← Quay lại trang sách

Chương 9

McEachern nằm trong giường . Căn phòng thì tối nhưng ông không ngủ. Ông nằm bên cạnh bà McEachern mà ông thực sự tin là đang ngủ say, và ông để đầu óc mình suy nghĩ một cách nhặm lẹ và ráo riết. Ông nghĩ, ‘Bộ com-lê thì có mặc rồi. Nhưng khi nào đây? Không thể mặc vào ban ngày được, bởi vì lúc nào mình cũng thấy nó mà, trừ những chiều thứ bảy. Nhưng vào bất cứ chiều thứ bảy nào nó cũng có thể đi vào chuồng ngựa, cởi và giấu bộ quần áo làm việc tiện dụng mà mình bắt nó mặc, rồi khoác lên bộ cánh mà có lẽ nó chỉ muốn và chỉ cần như đồ phụ tùng cho việc phạm tội.’ Ông nghĩ như thể ông đã biết, như thể đã được ai đó kể lại. Điều này khiến ông suy ra là bộ com-lê được mặc một cách bí mật, và do đó, rất có thể là mặc vào ban đêm. Và nếu đúng như vậy, ông không muốn tin là thằng nhỏ có thể có mục đích khác hơn là sự dâm đãng. Bản thân ông thì chưa hề rơi vào sự dâm đãng và ông lúc nào cũng khăng khăng không muốn nghe bất cứ ai nói về thói tật này. Thế nhưng, chỉ trong vòng ba mươi phút suy nghĩ ráo riết, ông biết về những hành vi của Joe nhiều gần như bằng chính Joe đã có thể kể lại với ông, ngoại trừ các tên người và các nơi chốn. Và rất có thể ông sẽ không tin những hành vi đó, ngay cả từ miệng Joe nói ra, bởi vì những con người cùng loại như ông thường có niềm tin đối với những quy trình và sự dàn dựng của cái xấu một cách cũng dứt khoát và cứng rắn như đối với cái tốt. Như vậy, tính cố chấp và sự sáng suốt hầu như hòa lẫn vào nhau, chỉ riêng tính cố chấp thì hơi chậm một chút. Cho nên, khi Joe leo xuống bằng sợi dây thừng, lướt như cái bóng nhanh nhẹn qua cái cửa sổ mở rộng và đầy ánh trăng, đằng sau nó là McEachern đang nằm, thì McEachern không nhận ra Joe ngay lập tức hay có lẽ không tin nơi mắt mình, dù ông vẫn thấy đúng là sợi dây thừng. Và khi ông đến bên cửa sổ thì Joe đã rút sợi dây xuống và cuộn nhanh nó lại, và bây giờ đang đi về phía chuồng ngựa. Trong khi nhìn theo nó từ cửa sổ, McEachern cảm thấy một cái gì đó tương tự như một sự xúc phạm đơn thuần và không có gì riêng tư mà một quan tòa hẳn sẽ cảm nhận nếu thấy một người đàn ông có thể bị tòa kết án tử hình lại khom người nhổ phẹt nước miếng vào tay áo một nhân viên chấp hành [59] của tòa án.

Giấu mình trong bóng tối, nửa đường giữa ngôi nhà và con lộ, ông thấy Joe ở ngã ba con đường làng với con lộ. Ông cũng nghe tiếng xe hơi và thấy nó đến, ngừng lại và Joe leo vào trong. Có thể là ông thậm chí không quan tâm đến ai khác đã có mặt trong xe. Có lẽ ông đã biết rồi, và ý định của ông chỉ là xem chiếc xe chạy theo hướng nào. Có lẽ ông cũng đã biết rồi, bởi vì chiếc xe hẳn có thể đi bất cứ đâu trong vùng này, nó đầy những chỗ đến có thể, và những con lộ dẫn đến đó. Vì bây giờ ông quay về ngôi nhà, bước nhanh, thúc đẩy bởi cùng sự xúc phạm đơn thuần và không riêng tư đó, như thể ông tin là, để có thể được dẫn dắt bởi sự xúc phạm còn lớn hơn, còn đơn thuần hơn [60] , ông không cần nghi ngờ các khả năng cá nhân của mình nữa. Mang đôi dép mềm dùng đi trong nhà, chiếc áo ngủ nhét trong quần, dải đeo quần lủng lẳng, và không đội mũ, ông đi như tên bắn thẳng đến chuồng ngựa và thắng yên con ngựa trắng già, to, khỏe của mình và quay xuống lại con đường làng cho đến con lộ, luôn thúc ngựa phi nước đại, mặc dù bà McEachern, từ cửa nhà bếp, đã gọi tên ông khi ông cưỡi ngựa ra khỏi sân nhà. Ông rẽ lên con lộ, cũng bằng nước đại chậm và nặng nề đó, cả hai, người và con vật, khom người ra đằng trước một cách hơi khó nhọc, như thể trong một sự giả cách mang sức mạnh tàn phá của tốc độ rùng rợn, mặc dù trên thực tế ông và ngựa không đi nhanh lắm, như thể trong niềm tin lạnh lùng và không khoan nhượng và không lệch hướng của cả hai, ông và con ngựa đều sáng suốt và có quyền năng rất lớn đến mức cả hai không còn cần đến tốc độ hay một chỗ đến rõ ràng.

Ông cho ngựa chạy cùng tốc độ thẳng tới chỗ mà ông tìm, mà ông rốt cuộc đã tìm ra sau khi chạy gần hết đêm và gần như cả nửa quận, dù nó không thực sự xa đến vậy. Ông đã đi chưa được bốn dặm thì nghe tiếng nhạc phía trước mình. Rồi ông thấy, ở một bên đường, ánh sáng trong một trường học, một tòa nhà độc một phòng. Ông đã biết cái trường này nằm ở đâu, nhưng không có gì có thể chỉ ra cho ông, làm cho ông biết là người ta tổ chức khiêu vũ ở đó. Nhưng ông cứ chạy thẳng đến đó, vào trong các mảng bóng tối tản mát của những chiếc xe hơi đang đậu, những cỗ xe ngựa, những con la và ngựa có thắng yên, chúng đứng đầy khu rừng nhỏ bao quanh ngôi trường, và ông xuống ngựa mà không đợi nó ngừng hẳn. Ông thậm chí không cột nó lại. Ông nhảy xuống, và vẫn với đôi dép mềm dùng đi trong nhà và dải đeo quần lủng lẳng và cái đầu tròn và bộ râu ngắn, không tỉa tớm, phẫn nộ, ông chạy về phía cửa ra vào đang mở, về phía các cửa sổ đang mở, từ đó tiếng nhạc vang đến và các bóng người, trong ánh sáng của những ngọn đèn dầu lửa, chập chờn theo nhịp điệu nào đó trong sự huyên náo.

Có lẽ khi bước vào trong phòng, ông nghĩ là, giả dụ là ông có nghĩ, ông được dẫn dắt, và bây giờ được một tổng thiên sứ Michael [61] quyết chiến nào đó đẩy đi. Chắc là đôi mắt ông không bị chóa ngay lập tức bởi cái ánh sáng đột ngột và các thân thể đang chuyển động khi ông len qua giữa những thân người quay đầu nhìn, để lại sau lưng hàng loạt cái nhìn ngạc nhiên và cái miệng bắt đầu la lối om sòm, ông chạy về phía chàng trai mà ông đã tự nguyện mang về nuôi và ông đã cố sức dạy dỗ theo những nguyên tắc mà ông tin là đúng đắn. Joe và cô bồi bàn đang khiêu vũ và Joe chưa nhìn thấy ông. Người đàn bà đó chỉ thấy ông có một lần, nhưng có lẽ nàng còn nhớ ông hay có lẽ vẻ bề ngoài của ông thì cũng đủ rồi, ngay lúc này. Bởi vì nàng ngừng nhảy và trên mặt nàng hiện ra vẻ hốt hoảng. Joe thấy và quay người lại. Khi nó quay người lại, McEachern đã đến bên họ rồi. McEachern cũng chỉ thấy người đàn bà đó có một lần, và rất có thể lúc đó ông đã không nhìn nàng, cũng như ông đã không muốn nghe khi đám đàn ông nói chuyện gian dâm. Tuy nhiên, ông bước tới trước mặt nàng, lơ hẳn Joe trong lúc này. “Cút đi, đồ đĩ ngựa trơ tráo!” ông nói. Tiếng ông vang như sấm trong sự im lặng chưng hửng, trên những bộ mặt xung quanh bị sốc, dưới những ngọn đèn dầu lửa, trong tiếng nhạc đã ngưng bặt, trong đêm có ánh trăng yên bình của mùa hè tươi trẻ. “Cút đi, đồ đĩ ngựa!”

Có lẽ dường như ông không nhận ra là mình đã hành động lẹ làng và ăn nói to tiếng đến vậy. Rất có thể là ông có cảm tưởng mình đang đứng đây, chính đáng và cứng rắn như đá, không hấp tấp, không giận dữ, trong khi từ mọi phía sự đê hèn của những con người yếu đuối lại rỉ ra thành một tiếng thở dài kinh hoàng xung quanh vị đại diện thực tế cho chiếc Ngai [62] của sự phẫn nộ và sự trừng phạt. Có lẽ thậm chí cũng không phải hai bàn tay của chính ông đã đấm thẳng vào mặt chàng trai mà ông đã cho ăn, cho ở, cho mặc từ thuở còn là đứa bé, và có lẽ khi bộ mặt đó chúi xuống để né cú đấm và ngửng lên lại thì nó không còn là bộ mặt của đứa bé đó nữa. Nhưng điều này hẳn không làm ông ngạc nhiên, bởi vì không phải bộ mặt đứa bé đó mà ông quan tâm nhưng chính là bộ mặt của quỷ Sa-tăng mà ông cũng biết nữa. Và khi nhìn chằm chằm bộ mặt này, ông vững bước tiến tới nó, bàn tay vẫn giơ cao, ông tiến tới, rất có thể với sự phấn khích mãnh liệt và mê mộng của kẻ tử vì đạo đã được xá tội, tới cái ghế mà Joe phang xuống đầu ông, và vào cõi hư vô. Có lẽ cõi hư vô làm ông ngạc nhiên đôi chút, nhưng không nhiều, và không lâu.

***

Rồi Joe có cảm tưởng là mọi người vội vã tháo chạy, tiếng gào thét tắt dần, bỏ nó lại ngay giữa sàn nhảy, chiếc ghế gãy vẫn nắm chặt trong tay, cặp mắt hạ xuống nhìn người cha nuôi của mình. McEachern nằm ngửa. Bây giờ ông trông có vẻ hoàn toàn thanh thản. Ông dường như đang ngủ, với cái đầu hơi bị móp mép, trông ông như người không thể bị khuất phục ngay cả khi nằm nghỉ, máu trên trán ông cũng yên bình và câm lặng.

Joe thở hổn hển. Nó nghe ra cái đó và cũng nghe cái khác nữa, một cái gì đó lảnh lót, chói tai và xa xôi. Nó có vẻ lắng nghe cái đó một đỗi lâu trước khi nhận ra nó là một giọng nói, một giọng nói đàn bà. Nó nhìn và thấy hai tên đàn ông đang giữ chặt nàng. Nàng cựa quậy, chống chọi, tóc tai bung ra phía trước, bộ mặt tái mét, méo mó và xấu xí với những vết bẩn trên lớp phấn thô thiển, miệng là cái lỗ nhỏ có răng đang kêu gào inh ỏi. “Gọi tao đĩ ngựa à!” nàng vừa hét lên, vừa vùng vẫy trong các cánh tay của hai tên đàn ông đang giữ nàng. “Cái thằng già chó đẻ đó! Thả tao ra! Thả tao ra!” Rồi giọng nàng không nói ra lời nữa, chỉ còn la hét. Nàng cứ cựa quậy, cong người lại, tìm cách cắn tay hai tên đàn ông đang giằng co với nàng.

Tay vẫn cầm chiếc ghế gãy, Joe bước về phía nàng. Chen chúc nhau đứng sát tường, những người khác nhìn nó: đàn bà áo quần thô kệch và lòe loẹt, giày cao gót và bít tất dài mua bằng đường bưu điện; đàn ông bộ com-lê may xấu, cứng quèo, cũng mua bằng đường bưu điện, với những bàn tay chai sạn, biến dạng và những đôi mắt đã biểu lộ một di sản về sự suy nghĩ ủ ê, nhẫn nại trên các luống cày bất tận và trên các đôi mông chậm chạp của các con la. Joe bắt đầu chạy, tay vung chiếc ghế. “Thả cổ ra!” nó nói. Ngay tức khắc, nàng ngừng chống chọi và dồn mọi sự giận dữ và la hét về phía nó, như thể nàng mới vừa thấy nó, vừa nhận ra là nó cũng ở đó.

“Mày! Chính mày đưa tao tới đây. Đồ nhà quê trời đánh thánh vật! Đồ con hoang! Đồ chó đẻ, mày và cả cái thằng già đó. Mày thả nó ra để chửi tao, cái thằng chó đó tao có gặp nó bao giờ đâu...” Joe không có vẻ xông tới một ai đó cụ thể, và bộ mặt nó thì điềm tĩnh dưới cái ghế giơ cao. Những người khác lùi lại, buông người đàn bà ra, dù nàng vẫn tiếp tục giật mạnh hai cánh tay như thể nàng chưa nhận ra là mình vừa được thả ra.

“Ra khỏi đây đi!” Joe hét lên. Nó quay người lại, tay vung cái ghế; tuy vậy nó vẫn giữ được vẻ mặt điềm tĩnh. “Lùi lại!” nó nói, dù không một ai tiến về phía nó. Mọi người đều bất động, im lặng như người đàn ông đang nằm trên sàn nhà. Bây giờ, nó vung cái ghế, lùi dần về phía cửa. “Đứng lùi lại! Tui nói rồi mà, có ngày tui sẽ giết ổng! Tui đã nói với ổng rồi mà!” Vẻ mặt điềm tĩnh, nó vừa vung ghế xung quanh mình, vừa lùi về phía cửa. “Tất cả đứng im đó,” nó nói, không ngừng đảo mắt nhìn những bộ mặt giờ trông giống như những cái mặt nạ. Rồi nó thả chiếc ghế xuống đất, quay người và vọt nhanh qua cửa, đi vào trong nỗi dịu dàng của ánh trăng lốm đốm xuyên qua cây lá. Nó đuổi kịp cô bồi bàn khi cô sắp sửa bước lên chiếc xe hơi đã đưa họ đến đây. Nó thở hổn hển, vậy mà giọng nói vẫn điềm tĩnh: một khuôn mặt đang ngủ nhưng vẫn thở đủ mạnh để tạo ra âm thanh. “Quay về phố đi,” nó nói. “Anh sẽ gặp lại em ngay khi anh...” Chắc là nó không ý thức về những điều nó đang nói hay đang xảy ra khi người đàn bà bất thần quay người lại ở cửa xe và bắt đầu đánh vào mặt nó; nó không tránh né, giọng nói không đổi: “Phải. Phải vậy rồi. Anh sẽ gặp lại em ngay khi anh...” Rồi nó quay lưng và chạy, trong khi nàng vẫn còn vung tay đánh nó.

Nó không thể biết McEachern đã để con ngựa ở đâu. Thậm chí nó cũng không biết con ngựa có đó không nữa. Vậy mà nó chạy thẳng tới đó, thúc đẩy bởi một niềm tin khá tương tự như người cha nuôi về tính không thể sai lầm của các sự biến xảy ra. Nó nhảy lên ngựa và cho chạy ra lại con lộ. Chiếc xe hơi đã ở trên đường, và nó chỉ kịp nhìn ánh đèn sau xe nhỏ dần rồi biến mất.

Con ngựa già khỏe mạnh, được nuôi lớn ở trang trại, quay về nhà bằng nước tế, chậm và đều. Tên thanh niên cưỡi ngựa một cách nhẹ nhàng, giữ thăng bằng một cách nhẹ nhàng, cúi rạp người ra trước, vào lúc đó có lẽ hả hê, như Faustus [63] đã từng, vì đã bỏ lại sau lưng tức thì và mãi mãi tất cả những “Ngươi không được” [64] , vì cảm thấy rốt cuộc được giải thoát khỏi danh dự và luật pháp. Ngựa chạy toát ra mồ hôi có mùi thơm hắc của lưu huỳnh; và ngọn gió vô hình đó thổi qua. Nó hét to lên, “Tui đã làm chuyện đó! Tui đã làm chuyện đó! Tui đã nói với họ là tui sẽ làm mà!”

Nó rẽ vào con đường làng nhưng không cho ngựa chạy chậm lại, cứ thẳng một mạch về nhà dưới ánh trăng. Trước đó, nó tưởng là trời sẽ tối đen nhưng không phải vậy. Nó không dừng lại. Giờ thì sợi dây thừng được cẩn thận giấu kín là một phần của cuộc đời đã chết của nó, chẳng khác gì như danh dự và niềm hy vọng, và cái bà già chán ngắt đó đã là kẻ thù của nó trong mười ba năm trời và bây giờ đang thức chờ nó. Ánh sáng chiếu ra từ phòng ngủ của bà với McEachern, và bà đứng ở cửa, khăn choàng khoác quanh áo ngủ. “Joe,” bà nói. Nó bước nhanh đến hành lang ở cửa ra vào. Bộ mặt nó thì trông như bộ mặt mà McEachern đã nhìn thấy khi chiếc ghế giáng xuống. Có lẽ bà chưa thể nhìn rõ mặt nó. “Có chuyện gì vậy?” bà nói. “Cha đã cưỡi ngựa đi đâu đó. Con nghe...” Lúc này bà mới thấy mặt nó. Nhưng bà cũng không có thì giờ để bước lùi lại. Nó không đánh bà; nó chỉ cầm cánh tay bà lên, một cách gần như khá dịu dàng. Một cử chỉ đơn giản, nhanh chóng để đưa bà ra khỏi lối đi, ra khỏi ngưỡng cửa. Nó kéo bà sang một bên như thể kéo tấm màn trước cửa ra vào.

“Ổng ở chỗ nhảy đầm đó,” nó nói. “Tránh ra, bà già!” Bà quay người, một bàn tay nắm chặt chiếc khăn choàng, bày tay kia bấu lên mặt cánh cửa khi lùi ra sau, mắt vẫn nhìn nó đi xuyên qua căn phòng và bắt đầu chạy lên cầu thang dẫn đến căn phòng áp mái của nó. Nó quay đầu lại, tuy chân vẫn bước. Và bà thấy được những cái răng của nó sáng lên trong ánh đèn. “Ở chỗ nhảy đầm đó, bà nghe chưa? Nhưng ổng đâu có nhảy.” Tiếng cười của nó quét ngược lại phía ngọn đèn. Rồi quay cả đầu lẫn tiếng cười, nó chạy tiếp lên cầu thang, chạy và biến mất, biến mất từ phía trên xuống, trước hết là cái đầu, như thể nó cười, như thể nó chạy đâm đầu vào cái gì đó và cái này xóa bỏ nó như người ta xóa một bức vẽ bằng phấn trên bảng đen.

Bà đi theo nó, khó nhọc leo lên cầu thang. Nó vừa mới đi ngang bà là bà bắt đầu theo nó liền, làm như sự cấp bách không nguôi này đã từng kích động ông chồng bà giờ đã trở lại như một tấm áo choàng khoác trên vai đứa con trai và đến lượt, chuyển từ nó sang bà. Bà kéo lê từng bước chân lên cái cầu thang hẹp, một tay níu chặt cái tay vịn, tay kia giữ khăn choàng. Bà không nói, không gọi nó. Tưởng như bà là một bóng ma tuân theo mệnh lệnh gởi từ xa về của ông chủ vắng mặt. Joe đã không thắp đèn. Nhưng căn phòng thì đầy ánh trăng chiếu vào, và dù không có ánh trăng đi nữa bà hẳn có thể biết được nó đang làm gì. Bà đứng thẳng người, lưng tựa vào tường, đưa tay dò dẫm dọc theo tường cho tới khi tìm thấy cái giường rồi buông người ngồi bịch xuống. Bà đã mất ít nhiều thì giờ vì khi bà đưa mắt nhìn về chỗ có tấm ván di động thì nó đã đến gần giường, nơi ánh trăng rơi thẳng vào, và bà nhìn nó đổ hết cái lon thiếc ra trên giường, hốt hết cái đống đồng tiền và giấy bạc nhỏ nhoi trong một bàn tay rồi đút sâu vào túi. Và chỉ vào lúc đó nó mới nhìn bà ngồi đó, giờ hơi ngả người ra sau, tựa bằng một cánh tay, và bàn tay kia vẫn nắm chặt tấm khăn choàng. “Con không xin má tiền này,” nó nói. “Má hãy nhớ điều đó. Con không xin, bởi vì con sợ má sẽ cho con. Con lấy tiền này thiệt đó. Má đừng quên nghe.” Nó đã quay người hầu như trước khi tiếng nói chấm dứt. Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn hắt lên từ chân cầu thang, bà nhìn nó quay lưng đi xuống. Nó ra khỏi tầm mắt nhưng bà vẫn còn nghe thấy nó. Bà nghe tiếng chân bước nhanh trong hành lang, rồi sau một lúc, bà nghe tiếng vó ngựa phi nhanh; và sau một lúc nữa, tiếng vó ngựa tắt hẳn.

***

Chuông đồng hồ điểm một tiếng đâu đó khi Joe thúc con ngựa già kiệt sức chạy tiếp trên con đường phố chính của thị xã. Ngựa đã bắt đầu thở nặng nhọc từ một đỗi lâu nhưng Joe vẫn giữ nó chạy nước kiệu nhờ dùng cái gậy to quất theo nhịp chạy xuống mông ngựa, tuy thỉnh thoảng nó lại trượt chân. Đó không phải chiếc roi ngựa: nó là một khúc cán chổi mà bà McEachern đã cắm làm cọc đỡ cây trong khoảnh vườn trồng hoa trước nhà. Mặc dù ngựa còn phi được ít nhiều nhưng nó không chạy nhanh hơn người đi bộ bao nhiêu. Gậy cũng giơ lên đập xuống với cùng một sự chậm chạp kinh khiếp và mệt lử, và tên thanh niên, người cúi rạp trên lưng ngựa, có vẻ không biết là ngựa đã yếu đi nhiều, hay có vẻ cũng muốn nhấc lên, đẩy về phía trước con thú kiệt lực, tiếng móng guốc chậm chạp của nó nghe đều đặn và rỗng rang trên phố vắng lốm đốm ánh trăng. Cả hai, ngựa và người cưỡi, tạo ra một hình ảnh lạ lùng và không thực giống như một cuốn phim chiếu chậm trong khi họ cứ mải miết chạy cho nhanh, dù mệt lử, trên con đường dẫn đến cái góc phố mà nó thường đứng đợi, lần này có lẽ ít khẩn thiết hơn nhưng không kém hăm hở, và trẻ trung hơn.

Bây giờ con ngựa cũng không thể chạy nước kiệu nữa trên đôi chân đã cứng lại. Nó thở khó nhọc, sâu, chậm lại, mỗi hơi thở là một tiếng rên rỉ. Gậy vẫn đập xuống. Ngựa đi càng chậm, gậy đập càng nhanh, theo tỷ lệ nghịch như vậy. Nhưng nó cứ chậm lại, lảo đảo nghiêng về phía lề đường. Joe kéo đầu nó bằng cách đánh nó nhưng nó vẫn cứ chậm lại gần lề đường và ngừng hẳn, trên thân lốm đốm bóng tối, đầu gục xuống, run rẩy, hơi thở nghe như giọng nói con người. Vậy mà tên kỵ mã ngồi trên yên, cúi người về phía trước trong tư thế giữ tốc độ ghê gớm, vẫn vung gậy đập xuống mông ngựa. Không có cái gậy giơ lên giáng xuống, không có tiếng thở rên rỉ của con thú, cả hai đã có thể trông giống như bức tượng người kỵ mã đã rời khỏi bệ và đến đây nghỉ mệt trong tư thế kiệt lực cuối cùng trên đường phố yên tĩnh và trống vắng, chập chờn những đốm trăng.

Joe nhảy xuống. Nó nắm lấy đầu ngựa và bắt đầu kéo đi, làm như chỉ bằng sức riêng của mình nó có thể làm ngựa di chuyển rồi nhảy lên yên lại. Con ngựa không cử động. Joe đành ngừng tay, và có vẻ hơi khom người về phía ngựa. Một lần nữa, cả hai đều bất động: con thú kiệt sức và tên thanh niên, mặt đối mặt, hai đầu khá sát nhau, như thể được tạc trong tư thế lắng nghe hay cầu nguyện hay trao đổi chuyện riêng tư. Rồi Joe giơ cao cây gậy và bắt đầu đập xung quanh cái đầu bất động của con ngựa. Nó đánh không ngưng tay cho đến khi gãy gậy, và nó cứ tiếp tục đánh với khúc gậy còn lại không dài hơn bàn tay. Rồi có lẽ nó nhận ra là chẳng còn làm đau nữa, hay có lẽ cánh tay nó cuối cùng đã quá mỏi, bởi vì nó quăng khúc gậy ra xa, quay người chạy vụt đi. Nó không ngoái đầu nhìn lại. Hình dạng nó nhỏ dần, chiếc áo sơ-mi trắng phập phồng rồi mờ dần dưới bóng trăng. Nó chạy trốn khỏi cuộc đời con ngựa như thể con ngựa này chưa hề hiện hữu.

Joe chạy qua góc phố mà nó thường đứng đợi. Nếu mà để ý, nếu mà có nghĩ chút nào, nó hẳn đã nói Trời ơi, đã lâu lắm rồi, đã lâu lắm rồi từ đó Con đường phố bỗng ngoặt đi, trở thành một con lộ trải sỏi. Nó còn gần một dặm để đi, vì vậy nó bắt đầu chạy, không nhanh nhưng đều, thận trọng, đầu hơi cúi xuống như thể để ngắm con lộ đáng khinh dưới chân mình, hai cùi chỏ giữ sát hai bên hông như một người chạy đua chuyên nghiệp. Con lộ tiếp tục quẹo, sáng nhợt nhạt dưới ánh trăng; ở hai bên và nằm cách quãng khá xa, là những căn nhà, đôi chỗ là nhà mới, chúng thì trắng, nhỏ, xấu kinh khiếp, đó là chỗ ở bên rìa thị xã của những con người hôm qua không biết đến từ đâu và ngày mai sẵn sàng ra đi vào nơi vô định. Tất cả đều chìm trong bóng tối, ngoại trừ cái nhà mà nó đang chạy tới.

Nó đến chỗ căn nhà đó và rời con lộ. Nó chạy, hai bàn chân nặng nề và đều đặn trong sự im lặng khuya khoắt. Có lẽ nó đã có thể thấy cô bồi bàn đang đợi, người mặc đồ đen để đi xa, mũ trên đầu, cái va-li sẵn sàng (đi đến nơi nào làm sao, ra đi bằng phương tiện gì, chắc là nó đã không bao giờ nghĩ tới). Và có lẽ Max và Mame cũng đang đợi, chắc đã thay quần áo - Max với áo sơ-mi trần hay thậm chí có lẽ với áo thun lót, và Mame với áo ki-mô-nô màu xanh nhạt - cả hai người vồn vã theo lối vui vẻ ồn ào trong các buổi tiễn đưa. Nhưng trong thực tế nó không nghĩ gì cả, bởi vì nó có bao giờ nói gì với cô bồi bàn về chuyện sửa soạn ra đi đâu. Có lẽ nó tin là nó đã bảo nàng, hay là nàng phải biết chớ, bởi vì các hành động vừa rồi và các dự định tương lai của nó hẳn phải là khá đơn giản để hiểu đối với bất cứ ai. Có lẽ nó thậm chí tin rằng nó có nói với nàng khi nàng bước lên chiếc xe hơi là hắn đi về nhà để lấy tiền.

Nó chạy lên hàng hiên. Cho tới lúc đó, ngay cả trong những ngày vàng son của đời nó trong căn nhà này, nó có tính bốc đồng là luôn luôn luồn vào, càng nhanh và càng kín đáo càng tốt, từ con lộ tới bóng của hàng hiên, rồi vào bên trong nhà, nơi người ta chờ nó. Nó gõ cửa. Có ánh đèn trong phòng nàng và một ánh đèn khác ở cuối hành lang, như nó trông đợi; và cũng có các tiếng nói nữa, đằng sau những cửa sổ rủ màn, nhiều tiếng nói mà nó nhận ra là gay gắt hơn là vui vẻ. Nó cũng trông đợi chuyện đó, nghĩ Họ có lẽ nghĩ là mình không đến. Cái con ngựa mắc dịch. Cái con ngựa mắc dịch Nó gõ lần nữa, mạnh hơn, đặt tay lên nắm cửa, lắc lắc, áp mặt nó sát mặt kính có rủ màn của cánh cửa ra vào. Các tiếng nói im bặt. Rồi không còn bất cứ tiếng động nào bên trong căn nhà. Hai ngọn đèn, bức mành trong phòng nàng thì được rọi sáng và bức màn thì sáng mờ đục ở cửa ra vào, vẫn chiếu sáng liên tục và không dao động, như thể mọi người trong nhà bỗng đột tử khi nó đưa tay chạm đến nắm cửa. Nó gõ cửa lần nữa, dồn dập hơn; nó còn đang gõ thì cánh cửa (không có cái bóng nào hiện trên màn cửa, không có bước chân nào đến gần) bật mở và không gây tiếng động dưới bàn tay đang gõ của nó. Nó đã đặt chân lên ngưỡng cửa, làm như nó bị cột dính theo cánh cửa, khi Max hiện ra, chắn ngang lối vào. Hắn mặc quần áo đầy đủ, kể cả mũ trên đầu. “Ôi, ông nội ơi,” hắn nói. Giọng hắn không to, và hắn như thể hút nhanh Joe vào bên trong hành lang và đóng cửa và khóa lại trước khi Joe nhận ra là mình đã ở bên trong. Tuy nhiên, giọng hắn vẫn giữ cái âm sắc mơ hồ đó, cái âm sắc vừa nồng nhiệt vừa hoàn toàn trống rỗng, hoàn toàn không có lạc thú hay vui vẻ, như cái vỏ sò, như cái gì đó hắn mang trước mặt mình và nhìn Joe qua nó: cái vẻ này, trong quá khứ, đã làm cho Joe nhìn Max một cách vừa ngạc nhiên vừa tức giận. “Rốt cuộc thì chàng Romeo cũng đến đây rồi,” hắn nói. “Tay chơi của Phố Beale [65] đây này.” Rồi hắn lên giọng một chút, nói khá to với chàng Romeo. “Vào đi, vào gặp bạn bè.”

Joe đã đi đến cánh cửa mà nó biết rõ, gần như bắt đầu chạy lại, giả như nó có thực sự dừng bước bao giờ. Nó không để tai nghe Max. Nó đã chưa từng nghe nói đến Phố Beale, gồm ba hay bốn khu nhà phố ở Memphis mà Harlem [66] , nếu so sánh với nó, thì chỉ là một bối cảnh để quay phim. Joe đã không nhìn gì cả. Vì bất thình lình nó thấy mụ đàn bà tóc vàng đứng ở cuối hành lang. Nó đã không thấy mụ xuất hiện ở hành lang, tuy khi nó vào thì hành lang trống trơn. Và bất ngờ mụ đứng ở đó. Mụ mặc váy đen, tay cầm mũ. Và ở khuôn cửa tối của một cánh cửa mở gần nó thì có một đống hành lý với nhiều va-li. Có lẽ nó không thấy chúng nằm đó. Hay có lẽ nó thấy chúng bằng cái liếc mắt nhanh hơn ý tưởng Mình đã không nghĩ là cổ có nhiều đồ đến vậy Có lẽ lúc đó là lần đầu tiên nó nghĩ là họ không có phương tiện đi lại, nó nghĩ Làm sao mình có thể xách đi hết mấy thứ này Nhưng, không dừng chân nó đi thẳng tới cánh cửa mà nó biết rõ. Và chỉ khi đặt tay lên nắm cửa nó mới nhận ra sự im lặng tuyệt đối phía sau cánh cửa, một sự im lặng mà khi ở tuổi mười tám nó đã biết là phải cần nhiều hơn một người để tạo ra. Nhưng nó không dừng chân; có lẽ thậm chí nó không nhận ra là cái hành lang lại trống trơn thêm lần nữa, là mụ đàn bà tóc vàng đã biến mất lần nữa mà nó không thấy hay nghe mụ di chuyển.

Nó mở cửa. Bây giờ nó chạy, tức là như một người đàn ông có thể chạy rất xa trước chính mình và trước sự hiểu biết của mình, vào lúc anh ta ngừng hẳn. Cô bồi bàn ngồi trên giường như nó đã nhìn nàng ngồi rất nhiều lần trước đó. Nàng mặc áo đầm màu tối và đội mũ, như nó trông đợi, như nó biết. Nàng ngồi, đầu cúi xuống, và nàng thậm chí không nhìn cánh cửa khi nó mở ra, một điếu thuốc đang cháy ở bàn tay nàng, bàn tay này thì bất động đến mức kỳ quái, bất động trên chiếc áo đầm tối màu. Và cùng khoảnh khắc đó, nó thấy tên đàn ông thứ hai. Nó chưa hề thấy y trước đó. Nhưng nó chưa nhận ra điều này trước tiên. Chỉ về sau này nó mới nhớ lại điều này, nhớ lại cái đống hành lý trong căn phòng tối tăm mà nó đã nhìn đến trong một khoảnh khắc trong khi ý tưởng trong đầu nó thì đi nhanh hơn cái nhìn.

Tên lạ mặt đó cũng ngồi trên giường và hút thuốc. Mũ y đội trễ xuống tận mắt khiến cho cái bóng của vành mũ phủ lên miệng y. Y không già, nhưng y trông cũng không trẻ. Max và y đã có thể là anh em, cũng như những thổ dân cho là anh em khi thấy hai tên đàn ông da trắng bỗng dưng đi lạc vào một ngôi làng châu Phi. Bộ mặt, cái cằm mà trên đó có ánh sáng chiếu đến thì bất động. Joe không biết tên lạ mặt đó có nhìn mình hay không. Nó cũng không biết là Max đang đứng ngay sau lưng nó. Và nó nghe tiếng nói của họ mà không biết họ nói gì, thậm chí không để tai nghe: Hỏi hắn đi

Làm sao hắn biết chớ Có lẽ nó nghe những từ được phát ra. Nhưng không chắc. Chỉ chắc là chúng không có nghĩa hơn tiếng lạo xạo của đám sâu bọ sau cánh cửa sổ đóng kín mít, hay những cái va-li khóa chặt mà nó đã nhìn nhưng chưa thấy. Hắn đã bỏ trốn ngay sau đó, Bobbie nói

Có thể hắn biết. Tụi mình hãy cố gắng, nếu có thể, tìm ra cho rõ ràng chuyện gì khiến tụi mình phải chạy trốn đây, ít nhất

Mặc dù đã không cử động từ khi đi vào, Joe vẫn đang chạy. Khi Max chạm tay vào vai nó, nó quay đầu lại như thể nó bị chặn lại ngay giữa bước sải. Nó thậm chí đã không nhận ra là Max có mặt trong phòng. Nó nhìn Max qua vai mình với một thứ như sự bực dọc tức tối. “Này nhóc, kể ra đi,” Max nói. “Chuyện ra sao rồi?”

“Chuyện là chuyện gì đây?”

“Cái thằng già đó. Bạn có nghĩ là bạn đã giết lão không? Nói thẳng thắn ra coi! Bạn đâu muốn Bobbie dính vào mấy thứ chuyện rắc rối này, phải không?”

“Bobbie,” Joe nói, trong khi nghĩ Bobbie. Bobbie Nó quay đầu, lại chạy nữa. Lần này Max nắm vai nó, dù không chặt.

“Ráng lên,” Max nói. “Bộ ở đây tụi mình không phải bầu bạn sao? Bạn đã giết lão rồi phải không?”

“Giết ổng?” Joe nói, bằng cái giọng cáu kỉnh của sự nôn nóng được kiềm chế như thể nó bị một đứa bé giữ lại và hỏi han này nọ.

Tên lạ mặt mở miệng nói. “Cái lão mà bạn dộng ghế xuống đầu đó, lão chết chưa?”

“Chết sao?” Joe nói. Nó nhìn tên lạ mặt. Cùng lúc nó thấy lại cô bồi bàn và nó chạy nữa. Bây giờ, nó thực sự cử động. Nó đã hoàn toàn đuổi hai tên đàn ông đó ra khỏi tâm trí mình. Nó bước về phía chiếc giường, tay nhét trong túi, mặt lộ ra vẻ phấn khích và đắc thắng. Cô bồi bàn không nhìn nó. Nàng đã không nhìn nó lấy một lần từ khi nó vào, dù rất có thể nó đã quên bẵng chi tiết này. Nàng đã không cử động; điếu thuốc trên tay nàng vẫn cháy. Bàn tay bất động của nàng thấy to và tái và vô hồn giống như miếng thịt sắp lên chảo. Ai đó nắm vai nó lần nữa. Đó là tên lạ mặt, lần này. Tên lạ mặt và Max đứng kề vai nhau, chằm chằm nhìn Joe.

“Đừng câu giờ nữa,” tên lạ mặt nói. “Nếu bạn đã giết cái lão đó thì nói vậy cho rồi. Không thể giấu kín lâu được đâu. Chưa đầy một tháng thì thiên hạ biết mẹ nó hết rồi.”

“Tui không biết, tui nói thật mà!” Joe nói. Nó nhìn người này đến người kia, cáu kỉnh nhưng chưa giận dữ. “Tui có đánh ổng. Ổng té nhào xuống. Tui có biểu ổng là một ngày kia tui sẽ làm chuyện này.” Nó nhìn mặt người này đến mặt người kia, cả hai đều bất động và hầu như giống hệt nhau. Nó bắt đầu lắc mạnh vai mình dưới bàn tay tên lạ mặt.

Max nói. “Vậy thì bạn tới đây làm gì?”

“Tới đây làm...” Joe nói. “Tui tới đây làm...” nó nói với cái giọng mang chút gì ngạc nhiên yếu ớt, tia mắt hung tợn chiếu lên hết bộ mặt này đến bộ mặt kia với một cái gì như là bực tức, tuy có giận đấy nhưng còn kiên nhẫn. “Tui tới đây làm gì à? Tui tới tìm Bobbie. Mấy người có nghĩ là tui... khi tui đi về tận nhà lấy tiền để làm đám cưới với...” Một lần nữa, nó lại quên bẵng, lại đuổi họ ra khỏi tâm trí mình. Nó lắc mạnh vai ra khỏi bàn tay của tên lạ mặt và quay về phía người đàn bà, và một lần nữa, bộ mặt nó lộ vẻ phấn khích, kiêu hãnh và quên hết xung quanh. Rất có thể vào khoảnh khắc đó, hai tên đàn ông bị thổi bay ra khỏi hoàn toàn cuộc đời nó như hai mảnh giấy trước luồng gió mạnh. Rất có thể nó thậm chí không để ý gì khi Max bước về phía cửa và gọi to, và một lát sau mụ đàn bà tóc vàng đi vào. Nó khom người phía trên cái giường, nơi cô bồi bàn đang ngồi cúi mặt, bất động, khom người phía trên nàng, nó rút từ túi ra các đồng tiền và các tờ giấy bạc và để lên đùi nàng và lên giường bên cạnh nàng. “Đây, em nhìn này. Nhìn đi. Của anh đó. Thấy không?”

Rồi ngọn gió lại thổi lên người nó lần nữa, như khi ở trong ngôi trường ba tiếng đồng hồ trước, giữa những bộ mặt đang há hốc mồm kinh ngạc mà nó đã quên bẵng lúc đó. Nó bây giờ đứng thẳng người, trầm tĩnh, trông như đang mơ, ngay cái chỗ mà cô bồi bàn, bỗng bật dậy như cái lò xo, đã để lại cho nó, và nó thấy nàng, đứng, đưa tay hốt những đồng tiền tản mát và những tờ giấy bạc được cuộn nhỏ rồi quăng tất cả ra xa. Nó bình thản nhìn bộ mặt nàng bơ phờ, cái miệng nàng la hét, cặp mắt nàng cũng la hét nữa. Chỉ một mình nó, giữa tất cả bọn họ, trông có vẻ điềm tĩnh và lặng lẽ; và chỉ riêng giọng nói của nó thì đủ thản nhiên để lọt tai người nghe: “Nghĩa là em không muốn, phải không?” nó nói. “Nghĩa là, em không muốn?”

Cảnh tượng bây giờ thì trông rất giống như ở trường học trước đó: một người nào đó giữ chặt nàng trong khi nàng cực lực vùng vẫy, la hét, tóc tai xổ tung vì cái đầu cứ co giật, hất lên hất xuống, và bộ mặt, ngay cả cái miệng, trái với tóc tai, thì trơ ì như một cái miệng chết trên một bộ mặt chết. “Đồ con hoang! Đồ chó đẻ! Làm tao dính mẹ vô cái chuyện rắc rối này, trong khi tao xưa nay đối xử với mày như thể mày là thằng da trắng! Một thằng da trắng!”

Nhưng rất có thể đối với nó, những lời chửi rủa đó chỉ còn là những tiếng động vào tai này ra hết tai kia: chỉ là một cơn gió lốc bất chợt. Nó chỉ nhìn nàng chằm chằm, nhìn bộ mặt mà nó chưa hề thấy trước đây, và nhẹ nhàng nói (có thành tiếng hay không thì nó không biết chắc) với sự kinh ngạc chậm rãi: Tại sao, tui đã giết người vì nàng. Tui thậm chí đã ăn cắp tiền vì nàng như thể nó vừa nghe đến chuyện này, vừa nghĩ đến chuyện này, như thể người ta vừa báo cho nó biết là nó đã làm chuyện này.

Rồi nàng cũng có vẻ bay ra khỏi đời nó dưới cơn gió mạnh đột ngột như một mảnh giấy thứ ba. Nó bắt đầu vung cánh tay làm như bàn tay nó còn nắm chặt cái ghế gãy. Mụ đàn bà tóc vàng đã có mặt trong phòng từ một đỗi lâu rồi. Nó thấy mụ lần đầu tiên, hình như hiện hình từ không khí, nhưng nó không tỏ ra ngạc nhiên. Mụ đứng đó, bất động, vẻ ngoài điềm tĩnh chắc cứng như kim cương tạo cho mụ một sự đáng trọng cũng khắt khe và bình thản như cái găng trắng bọc bàn tay được giơ lên của người cảnh sát. Đầu tóc bới tém rất gọn gàng. Lúc này mụ mặc chiếc áo ki-mô-nô màu xanh nhạt bên ngoài cái áo đầm dùng mặc khi đi xa. Mụ nói nhẹ nhàng: “Giữ hắn lại. Tụi mình hãy rời khỏi đây đi. Bọn cảnh sát sẽ tới đây bất cứ lúc nào đó. Tụi nó sẽ biết tìm hắn ở đâu mà.”

Có lẽ Joe không nghe mụ gì cả, cũng chẳng nghe cô bồi bàn đang la hét: “Chính hắn mở miệng kể ra cho tôi nghe hắn là mọi đen đó! Một thằng con hoang! Vậy mà tôi cho hắn đ. chùa bấy lâu nay, cái thằng mọi đen chó đẻ này, để rồi bị hắn kéo vào gây chuyện rắc rối với tụi cảnh sát của dân nhà quê. Lại trong buổi nhảy đầm của đám nhà quê đó nữa chớ!” Có lẽ nó chỉ nghe cơn gió mạnh bất chợt trong khi nó vung tay, như thể còn nắm chặt cái ghế, lao vào hai tên đàn ông. Rất có thể là nó thậm chí không biết là hai tên đó đã tiến về phía nó. Bởi vì, với sự phấn khích tương tự như cha nuôi của mình, nó tự ý lao cả người vào, chỉ để nhận một cú đấm như trời giáng của tên lạ mặt. Mặc dù tên đó đã đấm thẳng vào mặt nó đến hai cú, có lẽ nó không cảm thấy một cú nào cả trước khi té nhào xuống đất, và cũng giống như người mà nó đã đánh ngã bằng ghế trước đó, nó nằm ngửa, không cựa quậy. Nhưng nó không bất tỉnh, vì đôi mắt nó vẫn mở và nhìn lên hai tên đàn ông. Không có gì trong đôi mắt ấy cả, không đau đớn, không ngạc nhiên. Nhưng theo bề ngoài, nó không thể cử động; nó chỉ nằm đó với vẻ mặt trầm ngâm sâu lắng, lặng lẽ nhìn lên hai tên đàn ông và mụ đàn bà tóc vàng lúc nào cũng bất động, hoàn tất trọn vẹn và hiện xuất như một bức tượng đúc từ khuôn ra. Có lẽ nó cũng không nghe các tiếng nói, hay có lẽ nó nghe nhưng những tiếng nói này, một lần nữa, thì cũng vô nghĩa như tiếng kêu vù vù khô khan và liên tục của đám côn trùng bên ngoài cửa sổ:

Quấy rầy con bé dễ thương nhất mà tao có thể ham muốn

Hắn nên tránh xa các con điếm

Hắn không thể nhịn được. Hắn sinh ra quá gần một con điếm mà

Hắn thực sự là một thằng mọi đen không? Hắn trông đâu giống mọi đen

Đó là điều hắn nói với Bobbie, vào một đêm nào đó. Nhưng tao đoán là con nhỏ không biết nhiều hơn hắn về chuyện hắn là cái người gì. Mấy thằng nhà quê trời đánh này thì có thể là bất cứ cái giống gì

Tụi mình sẽ tìm ra. Tụi mình sẽ thấy hắn có máu da đen trong người không Nằm im, thư thái, Joe nhìn tên lạ mặt cúi người xuống và nâng đầu nó dậy và đấm vào mặt nó lần nữa, lần này bằng một cú nhanh như roi quất. Sau một lát, nó đưa lưỡi liếm môi, nhè nhẹ, ít nhiều như đứa bé liếm cái muỗng múc nước xốt. Nó nhìn bàn tay tên lạ mặt giơ lên, nhưng không hạ xuống

Thôi đủ rồi. Tụi mình chạy thẳng đến Memphis đi.

Chỉ một lần nữa thôi Joe nằm im và nhìn bàn tay. Rồi Max đến bên cạnh tên lạ mặt, cũng cúi người xuống Tụi tôi cần thêm chút máu để biết cho chắc

Chắc chắn rồi. Hắn không cần phải lo lắng. Cái này thì cũng được chủ tiệm trả tiền mà

Nắm đấm không hạ xuống. Rồi mụ đàn bà tóc vàng cũng đứng ngay đó. Mụ đã nắm lấy cánh tay giơ cao của tên lạ mặt ở cổ tay. Tao đã biểu đủ rồi mà