tử tế nhu nhược này mà Joe tự nó tin là mình bị bắt làm nạn nhân vĩnh viễn và nó thù ghét cái lòng tử tế này còn hơn cái công lý khắc nghiệt và tàn nhẫn của đám đàn ông. ‘Bả cố làm cho mình khóc đó,’ nó nghĩ trong khi nằm dài, lạnh và cứng đờ trong giường, hai bàn tay đặt dưới đầu, thân thể tắm trong ánh trăng, tai nghe tiếng thầm thì liên tục của giọng nói người đàn ông theo cầu thang mà lên trong chặng đầu tiên hướng tới thiên đường; ‘Bả đã cố làm cho mình khóc trước đây. Rồi bây giờ bả nghĩ ổng bả hẳn đã thắng mình như vậy.’