← Quay lại trang sách

Chương 8

Không gây tiếng động, nó lấy ra một sợi dây thừng từ chỗ giấu. Một trong hai đầu dây thì được sửa soạn sẵn để cột vào cửa sổ. Bây giờ, nó có thể leo xuống đất hay leo ngược lên chỉ trong chớp mắt. Bây giờ, sau hơn một năm tập luyện, nó có thể leo dây mà chỉ dùng sức hai cánh tay, không một lần đụng vào tường, với sự nhanh nhẹn như bóng ma của một con mèo. Khom người ở cửa sổ, nó thả nhẹ đầu dây kia xuống tận đất. Dưới ánh trăng, cái dây trông mong manh như tơ nhện. Rồi, với hai chiếc giày cột chung lại và đeo sau lưng vào cái nịt, nó theo dây tụt xuống, vụt ngang qua như chiếc bóng trước cửa sổ căn phòng hai người già đang ngủ. Cái dây treo ngay trước cửa sổ đó. Nó kéo sang một bên, kéo căng cho sát tường và cột lại. Rồi, dưới ánh trăng, nó đi tới chuồng ngựa, trèo lên tầng trên và lấy ra bộ com-lê mới từ chỗ giấu. Bộ đồ được gói cẩn thận trong giấy. Trước khi mở ra nó dùng bàn tay rờ mó các nếp giấy gấp. ‘Ổng tìm ra cái này rồi,’ nó nghĩ. ‘Ổng biết.’ Nó nói ra tiếng, thầm thì: “Đồ quỉ quyệt. Đồ chó đẻ.”

Nó mặc đồ trong bóng tối, rất nhanh. Nó đã bị trễ, bởi vì nó phải để họ có thì giờ mà ngủ yên sau tất cả sự náo động về con bò cái tơ. Sự náo động này thì do người đàn bà gây ra, vì bà đã xen vào sau khi sự việc đã xong xuôi, đã được giải quyết, ít ra là cho đêm nay. Trong gói giấy có một áo sơ-mi trắng và cà vạt. Nó bỏ cà vạt vào túi, nhưng nó mặc thêm áo vest để chiếc sơ-mi trắng không quá lộ liễu dưới ánh trăng. Nó đi xuống và ra khỏi chuồng ngựa. Vải mới, sau khi mặc quần yếm đã mềm xèo vì giặt quá nhiều, cho nó cảm giác giàu có và thô ráp. Ngôi nhà nằm im ắng dưới ánh trăng, tối tăm, thâm trầm, hơi dối trá. Như thể dưới ánh trăng ngôi nhà đã có thêm một nhân cách: đe dọa, lừa lọc. Nó tạt ngang trước nhà và đi vào con đường làng. Nó rút ra từ túi quần cái đồng hồ có giá một đô-la. Nó mua cái này ba ngày trước, với một phần tiền có được. Nhưng vì nó chưa bao giờ sở hữu một cái đồng hồ trước đây nên nó đã quên lên giây. Nhưng mà nó đâu cần đồng hồ để biết mình bị trễ rồi.

Con đường làng chạy thẳng dưới trăng, hai bên có cây cối mà thân cành thì dày và rõ nét như sơn màu đen, trải bóng trên lớp bụi mỏng. Nó bước nhanh, bỏ lại ngôi nhà đằng sau, và bây giờ nếu từ nhà nhìn ra thì không thể thấy nó nữa. Trước mặt nó, gần đó, con đường làng sẽ gặp con lộ lớn. Giờ thì nó trông đợi chiếc xe hơi chạy ngang qua vào bất cứ lúc nào, vì nó đã dặn nàng là nếu không thấy nó chờ ở ngã ba đường thì nó sẽ gặp nàng ở ngôi trường, nơi đang có buổi khiêu vũ. Nhưng không có chiếc xe nào chạy qua, và khi đến được con lộ, nó chẳng nghe gì cả. Đường, đêm, đều trống vắng. ‘Có lẽ cổ đã đi qua rồi,’ nó nghĩ. Nó lấy ra lại cái đồng hồ đứng kim và nhìn nó hơi lâu. Đồng hồ đứng vì nó đã không có dịp lên giây. Nó bị trễ ngoài ý muốn bởi chính những người đã không cho nó cơ hội lên giây cái đồng hồ của mình, và như vậy đã không cho nó biết là có trễ hay không. Ở đầu con đường làng tối tăm, trong ngôi nhà giờ đây đã ở ngoài tầm mắt, người đàn bà đó giờ đây nằm ngủ, sau khi đã làm tất cả những gì có thể để làm nó trễ hẹn. Nó nhìn theo hướng đó, về phía đầu con đường làng; nó ngừng cùng lúc cái việc nhìn và suy nghĩ, như thể trí óc và thể xác nó có cùng một nút điều khiển, tin mình đã thấy cái gì đó di chuyển giữa các bóng tối trên con đường làng. Rồi nó nghĩ mình lầm, có lẽ đã thấy cái đó trong đầu, được chiếu lên tường như một cái bóng. ‘Nhưng mình mong đúng là ổng,’ nó nghĩ. ‘Mình ước gì đúng là ổng. Mình ước gì ổng đi theo mình và thấy mình leo lên xe hơi. Mình ước gì ổng thử bám theo mình. Mình ước gì ổng thử chặn mình lại.’ Nhưng nó chẳng thấy gì trên con đường làng vắng vẻ, ngắt quãng bằng những cái bóng gian trá. Rồi nó nghe từ xa, trên con lộ, hướng về phía thành phố, tiếng chiếc xe hơi. Nó nhìn và sau một lát thấy ánh phản chiếu của hai ngọn đèn pha.

***

Nàng làm bồi bàn trong một tiệm ăn nhỏ, dơ dáy, nằm trong hẻm dưới phố. Một người lớn chỉ tình cờ nhìn thoáng qua cũng biết ngay là nàng đã quá tuổi ba mươi. Nhưng dưới mắt Joe, nàng trông không hơn mười bảy, chắc vậy, vì nàng nhỏ thó lắm. Nàng không những nhỏ thó mà còn mảnh dẻ nữa, gần như giống đứa con nít. Nhưng dưới mắt người lớn, sự nhỏ thó này không đến từ sự mảnh mai tự nhiên mà từ sự sa đọa nội tâm: sự mảnh mai ấy đã chưa bao giờ thanh xuân, và trong các đường cong của thân thể nàng thì không có lấy một cái gì trẻ trung đã từng sống hay còn sống lay lất ở đó. Tóc nàng đen. Khuôn mặt thì xương xẩu, bao giờ cũng cúi xuống đất, như thể cái đầu nàng được đặt sẵn như vậy, hơi lệch khỏi cổ một chút. Cặp mắt thì giống như mắt hạt trai của các con thú bông: với cái gì đó hơn cả sự cứng rắn mà thực sự lại không cứng rắn.

Chính vì sự nhỏ thó đó mà nó cố tìm nàng, làm như sự nhỏ thó phải hay có thể bảo vệ nàng trước những cặp mắt láo liên đầy tà tâm của phần lớn đàn ông, và như vậy cho nó cơ hội tốt hơn để chinh phục nàng. Giả thử nàng to con lớn xác hơn thì nó đã không dám. Và nó hẳn sẽ nghĩ, ‘Để làm gì chớ! Cổ chắc đã có kép rồi, một thằng cha nào đó.’

Câu chuyện bắt đầu vào mùa thu khi nó mười bảy tuổi. Đó là một ngày giữa tuần. Mỗi khi họ xuống thị xã thì thường vào ngày thứ bảy, và họ mang theo đồ ăn trưa - đồ nguội đặt trong cái giỏ được mua và giữ lại cho việc này - với ý định trải qua cả buổi chiều ở đó. Ngày hôm đó, McEachern đến gặp viên luật sư, với ý định lo xong việc và quay về nhà trước giờ ăn trưa. Nhưng mãi đến gần mười hai giờ trưa mới thấy ông xuất hiện ở con đường mà Joe đang chờ. Ông vừa đến, vừa nhìn đồng hồ của mình. Rồi ông nhìn lên cái đồng hồ thị xã đặt trên tháp tòa thị sảnh rồi nhìn mặt trời, mặt lộ vẻ bực tức và căm giận. Ông cũng nhìn Joe với vẻ mặt đó, cái đồng hồ đã mở trong tay, cặp mắt lạnh lùng, cáu kỉnh. Dường như ông đang xem xét và cân nhắc, lần đầu tiên, cái thằng nhỏ mà ông đã nuôi dạy từ thuở còn thơ. Rồi ông quay người. “Đi với tao,” ông nói. “Biết làm sao được bây giờ!”

Thị xã là điểm phân nhánh của các đường xe lửa. Tuy giữa tuần mà vẫn có nhiều đàn ông ở ngoài đường. Toàn bộ bầu không khí thị xã thì toát ra tính khí đàn ông, và người ta có vẻ đến rồi đi chớ không ở lại lâu dài: một dân cư mà ngay cả các ông chồng cũng chỉ ở nhà cách khoảng và vào dịp nghỉ lễ thôi - một dân cư đàn ông có cuộc sống bí hiểm, mà hiện trường thực sự của họ thì ở xa, mà sự hiện diện đứt quãng của họ thì được nuông chiều như sự hiện diện của các khán giả ở rạp hát.

Joe chưa từng thấy trước đó cái chỗ McEachern dẫn nó đến. Đó là một tiệm ăn nằm trong một con hẻm - một cánh cửa hẹp dơ dáy giữa hai cửa sổ dơ dáy. Thoạt đầu, nó không biết đó là một tiệm ăn. Không có biển hiệu bên ngoài và nó không ngửi thấy mùi đồ ăn, cũng không nghe thấy tiếng nấu nướng. Nó chỉ thấy một cái quầy dài bằng gỗ với một hàng ghế không lưng tựa, và một mụ đàn bà tóc vàng to béo sau tủ kính xì gà gần chỗ ra vào và một nhóm đàn ông ở phía cuối quầy, không phải đang ăn uống, tất cả cùng quay đầu như một người và nhìn nó với McEachern bước vào, xuyên qua màn khói thuốc lá. Không ai mở miệng nói gì. Họ chỉ nhìn McEachern và Joe làm như họ đã ngừng thở cùng một lúc với ngừng nói, làm như cả khói thuốc cũng ngừng theo và bây giờ bay vô định, lơ lửng trên sức nặng của riêng nó. Đám đàn ông không mặc quần yếm nhưng tất cả đều đội mũ, và bộ mặt họ thì giống nhau tất: không trẻ, không già; không nông dân mà cũng chẳng thị dân. Họ trông giống như những người vừa xuống xe lửa và ngày mai lại đi nữa, những người không có địa chỉ nào trong đời.

McEachern và Joe ngồi ăn trên hai chiếc ghế không lưng tựa ở quầy. Joe ăn nhanh bởi vì McEachern ăn nhanh. Bên cạnh nó, người đàn ông dù đang bận ăn vẫn có giữ thế ngồi cứng ngắc, mặt còn lộ vẻ căm tức. Đồ ăn mà McEachern gọi ra thì đơn giản: nấu nhanh và ăn nhanh. Nhưng Joe biết là không phải vì keo kiệt. Có lẽ sự keo kiệt đã dẫn họ tới đây hơn là tới chỗ khác, nhưng nó biết chính là ý muốn ra đi cho nhanh đã chọn lựa các đồ ăn. Ngay khi vừa đặt dao nĩa ăn xong xuống quầy, McEachern nói, “Đi thôi,”. Ở quầy xì gà, McEachern trả tiền cho người đàn bà tóc màu đồng thau. Nhìn bà, người ta có cảm tưởng là nơi bà có cái gì đó dửng dưng với thời gian: một sự đứng đắn cứng cỏi như nạm kim cương ở ngoài mặt, và hung hăng. Bà thậm chí không nhìn họ, khi họ đi vào cũng như khi McEachern đưa tiền. Vẫn không nhìn họ, bà thối tiền, nhanh và đúng, đẩy các đồng tiền trượt trên quầy kính, hầu như không để cho McEachern có thì giờ đưa cho tờ bạc giấy. Bà hầu như tự tạo cho mình một bề thế phía sau ánh lấp lánh giả tạo của mái tóc được chăm sóc kỹ lưỡng, khuôn mặt thận trọng, giống như tượng một con sư tử cái ngồi giữ cổng, giương ra sự đứng đắn như một tấm mộc mà đằng sau đó có những người đàn ông tụm năm tụm ba, nhàn rỗi, mập mờ, tha hồ mà đội lệch mũ và ngậm lệch điếu thuốc, mặt họ bị các cuộn khói xoắn rạch lên. McEachern đếm tiền thối rồi hai người đi ra ngoài đường. Ông lại nhìn Joe lần nữa. Ông nói: “Tao muốn mày nhớ chỗ này. Trên thế giới này có những chỗ mà một người đàn ông có thể tới nhưng một thằng con nít hay một thằng mới lớn ở tuổi mày thì không thể tới. Tiệm ăn này là một trong những chỗ đó. Lẽ ra mày không bao giờ nên tới đó. Nhưng mày phải thấy những thứ như vậy để mà biết cái gì phải tránh ra và xa lánh. Có lẽ tốt hơn mày đến đó với tao để tao giải thích và cảnh báo mày. Và ăn uống ở đó thì rẻ.”

“Nó có cái gì không tốt, cái chỗ này?” Joe nói.

“Đó là chuyện của phố thị, không phải chuyện của mày. Mày chỉ phải chú ý đến những điều tao nói đây: tao cấm mày trở lại chỗ đó trừ phi có tao đi cùng. Nhưng việc này sẽ không xảy ra nữa đâu. Lần tới, dù đi sớm hay trễ, tao sẽ mang theo đồ ăn trưa.”

Đó là những gì nó thấy ngày hôm đó trong khi ăn nhanh bên cạnh người đàn ông cứng rắn và căm tức một cách điềm tĩnh, hai người hoàn toàn cô lập ngay chính giữa cái quầy dài. Ở một đầu quầy là mụ đàn bà tóc màu đồng thau, và ở đầu kia là nhóm đàn ông và cô bồi bàn với bộ mặt nghiêm túc, hay cúi gằm và hai bàn tay to, quá to, đang sắp đặt các dĩa, tách, và cái đầu nàng khi ngẩng lên sau quầy thì có chiều cao của một đứa trẻ cao lớn. Rồi nó và McEachern rời đi. Nó không mong có bao giờ trở lại. Không phải vì McEachern cấm đoán nó, nhưng đơn giản vì nó tin là cuộc đời sẽ không còn cho nó cơ hội nào nữa. Như thể nó tự nói với chính nó, “Đây không phải là những người giống mình. Mình có thể thấy họ nhưng không biết họ đang làm gì và cũng không biết tại sao. Mình có thể nghe họ nhưng không biết họ đang nói gì, tại sao, nói với ai. Mình biết là không phải chỉ có đồ ăn, việc ăn mà còn có cái gì đó khác nữa. Nhưng mình không biết đó là cái gì. Và mình sẽ không bao giờ biết được.”

Và như vậy chuyện đó biến mất khỏi bề nổi những ý tưởng của nó. Đôi khi, trong vòng sáu tháng tiếp theo, nó có xuống thị xã nhưng chẳng bao giờ vào lại tiệm ăn đó, ngay cả đi ngang cũng không. Nó đã có thể làm vậy được. Nhưng nó không nghĩ vậy. Có lẽ nó không cần. Có lẽ thường xuyên hơn là nó biết, ý nghĩ của nó bỗng dưng biến thành một bức tranh, lúc đầu mơ hồ rồi rõ nét hơn: một cái quầy dài, trống không, ít nhiều có vẻ đáng ngờ, với một mụ đàn bà tóc đỏ chói, bộ mặt lạnh lùng, ngồi bất động ở một đầu như thể canh giữ quầy, và ở đầu kia, những người đàn ông đầu cúi xuống, hút liên tục, bật lửa và vứt đi những điếu thuốc lá lúc nào cũng ở trên miệng, và cô bồi bàn, một người đàn bà không cao lớn hơn một đứa trẻ, đang đi tới đi lui giữa quầy và nhà bếp, tay mang bát đĩa, mỗi lần là phải đi ngang trong tầm tay sờ soạng của đám đàn ông cứ cúi người xuống, mũ lệch xuống tai, nói chuyện với nàng xuyên qua khói thuốc, thầm thì với nàng cái gì đó một cách gần như thích thú và hân hoan, và bộ mặt nàng thì trầm ngâm, nghiêm túc, cúi gằm xuống, như thể nàng không nghe gì cả. Nó nghĩ, ‘Mình thậm chí không biết họ đang nói cái gì với cổ,’ trong khi nghĩ Mình thậm chí không biết là họ đang nói với cổ những điều mà cánh đàn ông không nói trước mặt đứa con nít tin rằng Mình chưa biết là vào lúc ngủ mí mắt khép lại thì giam hãm, ngay ở trong mắt, khuôn mặt nghiêm trang, trầm ngâm, bi thảm, buồn bã, và trẻ trung của người đàn bà này; một khuôn mặt đầy chờ mong, mang sắc màu của tất cả ma lực mơ hồ, chưa thành hình của nỗi ham muốn thanh xuân. Đã có rồi, cái gì đó để nuôi dưỡng tình yêu. Đã ngủ rồi, bây giờ mình biết tại sao, tuy có tự kiềm chế, mình đã đánh đập đứa con gái da đen đó cách đây ba năm. Và cổ cũng phải biết chuyện này và phải tự hào nữa, trong sự chờ đợi đầy kiêu hãnh

Vậy là nó không trông đợi gặp lại nàng lần nữa, bởi vì tình yêu nơi những người trẻ thường cần sự ham muốn hơn là hy vọng để sống. Rất có thể là nó thấy mình ngạc nhiên không kém gì McEachern, nếu như ông biết chuyện, trước hành động của mình và trước những gì mà hành động này làm lộ ra, làm nghĩ tới. Lần này thì đúng ngày thứ bảy, vào mùa xuân. Nó vừa tròn mười tám tuổi. McEachern có việc phải gặp lại luật sư của mình. Nhưng lần này ông sửa soạn trước. “Tao sẽ ở đó khoảng một tiếng đồng hồ,” ông nói. “Mày có thể làm một vòng đi xem phố xá.” Ông nhìn Joe một lần nữa, nghiêm khắc và có tính toán trong đầu, lại tỏ ra băn khoăn, như một con người chính trực bị buộc phải thỏa hiệp giữa công lý và sự xét xử. “Đây này,” ông nói. Ông mở ví tiền và lấy ra một đồng tiền. Mười xen . “Mày ráng đừng có vung tiền lung tung cho bất kỳ ai muốn lấy nghe. Thực kỳ lạ,” ông nói một cách khó khăn, “dường như con người ta chỉ có thể biết được giá trị tiền bạc bằng cách biết phung phí nó trước tiên. Mày phải trở lại đây trong vòng một giờ.”

Nó nhận đồng tiền đó và đi thẳng tới tiệm ăn. Nó thậm chí không bỏ tiền vào túi. Nó làm chuyện này không suy nghĩ trước, không có mục đích, gần như không có ý muốn, như thể hai bàn chân dẫn dắt nó chứ không phải cái đầu. Nó cầm đồng tiền rất chặt, nhỏ và nóng trong lòng bàn tay, như con nít hay làm. Một cách vụng về và hơi loạng choạng, nó bước qua cánh cửa có khung lưới. Mụ đàn bà tóc vàng sau tủ kính xì gà (bà dường như đã không di chuyển trong sáu tháng qua, không sửa đổi một lọn của mái tóc ánh màu đồng thau cứng ngắt, hay ngay cả chiếc áo đầm) nhướng mắt nhìn nó. Ở đầu quầy bên kia, một nhóm đàn ông với mũ đội lệch và điếu thuốc gắn trên miệng và mùi tiệm hớt tóc trên người, cũng nhướng mắt nhìn nó. Tên chủ tiệm đang ở giữa bọn họ. Nó nhận ra, nó thấy tên chủ tiệm lần đầu tiên. Như những người đàn ông khác, hắn cũng đội mũ và hút thuốc. Hắn không cao to lắm, không cao to hơn chính Joe bao nhiêu, với điếu thuốc đang cháy ở góc miệng, như thể để cho lời nói đi qua không bị vướng mắc. Chính từ bộ mặt có mắt lé và bất động sau các vòng khói của điếu thuốc lá mà bàn tay không đụng đến một lần cho tới khi nó cháy hết và được nhổ ra và chà bẹp dưới gót giày, mà Joe sẽ có được một trong những thói kiểu cách của mình. Nhưng giờ thì chưa đâu. Cái đó sẽ phải đến sau này, khi cuộc đời bắt đầu diễn biến nhanh đến mức mà sự chấp nhận sẽ thay thế cho sự hiểu biết và sự tin tưởng. Bây giờ nó chỉ nhìn tên đàn ông đang cúi người phía sau quầy, với cái tạp dề dơ dáy trên người mà hắn mặc giống như một tên trộm đeo bộ râu giả tạm thời. Sự chấp nhận sẽ phải đến sau này, cùng lúc với toàn bộ những gì vào lúc này có vẻ như một sự lăng mạ đối với tính cả tin: cái ý tưởng hai con người này có thể là vợ chồng, cái nhà này như là chỗ kinh doanh ăn uống, với những cô bồi bàn được thâu nhận hết cô này đến cô khác, chỉ vừa biết bưng bê những dĩa đồ ăn rẻ tiền, nhờ rẻ tiền mà tiệm ăn mới sống được đó; và nó chấp nhận, ưa thích, trong khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi và dữ dội này, như một con ngựa đực chưa thiến hay ngờ vực, ngạc nhiên và mê mẩn trên cánh đồng cỏ bí mật đầy những con ngựa cái chuyên nghiệp và mệt mỏi, và nó, đến lượt mình, làm nạn nhân của vô số những con người vô danh.

Nhưng chuyện này chưa xảy ra đâu. Nó đi đến bên quầy, kẹp chặt đồng tiền trong tay. Nó tin là tất cả đàn ông đều ngừng nói để nhìn nó, bởi vì nó không thể nghe gì hết bây giờ, ngoại trừ tiếng chiên xào khó chịu sau cửa bếp, và nó nghĩ Cổ ở phía sau đó. Vì vậy mà mình không thấy cổ Nó ngồi lên ghế. Nó tin là cả đám đàn ông đang nhìn nó. Nó tin là mụ đàn bà sau tủ kính xì gà đang nhìn nó, và tên chủ tiệm cũng vậy, những làn khói thuốc trước mặt hắn dường như trở nên bất động trong sự đốt cháy lười biếng. Rồi tên chủ tiệm nói ra một từ duy nhất. Joe biết là hắn ta không di chuyển hay đụng tay vào điếu thuốc. “Bobbie,” hắn nói.

Một cái tên đàn ông. Đây không phải là một ý nghĩ. Vì quá nhanh, quá trọn vẹn: Cổ đã đi rồi. Họ thâu nhận một người đàn ông thế vào chỗ của cổ. Mình đã phung phí mười xen, như ổng nói Nó tin là nó không thể bỏ đi bây giờ; là mụ đàn bà tóc vàng sẽ chặn nó lại nếu nó cố đi ra. Nó tin là đám đàn ông ở phía sau biết điều này và đang cười nhạo nó. Vậy là nó ngồi yên trên ghế, hạ ánh mắt xuống, tay nắm chặt đồng tiền. Nó không thấy cô bồi bàn cho tới khi hai bàn tay quá to hiện ra trên quầy, trước mặt và dưới mắt nó. Nó có thể thấy các hình vẽ trên chiếc áo đầm của nàng và cái vạt yếm của tạp dề và hai bàn tay với những khớp đốt ngón tay to đặt trên mép quầy, cũng hoàn toàn bất động như những thứ nàng mang từ bếp ra. “Cà phê và bánh nướng,” nó nói.

Tiếng nói của người đàn bà vang lên, chán nản, gần như trống rỗng. “Chanh, cùi dừa, sô-cô-la?”

Xét theo chiều cao mà từ đó tiếng nói đến, hai bàn tay đó có vẻ như không phải của nàng. “Phải,” Joe nói.

Hai bàn tay không cử động. Tiếng nói không thay đổi. “Chanh, cùi dừa, sô-cô-la. Thứ nào?” Những người khác chắc thấy họ lạ quá đi. Đối mặt nhau, ở mỗi bên của cái quầy gỗ sẫm màu, đầy vết bẩn, dây mỡ, trơn nhẵn nhờ cọ sát lâu ngày, họ có vẻ như đang cầu nguyện: tên trai trẻ, với gương mặt nhà quê, áo quần sạch sẽ và mộc mạc, sự vụng về tạo cho nó một cái vẻ không thực và ngây thơ; và người đàn bà đối diện nó đang đợi, buồn rầu, bất động, và vì sự nhỏ thó của mình, cũng có một chút dáng dấp mà chính nó có, một dáng dấp vượt ra ngoài thể xác. Khuôn mặt nàng thì xương xương, hốc hác. Da thì căng trên hai xương gò má, thâm quầng quanh mắt; dưới hai mí rũ xuống, cặp mắt nàng có vẻ không có chiều sâu, như thể chúng thậm chí không thể phản chiếu được một hình ảnh. Hàm dưới của nàng có vẻ quá hẹp để chứa được hai hàng răng.

“Cùi dừa,” Joe nói. Chỉ có cái miệng nó nói, bởi vì ngay lập tức nó muốn rút lại lời nói. Nó chỉ có mười xen . Nó đã nắm đồng tiền chặt đến nỗi nó chưa nhận ra đó chỉ là mười xen thôi. Bàn tay nó toát mồ hôi trên và xung quanh đồng tiền. Nó tin là những người đàn ông ở đầu quầy kia đang nhìn nó và cười lần nữa. Nó không thể nghe họ và nó không nhìn họ. Nhưng nó tin là họ đang làm vậy. Hai bàn tay đã biến đi. Rồi chúng quay lại, đặt một cái dĩa và một cái tách trước mặt nó. Giờ thì nó nhìn nàng, nhìn mặt nàng. “Bánh nướng bao nhiêu vậy?” nó nói.

“Bánh nướng thì mười xen .” Nàng chỉ đứng đó, trước mặt nó, phía bên kia quầy, với hai bàn tay to tướng một lần nữa đặt trên mặt gỗ sẫm màu, với vẻ mặt mệt lử và chờ đợi. Nàng không nhìn nó bao giờ. Nó nói, giọng yếu ớt và tuyệt vọng:

“Thôi, tui không uống cà phê đâu.”

Nàng không cử động trong một lát. Rồi một trong hai bàn tay to tướng di chuyển và cầm lên tách cà phê; bàn tay và cái tách biến đi. Nó ngồi yên, ánh mắt cũng hạ xuống, chờ đợi. Và điều nó chờ đợi đã đến, không phải từ tên chủ tiệm nhưng từ mụ đàn bà ngồi sau tủ kính xì gà. “Cái gì vậy?” mụ nói.

“Ảnh không muốn uống cà phê,” cô bồi bàn nói. Nàng vừa đi vừa nói, như không ngừng lại chút nào khi nghe câu hỏi. Giọng đều đều, điềm tĩnh. Giọng của người đàn bà kia cũng điềm tĩnh nữa.

“Bộ cậu ta không gọi cà phê sao?” mụ nói.

“Không có gọi,” cô bồi bàn nói, vẫn với cái giọng đều đều đang di chuyển xa dần. “Tôi nghe lộn.”

Khi nó ra ngoài, khi tâm trí nó bị giày vò bởi sự xấu hỗ, niềm tiếc nuối, nỗi ham muốn mãnh liệt tìm chỗ ẩn nấp, khi bước nhanh qua trước cái mặt lạnh lùng của mụ đàn bà sau tủ kính xì gà, nó tin là nó biết sẽ không bao giờ muốn, không bao giờ có thể gặp lại nàng. Nó không nghĩ là nó có thể chịu đựng khi thấy nàng lần nữa, ngay cả khi nhìn con hẻm, cái cửa dơ dáy, ngay cả khi nhìn từ xa, và một lần nữa, nó chưa nghĩ Nhỏ tuổi thì thực là kinh khiếp. Quá kinh khiếp. Kinh khiếp Khi những ngày thứ bảy đến, nó tìm ra, phịa ra các lý do để tránh đi xuống thị xã, và McEachern để mắt đến nó tuy chưa nghi ngờ gì cả. Nó ra sức làm việc vất vả, quá vất vả để quên ngày tháng trôi qua. McEachern nhìn việc làm của nó với vẻ trầm ngâm đầy ngờ vực. Nhưng chẳng có gì mà người đàn ông có thể biết được hay suy diễn ra. Làm việc, nó được cho phép mà. Và như vậy những đêm dài cũng qua đi, vì nó quá mệt mỏi để nằm đó mà mở mắt thao láo. Rồi với thời gian, ngay cả nỗi tuyệt vọng và lòng tiếc nuối và sự xấu hỗ cũng bớt dần. Nó không ngừng nhớ, không ngừng tạo dựng lại cái cảnh đó. Nhưng giờ thì chuyện đó đã trở nên cũ mòn rồi, như một cái dĩa hát đã quay quá nhiều lần, chỉ quen thuộc bởi vì sự hao mòn đã làm rè các tiếng hát. Sau một khoảng thời gian, McEachern chấp nhận thực trạng này. Ông nói:

“Tao đã để mắt theo dõi mày dạo sau này. Và bây giờ tao phải, hoặc nghi ngờ ngay cả cặp mắt mình, hoặc tin là cuối cùng mày cũng bắt đầu chấp nhận những gì Chúa thấy đúng mà chia phần cho mày. Nhưng tao không muốn những lời khen của tao khiến mày trở nên kiêu ngạo. Mày sẽ còn có thời gian và cơ hội (và ý hướng nữa chứ, chắc vậy rồi) để làm tao thấy hối tiếc là đã nói ra. Hay để rơi lại vào sự chây lười và vô công rồi nghề. Tuy nhiên, phần thưởng, cũng như là hình phạt, đã được tạo ra cho con người. Mày có thấy con bò cái tơ dưới kia không? Kể từ hôm nay, nó là của riêng mày đó. Hãy xử sự làm sao để mà tao sẽ không phải hối tiếc là đã cho nó cho mày.”

Joe cám ơn ông. Lúc đó nó có thể nhìn con bê và nói lớn: “Nó là của con.” Rồi nó lại nhìn con bê, và một lần nữa đây không phải là một ý nghĩ, vì quá nhanh và quá trọn vẹn: Đây không phải là một món quà đâu. Thậm chí cũng không phải là một lời hứa: là một sự hăm dọa đó trong khi nghĩ, ‘Mình đâu có xin nó. Ổng cho mình mà. Mình đâu có xin nó,’ tin rằng Chúa biết mình xứng đáng được hưởng nó bằng lao động của mình mà

Đó là vào một tháng sau đó. Sáng thứ bảy. “Tao tưởng là mày đã không còn thích phố xá nữa chớ,” McEachern nói.

“Con cho là có đi thêm một chuyến nữa thì cũng không chết ai,” Joe nói. Nó có trong túi nửa đô-la. Bà McEachern đã cho nó trước đó. Nó xin bà năm xen . Bà nằn nì để nó nhận năm mươi xen . Nó cầm lấy đồng tiền, để trong lòng bàn tay, với vẻ lạnh lùng, khinh bỉ.

“Chắc vậy rồi,” McEachern nói. “Vả lại, mày đã làm việc dữ quá rồi. Nhưng đối với một người mới bước chân vào đời thì chuyện đi xuống phố thường xuyên không phải là một thói quen tốt đâu.”

Nó không cần phải trốn đi, dù nó không ngại làm vậy, có lẽ thậm chí bằng bạo lực. Nhưng McEachern làm cho sự việc dễ dàng. Nó ba chân bốn cẳng đi thẳng tới tiệm ăn. Lần này, nó bước vào mà không loạng choạng. Cô bồi bàn không có đó. Có lẽ nó thấy, hay nó nhận ra là nàng không có đó. Nó ngừng ở quầy xì gà, mụ đàn bà vẫn ngồi đằng sau, và đặt đồng tiền nửa đô-la lên quầy kính. “Tôi nợ năm xen . Tiền tách cà phê đó. Lần trước, tôi đã kêu bánh nướng và cà phê, trước khi biết ra tiền bánh nướng là mười xen . Tôi nợ bà năm xen .” Nó không nhìn về phía cuối tiệm ăn. Những người đàn ông vẫn có đó, mũ lệch trên đầu, thuốc lá trên môi. Và tên chủ tiệm cũng có đó; trong khi chờ đợi, nó nghe hắn cuối cùng lên tiếng, trên người vẫn là cái tạp dề bẩn thỉu, nói xuyên qua điếu thuốc trên miệng:

“Cái gì đó? Nó muốn gì?”

“Cậu ta nói cậu nợ Bobbie năm xen ,” mụ đàn bà nói. “Cậu muốn đưa cho Bobbie năm xen .” Giọng bà thì điềm tĩnh. Giọng tên chủ tiệm cũng điềm tĩnh.

“Ôi trời,” hắn nói. Joe có cảm tưởng là cả thiên hạ trong tiệm ăn đang dỏng tai nghe. Nó nghe mà không lắng nghe, nó thấy mà không nhìn. Bây giờ nó đang bước về phía cửa ra vào. Đồng tiền nửa đô-la nằm trên quầy kính. Ngay cả khi ở phía cuối gian phòng, tên chủ tiệm vẫn có thể thấy đồng tiền, bởi vì hắn nói, “Để trả cái gì đây?”

“Cậu ta nói cậu nợ một tách cà phê,” mụ đàn bà nói.

Joe hầu như đã đến ngưỡng cửa. “Ê, Jack,” người đàn ông nói. Joe không ngừng bước. “Đưa tiền cho nó đi,” người đàn ông, vẫn đứng tại chỗ nói, giọng đều đều. Khói thuốc bay loanh quoanh trước mặt hắn, không có gì đẩy khói đi xa. “Trả tiền lại cho nó đi,” người đàn ông nói. “Tao không biết nó muốn dở trò khỉ gì ở đây nhưng bất kể là cái gì thì tao vẫn ngửi không vô đâu. Trả tiền lại cho nó đi. Này Hiram [56] , tốt hơn mày nên quay lại nông trại của mày đi. Có lẽ ở đó mày có thể trả cho con gái với năm xen này.”

Bây giờ Joe ở ngoài đường, mồ hôi toát ra dưới nửa đô-la, và từ cái đồng tiền này mồ hôi loang ra cả bàn tay, và bàn tay thì dường như lớn hơn chiếc bánh xe ngựa khi chạm đến. Joe bước đi giữa những tiếng cười. Những tiếng cười của đám đàn ông đã nhấc bỗng nó lên cho đến tận cửa. Chúng quét bay nó, đẩy nó ra ngoài đường, rồi chúng bắt đầu trôi qua nó, lụi tàn, để nó rơi lại xuống đất, trên vỉa hè. Nó và cô bồi bàn đối diện nhau. Nàng đã không thấy nó tức khắc, vì nàng đi nhanh, mắt nhìn xuống, mặc áo đầm màu tối và đội mũ. Một khi ngừng bước, nàng vẫn không nhìn nó, nàng đã nhìn nó trong cái liếc nhìn toàn cảnh rồi mà, như khi nàng đặt dĩa bánh nướng và tách cà phê lên quầy. Nàng nói, “Ồ, và anh quay lại để trả tiền cho tôi. Trước mặt họ. Và họ chế giễu anh. A, thiệt tình!”

“Tui nghĩ là có thể cô buộc phải bỏ tiền riêng ra trả cho ly cà phê đó. Tui nghĩ...”

“A, thiệt tình! Mấy người đó thiệt là quá đáng!”

Hai người không nhìn nhau, tuy đứng đối diện. Dưới mắt kẻ khác, chắc hai người trông giống như hai tu sĩ gặp nhau trên lối nhỏ trong vườn vào giờ thiền hành. “Tui chỉ nghĩ là tui...”

“Anh ở đâu?” nàng nói. “Ở nhà quê à? A, thiệt tình! Anh tên gì?”

“Không phải McEachern đâu,” nó nói. “Christmas.”

“Christmas? Bộ đó là tên anh hả? Christmas? A, thiệt tình!”

***

Vào những chiều thứ bảy, trong và sau tuổi thiếu niên, nó đi săn hay câu cá với bốn hay năm đứa con trai cùng lứa. Nó chỉ thấy các cô gái ở nhà thờ, ngày chủ nhật. Trong tâm trí nó, họ thì liên kết với Chúa và Giáo hội. Vậy là nó không thể để mắt đến họ. Vì nếu làm thế, ngay cả đối với nó, hẳn là đồng nghĩa với sự từ bỏ nỗi thù ghét đạo giáo của mình. Nhưng nó và bọn con trai nói chuyện về gái. Có lẽ vài đứa trong bọn nó biết - ví dụ như cái thằng đã sắp đặt cuộc chơi với đứa con gái da đen buổi chiều nọ. “Mấy cô nàng, tất cả, đều có ham muốn cả,” thằng đó nói với các đứa khác. “Nhưng có những lúc các cô nàng không thể làm gì cả.” Những đứa khác không biết điều này. Chúng không biết là mọi cô gái đều có ham muốn, nói gì biết đến chuyện là có những lúc họ không thể làm gì cả. Chúng nghĩ khác. Nhưng thú nhận là chúng không biết điểm thứ hai thì mặc nhiên thú nhận cùng lúc là chúng đã không khám phá ra điểm thứ nhất. Vậy là chúng lắng nghe thằng bạn mình nói. “Có cái gì đó xảy ra với các cô nàng mỗi tháng một lần.” Hắn diễn tả ý tưởng mà hắn có trong đầu về cái hiện tượng thể xác đó. Có lẽ hắn biết. Dù gì đi nữa, hắn nói rất rõ ràng, đầy thuyết phục. Giá như hắn cố diễn tả chuyện đó như một trạng thái tinh thần, như cái gì đó mà hắn chỉ tin thôi, thì chúng hẳn đã không để tai nghe. Nhưng hắn đã vẽ ra một bức tranh hiện thực về thể xác mà người ta có thể phân biệt bằng khứu giác và ngay cả bằng thị giác. Bọn trẻ bị ấn tượng mạnh: sự bất lực tạm thời và tuyệt vọng của cái gì vừa trêu ngươi vừa không làm thỏa mãn nỗi ham muốn; một hình dạng mềm mại và cao cấp, nơi cư ngụ của ý chí, bị biến thành nạn nhân, vào những quãng thời gian cố định và không thể tránh được, của một vết bẩn định kỳ ghê tởm. Đó là những gì hắn kể, và năm đứa bạn vừa lắng nghe, vừa nhìn nhau trong im lặng, ánh mắt xoi mói và bí ẩn. Ngày thứ bảy sau đó, Joe không đi săn cùng lũ bạn. McEachern nghĩ là nó đã đi săn rồi vì không thấy khẩu súng đâu. Nhưng Joe ẩn nấp trong chuồng bò. Nó ở đó suốt cả ngày hôm đó. Và vào ngày thứ bảy tiếp theo, nó có đi, một mình, sớm, trước khi các đứa bạn đến tìm nó. Nhưng nó không săn. Nó đang ở cách nhà chưa đầy ba dặm khi, vào cuối buổi chiều, nó bắn chết một con cừu. Nó thấy bầy cừu trong một thung lũng hẻo lánh và rón rén đến gần và dùng súng giết một con. Rồi nó quỳ xuống, hai bàn tay nhúng vào máu còn ấm của con thú đang chết, cả người run rẩy, miệng khô khốc, mắt cứ lấm la lấm lét nhìn ra sau lưng. Rồi nỗi sợ qua đi và nó trấn tĩnh lại. Nó không quên lời thằng bạn nói với nó về các cô gái. Nó chỉ chấp nhận sự việc. Nó nhận ra là mình có thể sống với sự việc này, sát cánh với nó. Như thể nó tự nhủ, phi lý và trầm tĩnh một cách tuyệt vọng Thôi được. Bởi vì như vậy rồi. Nhưng không phải đối với mình. Không phải trong cuộc đời và trong tình yêu của mình Rồi ba bốn năm qua đi và nó đã quên, theo nghĩa một sự việc bị quên ngay khi nó không một lần chống nổi cái trí óc cứ một mực bảo rằng nó không đúng mà cũng không sai.

Nó gặp lại cô bồi bàn vào tối ngày thứ hai tiếp sau cái ngày thứ bảy mà nó đã tìm cách trả tiền tách cà phê. Vào thời điểm này, nó chưa có sợi dây thừng. Nó trèo qua cửa sổ và nhảy gần ba thước xuống đất rồi lội bộ cả năm dặm đường vào thị xã. Nó không nghĩ gì hết về việc trở lại phòng mình bằng cách nào.

Nó tới thị xã và đi đến góc đường mà nàng đã hẹn với nó. Đó là một góc đường yên tĩnh và nó đến khá sớm, và nghĩ Mình sẽ phải nhớ chớ. Để cổ chỉ cho mình phải làm gì và làm cách nào và khi nào làm. Không để cổ thấy mình không biết, thấy mình dựa trên cổ để chỉ cho biết

Nó chờ hơn một tiếng đồng hồ thì nàng mới xuất hiện. Nó đã tới trước một giờ. Nàng đi bộ đến. Nàng đến và đứng trước nó. Nhỏ thó, mắt nhìn xuống, với cái vẻ cương quyết và chờ đợi riêng của mình, nàng ra khỏi vũng tối, nàng đến. “Anh đây rồi,” nàng nói.

“Tui tới đây sớm nhất mà tui có thể. Tui phải chờ cho họ đi ngủ đã. Tui sợ tới trễ.”

“Anh chờ đây lâu không? Bao nhiêu lâu rồi?”

“Tui không biết. Tui chạy chết cha luôn, gần như suốt cả đoạn đường. Tui sợ trễ mà.”

“Anh chạy sao? Cả ba dặm à?”

“Năm dặm đó, chớ không phải ba đâu.”

“A, thiệt tình!” Rồi hai người không nói nữa. Họ đứng đó, hai cái bóng đối mặt nhau. Hơn một năm sau, nhớ lại đêm đó, nó nói, bỗng nhiên tỏ ra hiểu biết Như thể cổ đang chờ mình đập cho cổ một trận “Sao đây?” nàng nói.

Bây giờ, nó bắt đầu run rẩy một chút. Nó ngửi được mùi người nàng, ngửi được sự chờ đợi: bất động, biết nhiều, hơi chán nản; nó nghĩ Cổ chờ mình bắt đầu và mình không biết cách nào Ngay cả đối với nó, giọng nói của nó nghe ngu ngốc làm sao. “Tui nghĩ giờ khuya rồi.”

“Khuya rồi à?”

“Tui nghĩ có lẽ người ta đang chờ cô... người ta chờ cho đến khi cô...”

“Chờ tôi... chờ tôi...” Tiếng nói nàng lụi tàn, chết hẳn. Nàng nói, không cử động; hai người đứng như hai cái bóng: “Tôi ở chung với Mame và Max. Anh biết đó. Tiệm ăn. Anh chắc nhớ họ chớ, cái lần mà anh muốn trả năm xen đó...” Nàng bật cười. Tiếng cười không có sự vui vẻ, không có gì hết bên trong. “Khi tôi nghĩ đến chuyện đó. Khi tôi nghĩ đến cảnh anh mang năm xen đến chỗ đó.” Rồi nàng ngừng cười. Nhưng sự vui vẻ cũng không ngừng theo tiếng cười. Tiếng nói lại vang lên bên tai nó, bình thản, hèn hạ, nhún nhường. “Tôi đã tính sai đêm nay. Tôi quên khuấy cái gì đó.” Có lẽ nàng chờ nó hỏi nàng quên cái gì. Nhưng nó không hỏi. Nó chỉ đứng đó, với tiếng nói bình thản, nhún nhường đang lụi tàn đâu đó hai bên tai nó. Nó đã quên con cừu bị bắn chết. Nó đã sống quá lâu với sự việc mà thằng bạn lõi đời hơn đã kể ra với nó. Bằng con cừu bị giết, nó có được sự miễn nhiễm chống lại sự việc đó trong một thời gian quá dài để mà sự việc đó còn tồn tại. Như vậy, thoạt đầu nó không hiểu điều nàng đang cố gắng nói với nó. Họ cứ đứng ở góc đường. Một góc đường nằm ở rìa thị xã, nơi đường phố trở thành một con lộ chạy dài qua khỏi những sân cỏ được chăm chút, ngay hàng thẳng lối, giữa những căn nhà nhỏ thưa thớt và những cánh đồng cằn cỗi - những căn nhà nhỏ, rẻ tiền làm thành khu ngoại ô của các thị xã cùng loại như thế. Nàng nói, “Nghe này, tôi bị bịnh tối nay.” Nó không hiểu. Nó không nói gì. Có lẽ nó không cần hiểu. Có lẽ nó đã trông đợi một điều xui xẻo không tránh được, nó nghĩ, ‘Thật không thể tin được’; nó nghĩ nhanh quá, ngay cả đối với một ý tưởng: Cổ sẽ biến mất trong chốc lát. Cổ sẽ không còn đây nữa. Và mình sẽ quay về nhà, vào giường, như thể chưa bao giờ rời nhà. Tiếng nàng tiếp tục: “Khi tôi nói với anh đêm thứ hai, tôi đã không nghĩ đến cái ngày... mỗi tháng đó. Anh làm tôi bất ngờ quá. Gặp giữa đường, như vậy đó, đêm thứ bảy. Tôi quên mất nó là ngày nào. Chỉ sau đó mới nhớ lại, sau khi anh đi rồi.”

Giọng nó cũng bình thản như giọng nàng. “Bệnh lắm sao? Cô không có thuốc men gì ở nhà để uống sao?”

“Tôi không có thuốc...”, giọng nàng tắc nghẹn. Nàng nói, “A, vậy sao.” Nàng nói đột ngột: “Thôi khuya rồi, và anh còn cả bốn dặm để cuốc bộ nữa.”

“Tui đã cuốc bộ xong rồi mà. Giờ tui đây nè.” Giọng nó nhỏ nhẹ, hoang mang, tuy cố giữ bình tĩnh. “Tui nghĩ giờ cũng khuya rồi,” nó nói. Rồi có cái gì đó thay đổi. Không nhìn nó, nàng cảm thấy cái gì đó trước khi nàng nghe ra đó là cái gì từ cái giọng cứng ngắc của nó: “Bệnh cô thuộc loại gì vậy?”

Nàng không trả lời ngay tức khắc. Rồi nàng nói, bình thản, nhún nhường: “Anh chưa từng có bồ, phải không? Tôi cá là anh chưa có đó.” Nó không trả lời. “Chưa phải không?” Nó không trả lời. Nàng làm một động tác. Nàng chạm đến người nó, lần đầu tiên. Nàng bước tới, nắm cánh tay nó, nhẹ thôi, với cả hai bàn tay. Hạ ánh mắt xuống, nó có thể thấy cái hình dạng tối sẫm của cái đầu cúi xuống, như thể từ khi mới đẻ nó đã hơi bị lệch trên cổ nàng. Nàng giải thích cho nó, ngập ngừng, vụng về, có lẽ chỉ bằng số chữ nghĩa hạn chế của mình. Nhưng nó đã nghe điều này ngày trước. Nó đã chạy trốn về phía quá khứ, chạy xa hơn con cừu bị giết, cái giá đã trả cho sự miễn nhiễm đó mà, cho tới buổi chiều kia, khi ngồi bên bờ sông, nó cảm thấy phẫn nộ hơn là tổn thương hay hơn là ngạc nhiên. Nó giật mạnh cánh tay ra khỏi hai bàn tay nàng. Nàng không tin là nó muốn đánh nàng. Thực ra, nàng nghĩ đến chuyện khác. Nhưng kết quả cũng vậy thôi. Nhìn nó đi xa dần trên con lộ rồi ra khỏi tầm mắt, cả hình lẫn bóng, nàng tin là nó đang chạy. Tiếng chân nó còn vang vọng bên tai nàng một lúc sau khi nàng không còn thấy nó nữa. Nàng không đi ngay. Nàng vẫn đứng đó, như khi nó bỏ đi, bất động, đầu cúi xuống, như thể chờ đợi cú đấm mà nàng đã nhận vào mặt trước đó rồi.

Nó thực sự không có chạy. Nhưng nó bước nhanh, và theo hướng ngược với nhà nó, khiến nó càng lúc càng xa ngôi nhà cách đó năm dặm mà nó đã rời đi bằng cách trèo qua cửa sổ, mà nó chưa nghĩ đến cách nào trở vào lại. Nó tiếp tục đi theo con lộ, rất nhanh, rồi rẽ ngang vào một khoảng đất đã được cày xới sau khi nhảy qua cái hàng rào. Một thứ gì đó đang mọc trên các luống cày. Ngoài xa là khu rừng, cây cối. Nó đến đó và đi vào khu rừng, giữa những thân cây cứng rắn, dưới cái bóng yên ả của các cành cây, cái bóng có hơi hướm nặng nề, có cảm xúc mãnh liệt và không thể thấy được. Trong bóng tối này, trong sự dò dẫm cực nhọc này, nó có vẻ thấy, như trong một hang động, một hàng những cái bình đựng di cốt có hình dạng được làm ra khéo léo và càng xa càng nhỏ dần, nhợt nhạt dưới ánh trăng. Và không có cái nào là hoàn hảo. Mỗi cái đều có vết nứt, và từ mỗi vết nứt chảy ra cái gì đó như chất lỏng, có màu sắc của cái chết, và bốc mùi hôi thối. Nó đến sát một thân cây, chống cả hay cánh tay gấp lại lên đó, đưa mắt nhìn các bình đựng di cốt sắp thành hàng dưới ánh trăng. Và nó ói mửa.

Vào ngày thứ hai tiếp đó, nó có sợi dây thừng. Nó vẫn đứng đợi ở cùng góc đường đó; nó vẫn đến sớm như lần trước. Rồi nó thấy nàng. Nàng đến tận chỗ nó đứng. “Tôi tưởng có lẽ anh sẽ không đến lại đây,” nàng nói.

“Thật à?” Nó chụp cánh tay nàng, kéo nàng ra con lộ.

“Mình đi đâu đây?” nàng nói. Nó không trả lời, cứ kéo nàng đi. Nàng phải chạy lóc cóc mới theo kịp bước chân nó. Nàng chạy thật vụng về: một con thú bị cản trở bởi những gì phân biệt nàng với những con thú: các gót giày, áo quần, cơ thể nhỏ thó của nàng. Nó kéo nàng rời con lộ, về phía cái hàng rào mà nó nhảy qua cách đây một tuần. “Chờ chút,” nàng nói, giọng ngắt quãng. “Cái hàng rào - tôi không thể -” Khi nàng khom người để chui qua giữa những hàng dây thép mà nó đã nhảy qua, chiếc áo đầm bị móc lại. Nó cúi xuống, đưa tay giật mạnh nó ra, giữa tiếng vải bị xé rách.

“Tui sẽ mua một cái áo khác cho cô,” nó nói. Nàng không nói gì. Nàng để mình nửa được mang đi, nửa được kéo đi giữa những chồi cây, những luống cày cho tới khu rừng, giữa đám cây cối.

Nó giấu sợi dây thừng đã cuộn lại kỹ lưỡng sau tấm ván di động trong căn phòng gác mái của nó, nơi mà bà McEachern giấu những đồng tiền năm và mười xen bà chắt chiu để dành. Nhưng sợi dây thì được nhét sâu bên trong cái lỗ mà bà McEachern không thể thọc tay tới. Nó có cái ý này là từ bà. Thỉnh thoảng, trong khi cặp vợ chồng già ngáy đều trong căn phòng dưới nhà, trong khi nó kéo sợi dây yên lặng ra khỏi lỗ, nó nghĩ đến điều nghịch lý đó. Thỉnh thoảng, nó nghĩ đến chuyện nói ra với bà, chỉ cho bà thấy nơi nó giấu cái công cụ phạm tội của mình, bởi vì chính bà đã cho nó ý tưởng này, đã dạy cho nó cách giấu và chỗ giấu. Nhưng nó biết là làm vậy thì chỉ tổ khiến bà giúp nó giấu sợi dây, khiến bà muốn thấy nó phạm tội để mà bà có thể giúp nó giấu kín sợi dây, để mà bà cuối cùng có thể bộc lộ không ngại ngần những lời thầm thì, những cái ra hiệu có ý nghĩa đến mức mà McEachern, dù không muốn, cũng phải nghi ngờ chuyện gì đó.

Rồi nó bắt đầu ăn cắp, lấy tiền từ chỗ cất giữ. Chắc là bà đã không gợi ý việc này với nó, đã không hề đề cập đến tiền bạc trước mặt nó. Có thể là nó thậm chí không nhận ra rằng nó đã dùng tiền để trả cho những khoái lạc của mình. Đó là vì trong bao nhiêu năm nó đã nhìn thấy bà McEachern giấu tiền ở một chỗ nào đó. Rồi đến lượt nó có cái cần giấu. Nó để cái đó vào chỗ mà nó biết là an toàn nhất. Và mỗi khi giấu hay lấy ra sợi dây thừng, nó thấy cái lon thiếc đựng tiền.

Lần đầu tiên nó lấy đi năm mươi xen . Nó lưỡng lự khá lâu giữa năm mươi và hai mươi lăm xen . Rồi nó lấy năm mươi xen bởi vì đó là chính xác số tiền nó cần. Nó dùng số tiền này để mua một hộp kẹo mốc meo dính cứt ruồi từ một gã đàn ông đã nhận được nó như phần thưởng trong trò chơi trả mười xen để ném banh vào tấm ván có lỗ ở một cửa tiệm. Nó trao hộp kẹo đó cho cô bồi bàn. Đó là món đồ đầu tiên nó cho cổ cho tới lúc đó. Nó cho cổ như thể nó là người đầu tiên nghĩ đến chuyện cho cổ một cái gì từ trước đến nay. Nàng đưa hai bàn tay to tướng cầm lấy cái hộp in màu lòe loẹt nhưng đã phai mòn, mặt lộ vẻ là lạ. Lúc đó, nàng đang ngồi trên giường trong phòng ngủ của mình trong căn nhà nhỏ, nơi nàng ở chung với một tên đàn ông và một mụ đàn bà tên Max và Mame. Một đêm, khoảng chừng một tuần trước đó, tên đàn ông vào trong phòng. Nàng đang thay áo quần, đang ngồi trên giường cởi cái bít tất dài. Hắn vào, người tựa vào cái tủ thấp, miệng phì phèo thuốc lá.

“Một tên chủ trang trại giàu có,” hắn nói. “Một John Jacob Astor [57] đến từ chuồng bò cái.”

Nàng đã mặc áo quần, ngồi bất động trên giường, đầu cúi xuống. “Ảnh có trả tiền cho tôi mà.”

“Trả bằng cái gì? Hắn đã xài hết cả năm xen của hắn rồi à?” Tên đàn ông nhìn nàng, chép miệng. “Trời đất, một cô em nõn nà như vầy mà cho mấy thằng nhà quê nó vày vò! Có phải vì vậy mà tao mang mày từ Memphis xuống đây sao? Có lẽ tốt hơn tao nên bắt đầu làm từ thiện, bố thí cho thiên hạ đồ ăn thức uống luôn cho rồi.”

“Tôi không làm chuyện đó vào thời giờ tôi phải làm việc cho ông.”

“Tất nhiên rồi. Tao làm sao cản mày được. Tao chỉ chán ghét thấy mày làm vậy thôi. Một thằng nhóc cả đời chưa từng thấy trọn một đô-la. Thị xã này thì đầy kẻ rủng rỉnh tiền bạc, họ sẽ đối xử với mày đàng hoàng lắm đó.”

“Chắc là tôi thích ảnh. Có lẽ ông đã không nghĩ tới điều này.”

Hắn nhìn nàng, nhìn cái đỉnh đầu bất động và cúi xuống của nàng trong khi nàng vẫn ngồi trên giường, hai bàn tay đặt trên đùi. Hắn tựa người vào cái tủ thấp, hút thuốc. Hắn nói, “Mame!”. Sau một lát, hắn lập lại, “Mame! Vào đây coi.” Các bức tường thì mỏng. Sau một lát, một mụ đàn bà tóc vàng to con đủng đỉnh đến gần trong hành lang. Cả hai người đều nghe thấy mụ. Mụ đi vào. “Nghe cái này nè,” tên đàn ông nói. “Con nhỏ này nói nó thích cái thằng đó nhất. Chàng Romeo của nàng Juliet [58] đó. Ông nội ơi!”

Mụ đàn bà tóc vàng nhìn cái đỉnh đầu tóc nâu của cô bồi bàn. “Ông tính sao đây?”

“Không tính gì hết. Tốt thôi mà. Xin quý vị nghe đây, tôi, Max Confrey, xin giới thiệu cô Bobbie Allen, người bạn tình của tuổi trẻ.”

“Ra ngoài đi cho tôi nhờ,” mụ đàn bà nói.

“Được thôi. Tôi chỉ mang đến cho nó năm xen tiền lẻ.” Hắn đi ra. Cô bồi bàn vẫn ngồi yên. Mụ đàn bà tóc vàng đến tựa người vào cái tủ thấp, nhìn cái đầu cúi xuống của nàng.

“Hắn có bao giờ trả tiền mày không?” mụ nói.

Cô bồi bàn vẫn ngồi yên. “Có chớ. Ảnh có trả tiền tôi.”

Mụ đàn bà tóc vàng nhìn nàng, tựa người vào cái tủ thấp như Max đã làm trước đó. “Đi cả một quãng đường từ Memphis xuống tận đây. Mang cái đó suốt từ Memphis tới đây để phung phí nó.”

Cô bồi bàn vẫn ngồi yên. “Tôi có làm hại gì đến Max đâu.”

Mụ đàn bà tóc vàng nhìn cái đầu cúi xuống của người kia. Rồi mụ quay lưng đi ra cửa. “Coi chừng đừng làm hại đến Max,” mụ nói. “Chuyện này không kéo dài mãi đâu. Những thị xã nhỏ này không tha thứ chuyện này lâu đâu. Tao biết quá mà. Tao từ đó chui ra mà, từ một thị xã nhỏ đó.”

Ngồi trên giường, cầm trong tay hộp kẹo rẻ tiền, lòe loẹt, nàng ngồi như nàng đã ngồi trước đó khi mụ đàn bà tóc vàng nói chuyện với nàng. Nhưng bây giờ là Joe, đứng tựa người vào cái tủ thấp và nhìn nàng. Nàng bắt đầu cười. Nàng cười, cầm hộp kẹo lòe loẹt trong hai bàn tay có những khớp ngón tay to tướng. Joe nhìn nàng. Nó nhìn nàng đứng lên, đi ngang qua nó, mặt cúi gằm. Nàng ra khỏi cửa và gọi Max bằng tên. Joe chưa hề gặp Max trước đó, ngoại trừ ở tiệm ăn, mũ trên đầu và tấm tạp dề dơ dáy trên người. Khi đi vào, Max lại không hút thuốc. Hắn đưa tay ra. “Khỏe không anh Romeo?” hắn nói.

Joe hầu như không nhận ra người mà nó đang bắt tay. “Tui tên là Joe McEachern,” nó nói. Mụ đàn bà tóc vàng giờ cũng đi vào. Đây cũng là lần đầu tiên nó gặp mụ ở ngoài tiệm ăn. Nó thấy mụ bước vào, nhìn mụ, nhìn cô bồi bàn mở hộp kẹo. Nàng đưa nó ra.

“Joe mang tới cho tôi đó,” nàng nói.

Mụ đàn bà liếc nhìn hộp kẹo, chỉ một lần. Mụ thậm chí không cử động bàn tay. “Cám ơn,” mụ nói. Tên đàn ông cũng liếc nhìn hộp kẹo, bàn tay không cử động.

“Lạ, lạ, lạ thật đó,” hắn nói. “Lễ Giáng sinh đôi khi kéo dài rất lâu, không phải vậy sao anh Romeo?” Joe đã đứng xa cái tủ thấp một chút. Đây là lần đầu tiên nó vào cái nhà này. Nó nhìn tên đàn ông, mặt lộ ra vẻ làm lành, hoang mang nhưng không hoảng sợ, nhìn cái bộ mặt khó hiểu, trông giống thầy tu của hắn. Nhưng nó không nói gì. Rồi chính cô bồi bàn nói,

“Nếu không ai muốn ăn thì không ai ép.” Nó nhìn Max, nhìn bộ mặt hắn, nghe thấy giọng nói của cô bồi bàn; giọng nói với đôi mắt nhìn xuống: “Không làm hại đến ông hay bất cứ ai khác... không đụng vào thời giờ làm việc cho ông...” Nó không nhìn nàng, cũng không nhìn mụ đàn bà tóc vàng. Nó nhìn Max, mặt lộ ra vẻ làm lành, hoang mang nhưng không sợ hãi. Mụ đàn bà tóc vàng bây giờ nói, nghe như thể họ đang nói về nó, với sự có mặt của nó và bằng một thứ tiếng mà họ biết là nó không hiểu.

“Thôi, đi ra,” mụ đàn bà tóc vàng nói.

“Ông nội ơi,” Max nói. “Tôi sắp sửa mời anh Romeo này một ly đó, chủ tiệm trả tiền mà.”

“Hắn có muốn uống không đã chớ?” mụ đàn bà tóc vàng nói. Ngay cả khi mụ nói chuyện trực tiếp với Joe thì trông như thể mụ vẫn nói với Max. “Cậu có muốn uống cái gì không?”

“Đừng làm cho hắn căng thẳng vì chuyện hắn xử sự trước đây. Nói với hắn là chủ tiệm bao đó.”

“Tui không biết,” Joe nói. “Tui chưa từng thử.”

“Chưa từng uống cái gì do chủ tiệm mời,” Max nói. “Ông nội ơi.” Hắn đã không nhìn Joe một lần nào nữa từ khi bước vô phòng. Và người ta lại có thể tưởng rằng họ nói chuyện với nó, vì nó, bằng một thứ tiếng mà nó không hiểu.

“Đi nào,” mụ đàn bà tóc vàng nói. “Thôi, đi nào.”

Họ ra ngoài. Mụ đàn bà tóc vàng đã không hề nhìn nó chút nào, và tên đàn ông thì vẫn tiếp tục không nhìn nó. Rồi họ đi khỏi. Joe đứng bên cạnh cái tủ thấp. Cô bồi bàn đứng giữa phòng, mắt nhìn xuống, tay vẫn cầm hộp kẹo đã mở. Căn phòng thì kín cửa, có mùi ẩm mốc. Joe chưa bao giờ thấy nó trước đây. Joe đã không hề tin là mình sẽ thấy nó bao giờ. Màn sáo đã kéo xuống. Một bóng đèn độc nhất cháy sáng ở đầu một sợi dây điện, với một tờ giấy báo kẹp xung quanh thế cho chụp đèn, đã bị sức nóng biến thành màu nâu. “Được rồi,” nó nói. “Được rồi.” Nàng không trả lời, cũng không cử động. Nó nghĩ đến bóng tối bên ngoài, đến cái đêm mà chỉ có riêng hai người, nó và nàng, bên nhau. “Tụi mình đi nghe,” nó nói.

“Đi à?” nàng nói. Rồi nó nhìn nàng. “Đi đâu đây?” nàng nói. “Để làm gì chớ?” Nó vẫn không hiểu nàng. Nó nhìn nàng đến gần cái tủ thấp và đặt hộp kẹo lên đó. Trong khi nó nhìn, nàng bắt đầu cởi quần áo, giật mạnh ra rồi ném xuống đất.

Nó nói, “Ở đây sao? Trong phòng này sao?” Đó là lần đầu tiên nó thấy một người đàn bà trần truồng, dù nó là người tình của nàng được một tháng nay. Nhưng ngay cả lúc đó, nó thậm chí không biết là nó đã không biết mình mong đợi cái gì để thấy đây.

Đêm đó, hai người chuyện trò với nhau. Họ nằm trong giường, trong bóng tối, và nói chuyện. Hay đúng hơn, nó nói. Trong khi nó nghĩ không ngừng: ‘Trời ơi. Trời ơi. Vậy là chỉ có thế thôi!’ Nó nằm, cũng trần truồng, bên cạnh nàng, đưa bàn tay vuốt ve nàng, và nói về nàng. Không phải về quê quán nàng và ngay cả những gì nàng đã làm, nhưng về thân thể nàng, như thể chưa ai đã từng làm vậy trước nó, với nàng hay với bất cứ ai khác. Có vẻ như bằng lời nói, nó biết được thân thể đàn bà bằng sự tò mò của một đứa trẻ. Nàng nói về chuyện nàng có kinh vào đêm đầu tiên. Và lần này thì nó không thấy bị sốc. Như sự trần truồng và hình dạng cơ thể, chuyện này thì giống như cái gì đó đã không bao giờ xảy ra hay tồn tại trước đó. Vậy là đến lượt nó kể với nàng những gì nó biết để kể. Nó kể về cô gái da đen trong xưởng cưa bỏ hoang vào buổi chiều đó ba năm trước đây. Nó kể với nàng một cách dịu dàng, bình thản, nằm bên cạnh nàng, vuốt ve nàng. Có lẽ nó thậm chí không thể biết chắc chắn là nàng có nghe hay không. Rồi nó nói, “Em có để ý đến da anh, tóc anh không?” chờ nàng trả lời, bàn tay vuốt chầm chậm trên người nàng.

Nàng cũng thầm thì. “Có. Em từng nghĩ có lẽ anh là người nước ngoài, anh không phải quê ở đây.”

“Không đâu, đây là chuyện khác mà. Khác hơn cả chuyện người nước ngoài nhiều. Em không thể đoán ra đâu.”

“Cái gì? Khác sao chớ?”

“Đoán coi.”

Giọng họ thì êm ả. Mọi thứ thì bất động, yên tĩnh; đêm bây giờ thì quen thuộc, đêm không còn được ham muốn, đêm không còn được mong chờ. “Em không thể đoán. Anh là người gì vậy?”

Bàn tay nó di chuyển chậm chạp, lặng lẽ dọc trên mạng mỡ của nàng mà nó không thấy được. Nó không trả lời ngay. Không phải vì nó tìm cách kích thích sự tò mò của nàng. Mà chính vì nó có vẻ không nhớ ra là mình phải nói thêm nữa về chuyện này. Nàng lặp lại câu hỏi. Vậy là nó nói. “Anh có máu mọi đen trong người.”

Nàng vẫn nằm, hoàn toàn bất động, nhưng với một sự bất động khác. Nhưng nó có vẻ không nhận ra. Nó nằm, cũng bình thản, bàn tay lên xuống trên mạng mỡ nàng, chậm rãi. “Anh có cái gì?” nàng nói.

“Anh nghĩ anh có một ít máu mọi đen trong người.” Hai mắt nhắm, bàn tay chậm, không ngừng. “Anh không biết rõ lắm. Anh tin là mình có cái máu đó.”

Nàng không cử động. Nàng nói ngay lập tức: “Anh nói láo.”

“Thôi được,” nó nói, người không cử động nhưng bàn tay không ngừng lại.

“Em không tin chuyện này,” giọng nàng nói trong bóng tối.

“Thôi được,” nó nói, không ngừng bàn tay lại.

Ngày thứ bảy tiếp đó nó lấy một nửa đô-la khác từ chỗ giấu của bà McEachern và đem cho cô bồi bàn. Một hay hai ngày sau nó có lý do để tin rằng bà McEachern nhận ra mình mất tiền và bà nghi ngờ nó lấy. Bởi vì bà kín đáo chờ đợi nó cho đến khi nó biết là bà biết rằng ông McEachern sẽ không xen vô giữa chừng vào cái việc giữa họ với nhau. Rồi bà nói, “Joe này.” Nó ngừng và nhìn bà, biết