Chương 10
Sự hiểu biết , chớ không phải nỗi đau buồn, nhớ lại cả ngàn con đường hoang dã và hiu quạnh. Chúng bắt đầu từ cái đêm nó nằm dưới đất và nghe những bước chân cuối cùng rồi cái cánh cửa cuối cùng (họ thậm chí không tắt đèn). Và nó nằm ngửa, yên lặng, hai mắt mở, trong khi cái bóng đèn hình cầu treo phía trên nó vẫn chiếu ra một thứ ánh sáng ổn định và đau đớn như trong một cái nhà mà mọi người ở đó đều chết. Nó không biết mình nằm đây bao lâu rồi. Nó không suy nghĩ gì hết. Nó không thấy đau khổ. Có lẽ nó ý thức là ở đâu đó bên trong con người mình hai cái đầu nhánh đứt rời của ý muốn và tri giác, giờ nằm xa cách, đang chờ được chạm nhau, được nối lại một lần nữa để nó có thể cử động. Trong khi làm xong việc sửa soạn cho chuyến đi, bọn họ thỉnh thoảng bước ngang qua người nó, giống như những người sắp sửa rời bỏ ngôi nhà vĩnh viễn bước ngang qua một đồ vật mà họ có ý định bỏ lại. Này Bobbie này cô bé đây là cái lược mà em bỏ quên đây cũng là số tiền nhỏ nhoi của Romeo trời ơi chắc là hắn đã thó cái két của trường dạy ngày chủ nhật [67] khi ra khỏi lớp bây giờ tiền này là của Bobbie đó bộ bà không thấy hắn cho Bobbie tiền này sao bà không thấy sao bà là người tốt bụng lắm mà đúng vậy hãy lượm tiền lên cô bé em có thể giữ nó như là tiền trả góp hay như là kỷ niệm hay như là bất cứ cái gì em thích ủa sao con nhỏ này lại không muốn tiền thôi thì thật đáng tiếc thật không may nhưng tụi mình không thể để tiền này nằm đây trên sàn nhà nó sẽ làm mục rữa một lỗ trong sàn nhà nó đã bắt đầu làm thủng một lỗ khá lớn so với kích thước của nó khá lớn so với bất cứ kích thước nào ê Bobbie ê cô bé được rồi anh sẽ giữ lại tiền này cho Bobbie không đời nào mày được lấy tiền này thôi được tôi muốn nói là tôi sẽ giữ một nửa số tiền này cho Bobbie tụi mày hãy để tiền lại đó đồ trời đánh thánh vật tụi mày muốn làm gì với tiền này có phải là của tụi mày đâu nó thuộc về hắn mà trời ơi hắn muốn làm gì với tiền này cơ chứ hắn không dùng tiền hắn không cần tiền hãy hỏi Bobbie xem hắn có cần tiền không người ta cho hắn và chính tụi tôi đây phải trả giùm cho hắn hãy để tiền lại đây tao nói với tụi mày không đời nào rồi đây không phải là tiền của tao để mà vứt lại đó là tiền của Bobbie nhưng thực ra cũng không phải của mày nữa Bobbie à trời ơi trừ phi mày bảo tao rằng hắn cũng nợ tiền mày rằng hắn cũng đã đ. chịu mày rồi sau này mới trả tiền những khi tao đi vắng tao đã nói rồi để tiền này lại đây tụi mày cút đi chỉ có năm hay sáu đô-la cho mỗi đứa là cùng Rồi mụ đàn bà tóc vàng đứng thẳng lên bên cạnh nó và cúi người xuống; nó im lặng nhìn; mụ kéo váy lên và lấy ra từ phía trên bít tất dài một xấp tiền giấy được xếp phẳng, gọn và rút ra một tờ, ngừng lại, rồi nhét tờ bạc đó vào túi để đồng hồ ở quần nó. Xong mụ bỏ đi Này ra khỏi đây đi chính mày chưa sẵn sàng đó mày phải xếp lại cái áo ki-mô-nô này và đóng va-li và đánh phấn lên mặt lần nữa và mang va-li và cái mũ lại đây cho tao ê mày cũng ra trước đi dẫn Bobbie theo và ngồi đợi tao với Max trong xe hơi cùng với những cái va-li khác bộ mày nghĩ tao sẽ để một trong hai đứa mày ở lại đây một mình để lấy trộm hắn số tiền này nữa sao thôi nào cút khỏi đây ngay
Rồi họ đi hết: những bước chân cuối cùng, cái cánh cửa cuối cùng. Rồi nó nghe tiếng xe hơi át hẳn tiếng côn trùng, tiếng rồ rồ từ bên trên tụt xuống ngang bằng chỗ nó nằm, rồi tụt xuống thấp hơn nữa đến mức nó chỉ còn nghe tiếng côn trùng thôi. Nó nằm đó, dưới ánh sáng ngọn đèn. Nó chưa thể cử động như nó đã có thể nhìn mà không thực sự thấy, nghe mà không thực sự biết; hai cái đầu nhánh chưa nối lại được trong khi nó nằm một cách thanh thản, thỉnh thoảng đưa lưỡi liếm môi như một đứa bé thường làm.
Rồi hai đầu nhánh nối lại và sự tiếp xúc được tái lập. Nó không biết cái khoảnh khắc chính xác đó nhưng đột ngột nó ý thức là trong đầu có tiếng kêu ù ù, và nó chậm rãi ngồi dậy, biết ra là các giác quan đã sống lại hết, rồi đứng lên. Nó thấy choáng váng; căn phòng quay chậm chạp, nhẹ nhàng, như một ý tưởng, và cái ý tưởng này nói Chưa đâu . Nhưng nó vẫn không thấy đau, ngay cả khi dựa người vào cái tủ thấp nó xem xét trước gương bộ mặt sưng vù máu me của mình và ngay cả khi đưa tay chạm vào mặt. “Trời ơi,” nó nói. “Tụi nó nện mình một trận quá cỡ!” Nó chưa suy nghĩ. Đầu óc nó chưa hoạt động tới mức đó Mình cho là tốt hơn nên ra khỏi đây Mình cho là tốt hơn nên ra khỏi đây Nó đi về phía cửa, hai bàn tay đưa ra trước như một người mù hay người mộng du. Nó ra đến hành lang mà không nhận ra là mình đã bước qua cửa rồi nó thấy mình ở trong một phòng ngủ khác trong khi nó vẫn hy vọng, nhưng có lẽ không tin, là mình đang đi về phía cửa ra vào căn nhà. Phòng ngủ này cũng nhỏ. Tuy vậy nó có vẻ còn đầy sự hiện diện của mụ đàn bà tóc vàng, ngay những bức tường thô cứng và nhỏ hẹp cũng có vẻ phình ra với sự đáng trọng mang tính chiến đấu có bề mặt cứng như kim cương. Trên cái tủ thấp trần trụi có một chai uýt-ki loại xấp xỉ nửa lít [68] còn gần đầy. Nó cầm đưa lên miệng uống chậm rãi, không cảm thấy lửa từ rượu bốc ra, tay kia bám chặt vào cái tủ thấp để đứng cho vững. Uýt-ki chảy xuống cổ họng nó, lạnh như mật mía, không mùi vị. Nó đặt chai rượu không còn một giọt xuống, tựa người vào cái tủ thấp, cúi đầu, không suy nghĩ gì hết, có lẽ chờ đợi mà không biết, thậm chí có lẽ cũng không chờ đợi. Rồi rượu uýt-ki bắt đầu đốt trong người và nó bắt đầu lắc cái đầu từ bên này sang bên kia trong khi sự suy nghĩ thì đi theo những cơn quặn thắt chậm và nóng trong ruột gan: ‘Mình phải rời khỏi đây.’ Nó ra lại hành lang. Bây giờ chính cái đầu nó trở nên rõ ràng trong khi thân thể thì vận hành lộn xộn. Nó phải dỗ dành cái thân đó để nó dựa vào tường dọc theo hành lang mà đi lần ra tới cửa, nghĩ, ‘Ráng lên đi, giữ bình tĩnh chút coi. Tao phải ra khỏi đây đó mày.’ trong khi nghĩ Nếu mình mà có thể chỉ đưa nó ra ngoài, ra ngoài trời, trong không khí mát mẻ, trong bóng đêm mát mẻ Nó nhìn hai bàn tay dò dẫm ở cánh cửa ra vào, cố gắng giúp đỡ chúng, dỗ dành và kiểm soát chúng. ‘Dù sao, đâu phải lúc nào bọn họ cũng khóa cửa,’ nó nghĩ. ‘Trời ơi, nếu khóa thì mình hẳn không thể ra khỏi đây cho đến sáng mai. Mình hẳn không bao giờ có thể mở cửa sổ mà trèo ra.’ Cuối cùng nó mở được cửa, bước ra ngoài và đóng lại sau lưng, dỗ dành lắm, ép buộc lắm thân thể nó mới chịu đóng cánh cửa ra vào của căn nhà trống vắng, chỉ có hai ngọn đèn được thắp, chiếu sáng một cách ổn định và buồn tẻ mà không biết, không bận tâm là căn nhà đã vắng người, cũng tỏ ra lãnh đạm đối với sự im ắng và buồn đau như đối với những đêm bẩn thỉu và thô bạo với những ly tách cũ mèm cứ dùng hoài, với những cái giường cũ mèm cứ nằm hoài. Giờ thì thân thể nó nghe lời tốt hơn, dễ bảo hơn. Nó bước ra khỏi hàng hiên, vào vùng trăng chiếu sáng, và với cái đầu vấy máu, với cái bụng trống không, cồn cào, hoang dại và gan dạ nhờ rượu uýt-ki, nó đặt chân xuống con đường phố mà nó chỉ sẽ thấy được khúc cuối mười lăm năm sau.
Trong đời nó có những giai đoạn mà việc mua bán rượu uýt-ki tàn lụi kịp thời, được hồi phục, rồi tàn lụi lại, nhưng con đường phố này vẫn chạy tiếp. Từ cái đêm đó, hàng ngàn con đường phố chạy dài ra, có vẻ như tạo thành một con đường phố duy nhất, với những góc đường không thể nhận thấy và những quang cảnh thay đổi, thỉnh thoảng bị đứt gãy do các chuyến đi trên xe tải mà nó xin xỏ, trên tàu lửa mà nó đi lậu, và trên xe la nhà quê mà khi ở tuổi hai mươi, hai mươi lăm, ba mươi, nó ngồi trên ghế với bộ mặt cứng nhắc, trơ lì, và bộ áo quần thị dân (ngay khi đã lấm bẩn và cũ sờn). Và người đánh xe la không biết tên hành khách đó là ai hay là gì, và không dám mở miệng hỏi. Con đường phố đó chạy qua các bang Oklahoma và Missouri, xuống phía Nam tận biên giới Mexico, rồi ngược lên phía Bắc, tới các thành phố Chicago và Detroit, trước khi quay xuống phía Nam lần nữa rồi cuối cùng dừng ở bang Mississippi. Con đường dài mười lăm năm: nó chạy giữa các mặt tiền bằng gỗ, hoang dã và giả tạo, của các thành phố dầu lửa, nơi mà bùn đen không đáy làm lấm lem đôi giày màu sáng và bộ quần áo bằng vải “xéc” lúc nào cũng thấy trên người nó, nơi mà nó nuốt đồ ăn sống trong mấy cái dĩa bằng thiếc mà nó phải tốn hết mười hay mười lăm đô-la một bữa ăn và nó trả bằng một cuộn giấy bạc to như con ễnh ương cũng bị lấm lem vì cái bùn đen có mặt khắp nơi này và có vẻ cũng vô hạn như vàng đen mà người ta hút ra từ nó. Con đường cũng chạy qua những cánh đồng lúa mì vàng ươm lượn sóng dưới những ngày vàng làm việc cật lực và ngủ mê man trong đống cỏ khô dưới ánh sáng nhợt nhạt, lạnh lẽo của vầng trăng điên tháng chín và những vì sao nhấp nhánh: nó lần lượt từng là lao động tay chân, thợ mỏ, kẻ đi tìm vàng, tên kéo khách cho các sòng bạc; nó đăng lính, phục vụ được bốn tháng thì đào ngũ và không hề bị bắt lại. Và như thường lệ, chỉ sớm hay muộn thôi, con đường rồi cũng chạy xuyên qua các thành phố, xuyên qua các khu phố giống hệt nhau và hầu như có thể thay đổi được với nhau, mang những cái tên giờ đã chìm vào quên lãng, nơi mà, dưới vòm trời nửa đêm tối tăm, mập mờ và mang tính tượng trưng, nó ăn nằm với những người đàn bà và trả tiền cho họ mỗi khi nó có tiền, và khi không tiền thì nó cũng vẫn ngủ với họ, rồi bảo họ nó là da đen. Việc này thì xuông xẻ được một thời gian, khi nó vẫn còn ở dưới miền Nam. Đơn giản và dễ dàng như chơi. Tất cả những gì nó có cơ phải chịu thì thường là những lời chửi rủa của những người đàn bà nó chơi quịt và của các mụ Tú bà. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nó cũng bị các tên chủ chứa gái khác dần cho một trận đến bất tỉnh để rồi thức dậy sau đó ở ngoài đường hay trong nhà tù.
Mấy chuyện này xảy ra khi nó còn ở dưới miệt mà người ta có thể gọi một cách tương đối là miền Nam. Bởi vì nó bị bể mánh vào một đêm. Nó đứng dậy ra khỏi giường và nói với người đàn bà nó là da đen. “Thật sao anh trai?” nàng ta nói. “Gái này nghĩ anh trai là dân Ý hay cái giống gì tương tự.” Nàng ta nhìn nó, không lộ vẻ tò mò gì đặc biệt, rồi rõ ràng là nàng ta thấy cái gì đó trên bộ mặt nó: “Chuyện này là thế nào? Anh trai trông được lắm đó. Giá mà anh trai thấy được cái thằng mọi đen mà gái này vừa tống cổ ra cửa, ngay trước khi tới phiên anh trai đó.” Nàng ta vẫn nhìn nó, vẻ bình thản. “Này, bộ anh trai tưởng cái chuồng heo này đây là cái gì chớ? Khách sạn Ritz [69] chắc? Rồi nàng ta ngừng nói. Quan sát bộ mặt nó. Bắt đầu lùi bước chậm chạp trước nó. Nhìn nó chằm chằm, nét mặt mệt mỏi, miệng há ra để hét lên. Và nàng ta hét thật. Sau đó thì phải cần đến hai viên cảnh sát mới khuất phục được nó. Thoạt đầu, hai người này nghĩ là nàng ta đã mất mạng.
Nó lâm bệnh sau vụ này. Cho tới lúc đó, nó đã không hề biết là có những đàn bà da trắng chịu làm tình với đàn ông da đen. Nó bịnh cả hai năm. Đôi khi nó nhớ lại là có một lần nó đã đánh lừa hay trêu chọc các gã da trắng để họ gọi nó là mọi đen, và vậy là nó có cớ để đánh nhau với họ, để đánh họ hay để họ đánh mình; bây giờ nó lại đánh nhau với các gã da đen vì họ gọi nó là dân da trắng. Bây giờ nó ở miền Bắc, ở thành phố Chicago rồi tới Detroit. Nó sống với dân da đen và tránh xa dân da trắng. Nó ăn với họ, ngủ với họ, và tính khí thì hung hăng, khép kín, không ổn định. Nó giờ sống như vợ chồng với một người đàn bà trông giống như một bức tượng bằng gỗ mun. Ban đêm, nằm bên cạnh nàng, không ngủ được, nó bắt đầu thở sâu và mạnh. Nó cố ý làm vậy, cảm thấy, thậm chí nhìn thấy bộ ngực da trắng của mình căng phồng, càng lúc càng to lên trong lồng ngực, cố sức hít vào trong con người mình cái mùi da đen, cái suy nghĩ, cái bản chất tối tăm, không thể hiểu được của người da đen, và với mỗi hơi thở ra, nó tìm cách tống cái máu huyết da trắng, cái suy nghĩ, cái bản chất da trắng ra khỏi con người mình. Và trong suốt thời gian đó, với cái mùi mà nó đang cố gắng đồng hóa, hai lỗ mũi nó trở nên trắng hơn và co thắt lại, toàn bộ con người nó dằn vặt và căng thẳng vì sự nổi loạn của thân xác và sự chối bỏ của tinh thần.
Nó nghĩ là chính sự cô đơn mà nó tìm cách trốn tránh, chứ không phải chính nó. Nhưng con đường cứ tiếp tục chạy: như con mèo, nơi chốn nào trông cũng giống nhau đối với nó. Nhưng không ở nơi nào nó có thể thấy cõi lòng mình bình yên. Nhưng con đường vẫn tiếp tục chạy với những tâm trạng riêng, những thời kỳ riêng của con đường, nhưng bao giờ cũng trống vắng: nó hẳn có thể lặng lẽ tự thấy mình như trong vô số những sự hóa thân, bị số phận bắt phải di chuyển, thúc đẩy bởi sự can đảm của một niềm tuyệt vọng bị suy yếu và bị kích động; bởi niềm tuyệt vọng của sự can đảm mà những cơ hội của nó đã phải bị suy yếu và bị kích động. Nó ba mươi ba tuổi, lúc đó.
Vào một buổi chiều con đường phố này trở thành một con lộ đồng quê ở bang Mississippi. Trước đó, gần một thị trấn, nó bị đuổi xuống chuyến tàu lửa chở hàng xuôi Nam. Nó không biết tên thị trấn này; nó bất cần biết người ta dùng từ gì để đặt tên. Dù sao nó đâu thấy mặt mũi thị trấn ra sao. Nó đi vòng ra xa dọc theo rừng cây, rồi khi đến con lộ thì nó nhìn cả hai hướng. Con lộ không được trải đá dù có vẻ được sử dụng thường xuyên. Nó thấy nhiều căn lều của dân da đen rải rác dọc theo đường; rồi nó thấy, cách xa khoảng nửa dặm, một cái nhà to hơn. Đó là một ngôi nhà rộng lớn nằm giữa một lùm cây, rõ ràng là một chỗ ở đã từng có nhiều uy thế trước đây. Nhưng giờ thì cây cối cần phải cắt tỉa và ngôi nhà trông như đã không được sơn phết lại từ nhiều năm nay. Nhưng nó cũng nhận ra là có người ở đó, và nó đã không ăn gì từ hai mươi bốn giờ qua. ‘Cái nhà này thì được việc cho mình đây,’ nó nghĩ.
Nhưng nó không đến gần ngay tức khắc, dù buổi chiều sắp hết. Trái lại, nó quay lưng đi ngược hướng với ngôi nhà, trên người mặc chiếc áo sơ-mi trắng đã bẩn và cái quần vải “xéc” cũ mòn, mang đôi giày đi phố đã rạn nứt và đầy bụi, và cái mũ dạ thì đội lệch một cách kiêu ngạo phía trên bộ râu ba ngày chưa cạo. Tuy nhiên, dù như vậy nó vẫn không có vẻ một tên lang thang đầu đường xó chợ, ít ra là dưới mắt thằng bé da đen đang đi trên đường, tay lúc lắc cái xô bằng thiếc, mà nó sắp gặp trong chốc lát. Nó chặn thằng bé lại. “Ai ở cái nhà bự dưới kia?” nó nói.
“Đó là nơi cô Burden ở.”
“Ông và bà Burden chớ?”
“Thưa ông không phải đâu. Đâu có ông Burden nào. Đâu có ai khác ở với cổ.”
“Vậy à! Một bà già phải không?”
“Thưa ông không phải đâu. Cô Burden đâu có già. Cũng đâu có trẻ.”
“Và cổ sống một mình ở đó. Cổ không sợ sao?”
“Ngay trong thành phố này ai mà muốn làm hại cổ chớ? Dân da đen xung quanh đây chăm lo cho cổ mà.”
“Dân da đen chăm lo cho cổ sao?”
Ngay lập tức, thằng bé dường như đóng sập cánh cửa giữa nó và tên đàn ông đang hỏi han nó. “Tui cho là không có ai ở đây muốn làm hại cổ cả. Cổ có bao giờ làm hại ai đâu.”
“Chắc vậy rồi,” Christmas nói. “Từ đây đến thị trấn gần nhất thì bao xa, theo hướng này?”
“Độ ba chục dặm, người ta nói vậy. Không lẽ ông lại định lội bộ đến đó sao?”
“Không đâu,” Christmas nói. Rồi quay người bỏ đi. Thằng bé da đen nhìn theo nó. Rồi chính thằng bé cũng bước đi, cái xô thiếc lúc la lúc lắc bên hông. Mới được vài bước chân thì thằng bé ngoái đầu ngó lại. Tên đàn ông vừa hỏi han nó giờ tiếp tục bước đều, tuy không nhanh. Thằng bé lại đi tiếp, trong bộ quần yếm bạc màu, vá chùm vá đụp và quá chật. Nó đi chân không. Một lát sau, nó bắt đầu kéo lê đôi chân nhưng vẫn đi tới, bụi đỏ bay lên xung quanh cẳng chân tong teo màu sô-cô-la, xung quanh hai ống đã sờn của cái quần yếm quá ngắn. Thằng bé cũng bắt đầu hát nhiều lần, không có giai điệu nhưng nhịp nhàng, du dương dù chỉ với một nốt nhạc duy nhất:
Say dont didn’t.
Didn’t dont who.
Want dat yaller gal’s
Pudden dont hide. [70]
***
Nằm trong một bụi cây cành lá um tùm và lộn xộn cách ngôi nhà chừng trăm thước, Christmas nghe từ nơi xa vọng đến tiếng đồng hồ điểm chín giờ rồi mười giờ. Trước mắt nó, ngôi nhà nổi bật lên, đồ sộ, vuông vắn, giữa các lùm cây. Ở một cửa sổ trên lầu có ánh sáng hắt ra. Màn sáo không buông xuống và nó thấy ánh sáng đó là từ một ngọn đèn dầu lửa, và thỉnh thoảng nó thấy xuyên qua cửa sổ và trên bức tường cuối phòng, cái bóng của một người đang di chuyển. Nhưng nó không thấy người đó chút nào. Sau một lát, ánh sáng tắt hẳn.
Ngôi nhà giờ chìm trong bóng tối và nó không nhìn nữa. Nó nằm trong khu rừng nhỏ đầy bụi rậm, nằm sấp trên mặt đất tối tăm. Bóng tối trong khu rừng thì không thể thâm nhập được. Xuyên qua làn áo sơ-mi và quần tây, nó cảm thấy sự mát lạnh, nhẹ, gần gũi, hơi ẩm ướt, như thể mặt trời không hề vào được bầu không khí của khu rừng. Xuyên qua áo quần, nó có thể cảm thấy cái mặt đất bị mặt trời ruồng bỏ đó đang phập phồng, chậm chạp và dễ nhận cảm, cận kề thân thể mình: hai quả thận, hai bên hông, bụng, ngực, hai cẳng tay. Trán nó đặt trên hai cánh tay khoanh lại. Mùi ẩm và nồng của đất tối đen và màu mỡ bốc lên đầy hai lỗ mũi nó.
Nó không nhìn lại ngôi nhà trong bóng tối lấy một lần nữa. Nó nằm hoàn toàn bất động trong khu rừng hơn một tiếng đồng hồ trước khi đứng dậy và ra khỏi bụi rậm. Nó không bò. Không có gì lẩn lút, thậm chí không có gì thận trọng đặc biệt khi nó tiếp cận ngôi nhà. Nó chỉ đơn giản đi đến đó một cách yên lặng, như thể đó là cái cung cách đi đứng tự nhiên của nó, rồi đi vòng cái khối to lớn nhưng giờ đây không còn hình dạng nhất định của ngôi nhà, ra phía sau nơi chắc có nhà bếp. Nó đi nhẹ êm không thua gì con mèo, ngừng chân đứng nghỉ một lát dưới cái cửa sổ đã hắt ra ánh sáng trước đó. Đám dế dưới cỏ xung quanh chân nó, đã im tiếng khi nó bước đi và tạo ra một hòn đảo nhỏ yên tĩnh bao quanh nó như một ánh phản chiếu có màu vàng và mỏng manh của các tiếng gáy nhỏ nhoi của chúng, bây giờ bắt đầu lại. Khi nó cử động, chúng lại im tiếng một lần nữa, cùng một cách đột ngột, nhẹ nhàng và mau lẹ như trước. Sau lưng nhà có một cái chái chỉ có tầng trệt. ‘Đây chắc là nhà bếp,’ nó nghĩ. ‘Đúng rồi, nhà bếp đây.’ Nó bước tới, không gây ra tiếng động, trong cái đảo nhỏ của đám côn trùng bỗng dưng im bặt. Trên bức tường nhà bếp nó có thể nhận ra một cánh cửa ra vào. Nếu mà thử tìm cách mở, nó sẽ thấy ra là cánh cửa không được khóa lại. Nhưng nó không thử. Nó đi ngang qua và đứng lại dưới cửa sổ. Trước khi thử mở nó, Joe nhớ lại là mình đã không thấy lưới chống muỗi ở cái cửa sổ trên lầu có ánh sáng hắt ra.
Cửa sổ thì mở, một thanh gỗ ngắn chống nó lên. ‘A, bất cẩn đến vậy sao!’ nó nghĩ. Nó đứng bên cửa sổ, hai bàn tay đặt lên mép cửa, hơi thở nhẹ nhàng, không tỏ ra nghe ngóng, không tỏ ra vội vã, làm như sự vội vã thì vô ích trong thế giới này. ‘Lạ, lạ, lạ thật! Bất cẩn quá mà! Lạ, lạ, lạ thật!’ Rồi nó leo qua cửa sổ; nó có vẻ hòa lẫn vào không gian tối tăm của nhà bếp, như một cái bóng trở về mà không gây ra tiếng động, mà không có di chuyển, trong bóng tối bao la của lòng mẹ. Có lẽ nó nghĩ đến cái cửa sổ khác mà nó đã thường leo qua và sợi dây thừng nó đã phải dùng để lên xuống; có lẽ nó không nghĩ gì đến mấy thứ này.
Rất có thể là không. Không hơn gì con mèo khi nhớ lại một cửa sổ khác; và giống như các con mèo, nó cũng có vẻ nhìn được trong bóng tối khi di chuyển một cách chính xác về phía có đồ ăn mà nó thèm muốn, làm như nó đã biết đồ ăn nằm chỗ nào rồi; hay là, làm như nó được một người rành đường đi nước bước lôi kéo theo. Nó ăn đồ gì đó từ một cái dĩa không thể nhìn thấy, bằng các ngón tay không thể nhìn thấy: các món ăn không thể nhìn thấy. Nó không quan tâm đó là cái gì. Nó không biết là nó thậm chí đã tự hỏi cái đó, đã thưởng thức cái đó cho tới khi hàm nó bất chợt ngừng lại nửa chừng khi đang nhai và những ý tưởng trong đầu nó lại vụt chạy xuống con đường, lùi về hai mươi lăm năm trước, ngang qua các góc phố không thể nhận thấy được của những thất bại cay đắng và những thắng lợi còn cay đắng hơn nữa, và ngừng lại năm dặm tận bên kia cái góc đường mà nó thường đứng đợi, trong cái thuở ban đầu khủng khiếp của tình yêu, một người nào đó mà nó đã quên tên. Nó ngừng suy nghĩ ở chỗ năm dặm tận bên kia cái góc đường đó Mình sẽ biết trong vòng một phút thôi. Mình đã ăn cái này trước đây, ở đâu đó. Trong một phút mình sẽ trí nhớ khởi động và biết Mình thấy mình thấy mình làm hơn cả thấy cả nghe mình nghe mình thấy đầu cúi xuống mình nghe cái giọng nói đơn điệu và giáo điều mà mình tin là nó sẽ không bao giờ chấm dứt mình nghe cái giọng đó cứ nói và nói dai, nói dài mãi, rồi bằng cách nhìn trộm mình thấy cái đầu tròn ngang bướng không thể khuất phục được và bộ râu cắt tỉa gọn gàng cũng cúi xuống và mình nghĩ Làm sao mà ông ta có thể không thấy đói như vậy trong khi mùi vị thơm phức thì vào đầy cả miệng lẫn lưỡi mình khóc như ăn phải muối nóng vì sự chờ đợi và đôi mắt mình cay cay vì hơi nóng bốc lên từ dĩa đồ ăn “Đó là đậu Hà Lan,” nó hét to. “Trời đất, đậu Hà Lan hái ngoài đồng nấu với mật mía.”
Có lẽ không những sự suy nghĩ mà còn những thứ khác đã làm nó lơ đãng: đáng lẽ nó đã nghe ra tiếng động vài khoảnh khắc trước đó chớ, bởi vì người nào đó tạo ra tiếng động này, không khác gì nó, dường như bất cần sự thận trọng và sự im lặng. Có lẽ nó đã nghe thực sự. Nhưng nó vẫn đứng yên trong khi từ bên trong nhà tiếng động êm nhẹ của đôi bàn chân mang dép mềm đang đến gần nhà bếp. Rồi cuối cùng khi đột ngột quay người lại, đôi mắt bất ngờ bốc lửa, nó thấy dưới cánh cửa dẫn vào ngôi nhà đã có cái ánh sáng yếu ớt tiến lại gần. Cái cửa sổ mở thì sờ sờ ra đó: chỉ cần hầu như một bước thôi là nó hẳn có thể leo qua rồi. Nhưng nó không cử động. Nó thậm chí cũng không đặt cái dĩa xuống. Nó thậm chí cũng không ngừng nhai. Vậy là nó đợi, ngay giữa căn bếp, tay cầm dĩa đồ ăn, miệng cứ nhai. Cửa mở và một người đàn bà bước vào. Cô mặc chiếc áo choàng ngủ phai màu, tay cầm nến. Cô giơ cây nến lên cao đến mức ánh sáng rọi sáng cả khuôn mặt cô: một khuôn mặt điềm tĩnh, nghiêm trang, không tỏ ra sợ sệt chút nào. Dưới ánh nến mềm dịu, cô trông không quá ba mươi tuổi lắm đâu. Cô đứng ở ngưỡng cửa. Hai người nhìn nhau hơn cả một phút, hầu như với cùng một tư thế: nó với dĩa đồ ăn, cô với cây nến. Giờ thì nó đã ngừng nhai.
“Nếu anh đến đây chỉ để ăn thì anh sẽ tìm được các thứ anh cần,” cô nói với giọng hơi trầm, thản nhiên, khá lạnh nhạt.