Chương 11
Ngọn nến tỏa ra ánh sáng mềm dịu chiếu lên vóc dáng đàn bà đang sửa soạn đi ngủ trong cái áo choàng ngủ không có thắt lưng, cô trông không quá ba mươi tuổi lắm đâu. Khi y thấy cô vào ban ngày, y biết là cô hơn ba mươi lăm rồi. Sau này, cô bảo y là cô bốn mươi tuổi. ‘Điều này có nghĩa hoặc bốn mươi mốt hoặc bốn mươi chín, theo cách nói của cổ,’ y nghĩ. Nhưng không phải trong đêm đầu tiên mà cô bảo y như vậy, và cũng không phải trong nhiều đêm tiếp theo.
Vả lại, cô nói rất ít với y. Hai người nói chuyện rất ít, và có nói thì cũng thất thường, ngay cả sau khi y trở thành tình nhân ăn nằm trong chiếc giường gái già của cô. Đôi khi y gần như đã tin là họ không nói với nhau chút nào, là y không biết cô chút nào. Như thể có đến hai con người ở cô: một người mà y thỉnh thoảng thấy vào ban ngày, mà y nhìn khi họ trao đổi với nhau bằng những lời nói hoàn toàn vô nghĩa, vì họ muốn vậy, vì họ chấp nhận vậy; và một người khác mà y ngủ chung vào ban đêm, mà y thậm chí không thấy, không nói chuyện chút nào.
Ngay cả sau một năm (lúc đó y đang làm việc ở xưởng bào), khi y không còn gặp cô vào ban ngày, ngoại trừ chiều thứ bảy hay ngày chủ nhật, hay khi y đến nhà để lấy đồ ăn mà cô đã sửa soạn cho y và để sẵn trên bàn trong nhà bếp. Thỉnh thoảng, cô vào bếp nhưng cô không bao giờ ở lại trong khi y ăn. Và đôi khi cô gặp y ngoài hàng hiên ở sau nhà. Trong bốn hay năm tháng đầu tiên kể từ khi y dọn tới ở căn lều gần ngôi nhà, hai người có khi gặp nhau trong chốc lát và trao đổi một hai câu, ít nhiều giống như những người xa lạ. Họ bao giờ cũng đứng: cô mặc một trong những chiếc áo đầm sạch sẽ bằng vải bông in hoa mà cô có vẻ sở hữu hàng tá, và đôi khi đội trên đầu cái mũ vải che nắng như một bà nông dân; và y, dạo này trong chiếc áo sơ-mi trắng sạch sẽ và cái quần bằng “xéc” được ủi thẳng thớm mỗi tuần. Họ không bao giờ ngồi xuống để nói chuyện. Từ trước đến nay, chỉ một lần y thấy cô ngồi, đó là khi nhìn qua cửa sổ ở tầng trệt y thấy cô ngồi viết ở bàn giấy trong phòng. Và một năm sau y mới để ý đến, nhưng không tỏ ra tò mò chút nào, cái số lượng lớn thư từ mà cô nhận được hay gởi đi. Lúc đó y nhận ra là cô dành một phần thời gian mỗi buổi sáng ngồi ở cái bàn viết có nắp đậy cũ mòn và đầy dấu vết trong căn phòng ít đồ đạc và ít khi dùng đến ở tầng trệt, cô viết không ngừng tay. Sau này y mới biết thư từ cô nhận là gồm những chứng từ thương mại, những giấy tờ cá nhân với năm chục dấu bưu điện khác nhau, và thư từ cô gởi đi là những thư trả lời - các ý kiến tư vấn của cô về các vấn đề thương mại, tài chánh và đạo giáo cho những hiệu trưởng, những giáo sư, những ủy viên quản trị của một tá trường học và trường đại học dành cho người da đen ở miền Nam cũng như các lời khuyên riêng tư và thiết thực cho những cô sinh viên trẻ hay ngay cả những cựu học sinh. Thỉnh thoảng cô vắng mặt ở nhà mỗi lần khoảng ba hay bốn ngày, và dù dạo này y có thể gặp cô bất cứ vào đêm nào y muốn, phải sau một năm thì y mới biết là trong những lần vắng mặt này cô đích thân thăm viếng các trường đó và nói chuyện với các thầy cô và các học sinh, sinh viên. Những công việc kinh doanh của riêng cô thì được một luật sư da đen ở Memphis lo liệu, ông cũng là ủy viên quản trị của một trong những trường đó. Trong két sắt của ông, ngoài bản chúc thư của cô, thì còn có những lời hướng dẫn trên giấy (do chính tay cô viết ra) về cách xử lý xác cô sau khi chết. Khi biết được mấy chuyện này, y hiểu ra thái độ của thành phố đối với cô, dù y biết là thành phố không biết được nhiều bằng y. Y tự nhủ: “Như vậy thì chẳng ma nào đến quấy rầy mình ở đây.”
Một ngày nọ y nhận ra là trước nay cô đã không hề mời y vào đúng cái gọi là nhà. Y đã không hề vào xa hơn căn bếp, nơi mà y đã từng tự ý vào trước đó, và y nhếch môi, nghĩ, ‘Cổ không thể cản mình vào trong đó. Cổ biết mà!’ Và y đã không hề vào căn bếp đó ban ngày, trừ khi y đến lấy đồ ăn mà cô đã nấu cho y và để sẵn trên bàn. Và mỗi khi y vào trong nhà ban đêm thì lại như cách y vào đêm đầu tiên; y cảm thấy mình như quân đầu trộm đuôi cướp, ngay cả khi đi lên phòng ngủ, nơi cô đang đợi y. Và ngay cả sau một năm, y vẫn có cái vẻ lén lút vào nhà để, lại một lần nữa, cưỡng đoạt trinh tiết của cô. Như thể mỗi khi bóng tối đổ xuống, y lại thấy mình bị bắt buộc phải cưỡng đoạt lần nữa cái mà y đã cưỡng đoạt rồi - hay y đã chưa bao giờ cưỡng đoạt và sẽ không bao giờ cưỡng đoạt.
Đôi khi y nghĩ về chuyện này theo cách đó, nhớ lại sự nhượng bộ đó của cô, không nước mắt, không mủi lòng, không yếu mềm, gần như đầy tính đàn ông, để hiến thân cho y. Một sự riêng biệt tâm linh còn nguyên vẹn lâu đến độ mà bản năng sinh tồn của chính nó đã giết nó để làm vật hiến sinh, cho thấy trong giai đoạn thể chất của nó cả sức mạnh và sự dũng cảm của một người đàn ông. Một nhân cách kép: cái này, người đàn bà dưới ánh nến (hay có lẽ chính tiếng các bước chân mang dép đến gần) mà khi thấy lần đầu đã làm lộ ra trước mắt y, ngay tức khắc như một phong cảnh hiện ra dưới ánh chớp, một chân trời có sự an toàn cho thân xác và cho sự thông dâm, nếu không phải là khoái lạc; cái kia, những cơ bắp được tập luyện như đàn ông và thói quen suy nghĩ cũng như đàn ông, thừa hưởng từ giòng họ và môi trường sống, đó là tất cả những thứ mà y đã phải đấu tranh chống lại đến cùng. Không có lấy một sự dao động nữ tính, không có lấy một sự rụt rè trước nỗi ham muốn rõ ràng và ý định nhượng bộ đàn ông vào phút cuối. Như thể y đem thân mình ra đánh nhau với một người đàn ông khác để giành giựt một đồ vật không có giá trị gì thực sự đối với cả hai người, họ đánh nhau giành nó chỉ vì nguyên tắc đạo đức mà thôi.
Khi gặp lại cô, y nghĩ, ‘Trời đất, mình tưởng mình biết đàn bà lắm, té ra chẳng bao nhiêu!’ Gặp lại ngay ngày hôm sau đó: trong khi cô nói chuyện, y vừa nhìn cô, như thể cái điều mà trí nhớ của y xác nhận là đã xảy ra mới mười hai giờ trước đó thì không thể có thực, vừa nghĩ Dưới lớp áo quần, cổ cũng không thể được tạo ra để cho điều ấy có thể xảy ra Vào thời điểm đó, y chưa bắt đầu làm việc ở xưởng bào. Gần như suốt ngày hôm đó y nằm dài hút thuốc, tay gối đầu, trên chiếc giường dã chiến mà cô cho y mượn, trong căn lều mà cô cho y ở. ‘Trời ơi,’ y nghĩ, ‘làm như mình là đàn bà và cổ là đàn ông không bằng.’ Nhưng điều này không chính xác đâu, bởi vì cô đã chống cự đến phút cuối. Nhưng đó không phải là một sự chống cự của đàn bà; nếu đúng là sự chống cự thực sự thì không một tên đàn ông nào có thể vượt qua nó, vì lý do đơn giản là đàn bà không tuân thủ qui tắc gì trong cuộc đánh nhau bằng sức lực. Nhưng cô đã chống cự một cách thẳng thắn, theo những qui tắc quyết định là khi đến một mức nào đó người ta đành chịu thua, dù sự chống cự có chấm dứt hay không. Đêm đó y chờ cho đến khi đèn tắt trong căn bếp rồi đèn sáng lên trong phòng ngủ. Y đi đến ngôi nhà. Y đi, không tỏ ra nóng ruột nhưng mang một nỗi giận dữ ngấm ngầm trong người. “Mình sẽ cho cổ biết tay,” y nói to. Y không cố tránh gây ra tiếng động. Y bạo dạn bước vào nhà và leo lên cầu thang; cô nghe ra y tức khắc. “Ai đó?” cô nói. Nhưng giọng cô không có vẻ lo sợ chút nào. Y không trả lời. Y leo lên hết cầu thang và đi vào phòng. Cô còn mặc đồ, quay người lại, mắt nhìn ra cửa khi y vào. Nhưng cô không nói gì với y. Cô chỉ ngó theo khi y đến bên bàn và thổi tắt ngọn đèn. Và y nghĩ, ‘ Giờ thì cổ phải bỏ chạy.’ Vậy là y nhảy vọt về phía cửa để chặn đường. Nhưng cô không chạy trốn. Y tìm thấy cô trong bóng tối, ngay chỗ cô đứng khi ánh đèn phụt tắt, trong cùng một tư thế. Y bắt đầu lột áo quần cô. Y nói với cô, giọng căng thẳng, xẵng xớm nhưng không to: “Tôi cho cô biết tay! Tôi cho cô biết tay, đồ đĩ ngựa!” Cô không chống cự chút nào. Cô thậm chí có vẻ như giúp y bằng cách di chuyển tay chân chút xíu khi thấy cần thiết vào phút chót. Nhưng dưới hai bàn tay y, cái thân xác này hẳn có thể là thân xác chưa cứng lại của một người đàn bà đã chết. Nhưng y không ngừng lại; hai tay y thì thô bạo và nóng nảy, ấy là do sự giận dữ mà thôi. ‘Ít ra mình rốt cuộc cũng biến được cổ thành đàn bà,’ y nghĩ. ‘Giờ thì cổ thù ghét mình. Ít ra mình đã dạy cổ điều này mà.’
Hôm sau y lại nằm dài suốt ngày trên giường trong căn lều. Y không ăn gì cả. Y thậm chí không đi đến nhà bếp để xem cô có để đồ ăn cho y không. Y đang đợi mặt trời lặn, đợi bóng hoàng hôn. ‘Lúc đó thì mình dông mẹ nó rồi,’ y nghĩ. Y không trông mong là có ngày gặp lại cô. ‘Dông quách đi là tốt nhất,’ y nghĩ. ‘Đừng cho cổ cơ hội đuổi mình ra khỏi căn lều này. Đừng để xảy ra như vậy. Đàn bà da trắng không bao giờ làm vậy. Chỉ có đàn bà mọi đen mới đuổi mình đi, mới tống cổ mình ra ngoài.’ Vậy là y nằm dài trên giường, hút thuốc lá và chờ mặt trời lặn. Qua cánh cửa mở, y nhìn mặt trời chếch về một bên, kéo dài ra và đổi sang màu đồng thau. Rồi màu đồng thau phai dần sang màu tía nhạt, rồi màu tía nhạt mờ dần trong bóng hoàng hôn đậm đặc. Y nghe tiếng ếch nhái, và những con đom đóm bắt đầu bay vật vờ từ bên này sang bên kia khung cửa mở, khi bóng tối càng dày hơn thì chúng càng sáng hơn. Rồi y đứng dậy. Y không sở hữu thứ gì khác ngoài cái dao cạo râu; khi bỏ nó vào túi là y sẵn sàng lên đường, đi một dặm hay một ngàn dặm, tùy theo con đường, với những góc phố không thể nhận thấy được, sẽ kéo dài ra tới đâu. Tuy nhiên, khi cất bước, y lại nhắm ngôi nhà mà đi tới. Như thể, ngay khi nhận thấy hai chân mình muốn đi đến đó, y cứ để mặc, y dường như trôi đi và đầu hàng, nghĩ Được rồi Được rồi trôi tiếp, đi tiếp trong bóng hoàng hôn về phía ngôi nhà, lên hàng hiên sau nhà, đến cánh cửa mà y có thể vào, nó không bao giờ khóa mà. Nhưng khi y đặt tay lên thì nó không chịu mở. Có lẽ vào khoảnh khắc đó, cả bàn tay lẫn đầu óc không muốn tin y; y có vẻ đứng đó, im lặng, chưa suy nghĩ, nhìn bàn tay mình lắc lắc cánh cửa, nghe tiếng chốt cửa rung lên bên trong. Y im lặng bỏ đi. Y chưa nổi giận. Y đi đến cửa nhà bếp. Y tin là cái này cũng bị khóa, nhưng chỉ sau khi thấy nó được để mở y mới nhận ra là y đã muốn nó để mở. Khi thấy ra là cửa không khóa, y cảm thấy bị sỉ nhục. Như thể một kẻ thù mà y đã trút lên những bạo lực hung hãn nhất, những lời chửi rủa nặng nề nhất, vẫn đứng trơ trơ, không thương tật, đưa mắt nhìn y với vẻ trầm ngâm và khinh miệt không thể chịu nổi. Khi y đi vào nhà bếp, y không đến thẳng cái cửa thông với bên trong ngôi nhà, cái cửa mà cô đã xuất hiện với cây nến trên tay, vào cái đêm y thấy cô lần đầu tiên. Y đi thẳng đến cái bàn, nơi cô để đồ ăn dành cho y. Y không cần thấy. Hai bàn tay thấy giùm y. Các dĩa thức ăn còn ấm, và y nghĩ Để đó cho thằng mọi đen. Cho thằng mọi đen
Y có vẻ quan sát bàn tay mình như thể y ở từ xa. Y nhìn nó cầm một cái dĩa, vung lên cao rồi giữ nó ở đó trong khi y thở sâu và chậm, và đầu óc thì nghĩ ngợi căng thẳng. Y nghe tiếng nói của mình oang oang, như thể y đang chơi một trò gì đó: “Giăm-bông,” và y nhìn bàn tay quăng mạnh chiếc dĩa vào tường, một bức tường vô hình, và chờ cho tiếng vỡ chát chúa ngưng hẳn, chờ cho sự im lặng trở lại, để lấy cái dĩa khác. Y thong thả cầm lên chiếc dĩa thứ hai, ngửi ngửi. Lần này y cầm khá lâu. “Đậu hay rau xanh?” y nói. “Đậu hay rau cải bó xôi?... Được rồi. Gọi là đậu đi.” Y ném chiếc dĩa thật mạnh và chờ tiếng vỡ im hẳn. Y giơ cao cái dĩa thứ ba. “Món gì đó với hành tây,” y nói, và nghĩ Trò này vui thật. Sao mình lại không nghĩ đến sớm hơn? “Đồ dơ của đàn bà.” Y ném nó thật mạnh, không vội vàng, nghe tiếng vỡ, và chờ. Nhưng bây giờ y nghe ra cái gì khác: bước chân đi trong nhà, đang lại gần cửa. Y nghĩ, ‘Lần này cổ sẽ có cái đèn,’ trong khi nghĩ Nếu phải nhìn bây giờ thì mình hẳn thấy ánh sáng dưới cánh cửa Bàn tay y vung lên rồi hạ xuống Bây giờ thì cổ gần như tới cửa rồi “Khoai tây,” cuối cùng y nói, với sự dứt khoát sáng suốt. Y không nhìn quanh, ngay cả khi y nghe cái chốt cửa bị kéo, ngay cả khi cánh cửa mở ra và ánh sáng chiếu lên người y, nơi y đang đứng với cái dĩa trên tay. “Phải rồi, khoai tây đó,” y nói, với giọng lơ đãng và quên lãng của một đứa bé chơi một mình. Y thấy và nghe cùng lúc tiếng dĩa vỡ. Rồi ánh sáng biến mất; một lần nữa y nghe cánh cửa khép lại nửa chừng, một lần nữa y nghe cái chốt cửa kéo lại. Y vẫn chưa đưa mắt nhìn xung quanh. Y cầm tiếp một cái dĩa khác. “Củ cải đường,” y nói. “Dù sao mình cũng không thích củ cải đường.”
Ngày hôm sau y đi tìm việc làm ở xưởng bào. Và y bắt đầu làm ngay, vào ngày thứ sáu đó. Y đã không ăn gì từ tối thứ tư. Y chỉ nhận được tiền lương vào tối thứ bảy, sau khi làm thêm giờ chiều thứ bảy. Và tối thứ bảy đó, y ăn uống ở một tiệm trong trung tâm thành phố. Đó là lần đầu tiên sau ba ngày. Y không đặt chân trở lại ngôi nhà đó. Trong một thời gian, y thậm chí không nhìn về phía ngôi nhà khi y rời đi hay trở vào căn lều. Sau sáu tháng, đôi chân cuốc bộ của y đã tạo ra được một con đường mòn riêng biệt, từ căn lều cho tới xưởng bào. Nó hầu như thẳng hàng, tránh né tất cả nhà cửa, vào ngay khu rừng và chạy thẳng, càng ngày càng rõ ràng, càng chính xác, cho tới đống mạt cưa, nơi y làm việc. Và luôn luôn vào lúc còi hụ, năm giờ rưỡi chiều, y trở lại căn lều bằng con đường mòn đó. Y thay đồ, mặc cái áo sơ-mi trắng, cái quần đen ủi thẳng thớm, rồi lại cuốc bộ cả hai dặm trở xuống phố để ăn tối, như thể y xấu hổ với bộ quần yếm lao động. Hay có lẽ không phải sự xấu hổ, tuy chắc là giữa hai điều, biết đó là cái gì và biết đó không phải là sự xấu hổ, thì y hẳn có thể biết điều này không nhiều hơn y biết điều kia.
Y không còn cố ý tránh nhìn ngôi nhà nữa; và y cũng không cố ý nhìn nó. Trong một thời gian y tin là cô sẽ cho tìm y. ‘Cổ sẽ đi bước trước,’ y nghĩ. Nhưng cô đã không làm vậy. Rồi sau đó y tin là mình không còn trông chờ chuyện đó nữa. Vậy mà lần đầu tiên khi cố ý nhìn lại về phía ngôi nhà, y cảm thấy tim mình se thắt một cách lạ lùng; lúc đó y hiểu ra là y đã luôn luôn lo sợ cô xuất hiện trong tầm mắt, hiểu ra là cô đã theo dõi y suốt thời gian đó với sự khinh miệt lặng lẽ nhưng rõ ràng. Y có cảm giác cả người toát mồ hôi, như đã vượt qua một thử thách khổ sở. ‘Xong rồi,’ y nghĩ. ‘Giờ thì mình đã vượt qua.’ Nhờ vậy, vào cái ngày mà y thực sự thấy cô, y không cảm thấy bị sốc. Có lẽ y đã phòng bị trước. Dù gì đi nữa, khi y ngước mắt, hoàn toàn tình cờ thôi, và thấy cô trong sân sau nhà, trên người mặc cái áo đầm màu xám và đội mũ chống nắng, y không cảm thấy tim mình se thắt. Y không thể biết cô đã quan sát, đã thấy y trước đó, hay đang quan sát y bây giờ, hay không. Y nghĩ ‘Cô không làm phiền tôi và tôi không làm phiền cô,’ trong khi nghĩ Mình đã nằm mơ điều đó. Nhưng nó đã không xảy ra. Cổ đâu có gì dưới lớp áo quần để mà nó có thể xảy ra
Y bắt đầu đi làm vào mùa xuân. Một buổi tối tháng chín, y trở về nhà và khựng lại ở ngưỡng cửa căn lều, một chân bước dở còn trên không, lộ vẻ sửng sốt tột độ. Ngồi ở giường, cô nhìn y. Cô để đầu trần. Đây là lần đầu tiên y thấy cô đầu trần dù trước đó, trong bóng tối, y đã cảm thấy mái tóc cô buông thả một phần trên mặt gối tối tăm. Nhưng y chưa bao giờ thấy tóc cô trước đó, và y đứng trơ mắt nhìn tóc cô thôi trong khi cô quan sát y. Và bất ngờ y tự nhủ, ngay lúc y sắp sửa bước tiếp: ‘Cổ đang cố sức đây. Mình tưởng là cổ đã có tóc bạc rồi chớ Cổ đang cố sức làm đàn bà nhưng cổ không biết làm cách nào.’ Y nghĩ, y hiểu là Cổ đến để nói chuyện với mình đây Hai tiếng đồng hồ sau, cô vẫn còn nói, hai người ngồi cạnh nhau trên giường, trong căn lều giờ đã bắt đầu tối. Cô bảo y là cô bốn mươi mốt tuổi, cô sinh ra trong ngôi nhà đàng kia và sống ở đó từ xưa đến nay. Là cô chưa bao giờ xa Jefferson quá sáu tháng, và hơn nữa, thỉnh thoảng lâu lắm mới xa như vậy thôi. Là những ngày tháng xa nhà của cô thì đầy nỗi niềm luyến tiếc, nhớ nhung những tấm ván, cây đinh, đất đai, bờ cây bụi cỏ, những thứ tạo nên một nơi chốn đi về mà trước đây còn là một xứ sở xa lạ đối với cô và những người thân thuộc của cô. Ngay đến bây giờ khi cô nói, sau bốn mươi năm, giữa những phụ âm líu nhíu và những nguyên âm đều đều của vùng đất mà cô đã gắn chặt đời mình, giọng vùng New England [71] của cô cũng vẫn nghe rõ ràng như các bà con trong dòng họ cô, những người cả đời không ra khỏi bang New Hampshire và cô chỉ gặp họ có lẽ ba lần trong bốn mươi năm của đời cô. Ngồi bên cạnh cô, trên cái giường tối tăm trong khi ánh sáng lụi tàn và nghe tiếng nói cô tuôn ra đều đặn, không ngừng, có âm sắc gần như giống tiếng đàn ông, Chirstmas nghĩ, ‘Cổ thì cũng giống như những con đàn bà khác thôi. Dù mười bảy hay bốn mươi bảy tuổi, khi mấy em, mấy chị này cuối cùng chịu khuất phục hoàn toàn để mình làm tình, thì bao giờ cũng bằng lời nói tuôn ra từ cửa miệng chị em ta mà.’
Calvin Burden là con trai của một mục sư tên là Nathaniel Burrington. Út trong đám mười đứa con, ông trốn nhà ra đi trên một chiếc tàu thủy khi mười hai tuổi, trước khi có thể viết được tên mình (hay không muốn viết ra, theo lời cha ông). Ông làm một vòng qua mũi Hảo Vọng [72] rồi đến California và theo đạo Thiên chúa; ông sống một năm trong một tu viện. Mười năm sau ông rời miền Tây để đi về bang Missouri. Ba tuần sau khi đặt chân đến đó, ông kết hôn với cô con gái của một gia đình thuộc gốc Huguenot [73] đã di cư từ bang Carolina qua ngả Kentucky. Ngày hôm sau lễ cưới, ông nói, “Tôi nghĩ tốt hơn nên dừng chân định cư tại đây.” Và ông bắt đầu ổn định cuộc sống ngay ngày hôm đó. Cuộc liên hoan vẫn đang tiếp tục và việc đầu tiên ông làm là từ bỏ công khai đạo Thiên chúa. Ông làm việc này trong một quán rượu, khăng khăng đòi mọi người có mặt hãy nghe ông và nói lên những lời phản đối; ông nhấn mạnh là ông sẵn sàng nghe họ phản đối nhưng không ai lên tiếng, ít ra là cho tới lúc các người bạn của ông kéo ông đi ra. Dù sao, ngày hôm sau ông nói rằng đó không phải là trò đùa, rằng ông không muốn ở trong một giáo hội đầy những tên chủ nô lệ có thói quen ăn thịt ếch. Chuyện này xảy ra ở Saint Louis [74] . Ông mua một căn nhà ở thành phố đó, và sau một năm thì ông có con. Ông nói ông đã từ bỏ đạo Thiên chúa năm trước là để linh hồn đứa con trai ông được cứu rỗi; nó vừa sinh ra là ông liền ra sức khắc sâu vào trí não nó tôn giáo của tổ tiên ông ở vùng New England. Không có nhà thờ Nhất thể [75] gần nơi ở và ông không thể đọc Kinh thánh bằng tiếng Anh. Nhưng ở California, các linh mục đã dạy ông học đọc tiếng Tây Ban Nha, và ngay khi thằng bé chập chững biết đi, Burden (ông chỉ biết phát âm Burden thôi, vì ông không biết viết đúng chính tả cái từ này chút nào, và các linh mục đã khó nhọc dạy ông viết nó với bàn tay quen sử dụng dây thừng, báng súng, dao búa hơn là cây bút) bắt đầu đọc cho con nghe, bằng tiếng Tây Ban Nha, những trang trong cuốn sách mà ông mang theo mình từ California, và ông thỉnh thoảng xen thêm vào trong dòng chảy đẹp đẽ và kêu vang của thuyết thần bí bằng tiếng nước ngoài bằng những lời bàn luận ngẫu hứng, khắc nghiệt, hình thành một nửa từ cái lô-gic khô khan và nặng nề mà ông còn nhớ từ các bài giảng đạo của cha ông trong những ngày chủ nhật dài lê thê ở New England, một nửa kia từ lửa địa ngục trước mắt và mưa lưu huỳnh [76] rành rành mà bất cứ một anh mục sư Hội Giám lý [77] cưỡi ngựa đi giảng đạo lưu động [78] ở vùng quê hẳn lấy làm hãnh diện lắm. Chỉ có hai người họ trong phòng: người cha thuộc chủng tộc Bắc Âu, cao và ốm, và đứa con, bé nhỏ, da hơi nâu và nhanh nhẹn, thừa hưởng hình dạng và màu da của mẹ. Hai cha con có vẻ như thuộc về hai chủng tộc khác nhau. Khi thằng bé khoảng năm tuổi thì Burden giết một người đàn ông trong một cuộc cãi lộn về chế độ chiếm hữu nô lệ. Ông phải bỏ trốn, kéo cả bầu đoàn thê tử chạy theo. Ông phải rời Saint Louis. Ông chạy về phía Tây, “để tránh xa bọn Dân chủ [79] ,” ông nói.
Ngôi làng mà ông dừng chân thì gồm một cửa hàng tạp hóa, một xưởng rèn, một nhà thờ và hai tiệm rượu. Ở đây, ông dành phần lớn thì giờ để nói chuyện chính trị, và bằng cái giọng kêu vang và cứng ngắc ông nguyền rủa chế độ nô lệ và những tên chủ nô. Rồi sự nổi danh của ông cuối cùng đuổi kịp ông và người ta biết là đi đâu ông cũng mang một khẩu súng lục trong người, và các quan điểm chính trị của ông thì được chấp nhận không lời bình luận, ít ra là vậy. Thỉnh thoảng, nhất là vào tối thứ bảy, ông về nhà sặc mùi rượu uýt-ki không pha và trong đầu còn vang vọng những lời nói oang oang của mình. Rồi với bàn tay thô ráp, ông đánh thức đứa con trai (vào thời điểm này, người mẹ đã chết và ông có ba đứa con gái, tất cả đều có mắt màu xanh biển). “Tao sẽ dạy mày thù ghét hai thứ,” ông nói, “nếu mày không muốn tao dần cho một trận nhừ tử. Hai thứ đó, một là địa ngục, hai là những thằng chủ nô. Mày nghe tao không đó?”
“Dạ có,” thằng bé nói. “Con làm sao không nghe cha được. Cha đi nằm đi và để cho con ngủ.”
Ông không phải nhà truyền giáo, không phải người đi thu phục tín đồ. Ngoại trừ vài sự cố nhỏ nhặt với mấy phát súng lục, không phát nào gây chết người, ông giới hạn việc giảng đạo của mình trong phạm vi gia đình. “Hãy để tất cả tụi nó kéo xuống địa ngục tối tăm riêng của tụi nó,” ông nói với các con. “Nhưng về phần tao, chừng nào tao còn giơ tay lên được thì tao còn dạy bốn đứa tụi mày về lòng nhân từ của Chúa, bằng roi vọt nếu cần.” Ông nói điều này vào ngày chủ nhật, mọi ngày chủ nhật: sau khi tắm rửa sạch sẽ, các con ông mặc đồ bằng vải bông in hoa hay vải bông dệt chéo [80] , còn ông mặc cái áo vét có đuôi dài [81] bằng dạ mà cái súng lục trong túi quần làm phình lên, và cái áo sơ-mi có nếp, không cổ cồn, mà cô con gái đầu, vào mỗi thứ bảy, ủi thẳng thớm không thua gì bà mẹ đã mất, mọi người tụ tập trong phòng khách thô kệch nhưng sạch sẽ và Burden bắt đầu đọc các trang từ cuốn sách trước kia được mạ vàng và trang trí huy hiệu, trong một thứ tiếng mà không một ai hiểu. Ông tiếp tục làm như vậy cho đến ngày đứa con trai bỏ nhà đi.
Con trai ông tên là Nathaniel. Nó bỏ nhà đi lúc mười bốn tuổi và mười sáu năm sau mới trở về, tuy họ vẫn nhận được tin nó hai lần trong khoảng thời gian đó, qua cửa miệng người mang tin. Lần đầu tiên tin đến từ Colorado [82] , lần thứ hai từ Old Mexico [83] . Nó không nói ra nó làm gì ở hai nơi đó. “Ảnh vẫn khỏe khi cháu chia tay ảnh,” anh ta nói. Đó là người đưa tin thứ hai; và năm đó là năm 1863, và anh chàng đó đang dùng bữa sáng ở nhà bếp, nuốt chửng thức ăn một cách rất ư là lịch sự. Ba cô gái, hai cô đầu nay hầu như đã lớn, phục vụ anh ta, đứng chờ gần bàn với các dĩa đồ ăn trên tay, miệng hơi há ra; họ mặc áo đầm dài tận gót, sạch sẽ và mộc mạc. Người cha ngồi đối diện anh chàng đưa tin, bên kia bàn, đầu chống lên bàn tay duy nhất. Cánh tay kia, ông đã mất hai năm trước đó, trong các trận đánh ở Kansas [84] khi ông làm dân quân du kích trong một phân đội kỵ binh, và đầu và râu ông giờ đã bạc. Nhưng ông vẫn còn đầy sinh lực, và cái áo vét có đuôi dài vẫn phồng lên phía sau vì cái báng của khẩu súng lục nặng nề. “Ảnh bị một chút rắc rối,” người đưa tin nói. “Nhưng ảnh vẫn bình yên vô sự, theo tin mới nhất mà cháu biết.”
“Bị rắc rối à?” người cha hỏi.
“Ảnh giết một tên Mễ, nó quả quyết ảnh trộm con ngựa của nó. Bác biết tụi Tây Ban Nha đối xử ra sao với người da trắng rồi chớ, ngay cả khi tụi nó không giết người Mễ.” Anh chàng đưa tin uống một ngụm cà phê. “Nhưng cháu nghĩ người ta phải tỏ ra nghiêm khắc một chút chớ, trong cái đất nước đầy những tụi thanh niên khờ khạo này. Ồ, cám ơn nhiều,” anh ta nói khi cô con gái đầu sang qua dĩa một chồng bánh kếp bằng bắp khác. “Được rồi cô. Tôi tự lấy lọ đường được mà. Vả lại, người ta dưới miệt đó quả quyết là con ngựa đâu phải của tên Mễ. Tên Mễ đó có bao giờ làm chủ con ngựa nào đâu, họ nói vậy. Cháu nghĩ ngay cả người Tây Ban Nha cũng phải tỏ ra nghiêm khắc đối với tất cả đám dân đến từ miền Đông đã làm miền Tây mang tiếng xấu như vậy.”
Người cha càu nhàu. “Chắc thế rồi. Nếu như có chuyện lộn xộn xảy ra dưới đó, chắc chắn là có nó dính vào rồi, không chạy đâu được. Mày nói với nó,” ông lên giọng một cách hung hăng, “nếu nó để cho mấy thằng linh mục trời đánh nhát như cáy đó rao giảng toàn lời bịp bợm thì chính tao sẽ bắn chết nó, như tao bắn một thằng Phiến quân [85] vậy.”
“Anh nói ảnh hãy trở về nhà,” cô con gái đầu nói. “Đó là điều anh cần nói với ảnh.”
“Được thôi,” anh chàng đưa tin nói. Chắc chắn tôi sẽ biểu ảnh. Tôi đi về phía Đông, về bang Indiana một thời gian, nhưng tôi sẽ tìm gặp ảnh ngay khi tôi quay lại. Chắc chắn tôi sẽ biểu ảnh. Được rồi, được rồi. Tôi không thể quên đâu. Ảnh biểu nói lại với bác là vợ con đều mạnh giỏi cả.”
“Vợ ai, con ai?” người cha nói.
“Của ảnh chớ ai,” anh ta nói. “Và chân thành cám ơn lần nữa. Xin chào mọi người.”
Họ còn nghe tin đứa con trai lần thứ ba trước khi gặp lại anh. Một ngày nọ, họ nghe anh gọi to phía trước nhà, dù còn xa một quãng. Đó là vào năm 1866. Cả gia đình đã di chuyển lần nữa trước đó, một trăm dặm xa hơn về phía Tây, và người con đã mất hết hai tháng mới tìm ra họ. Anh đã đi ngược, đi xuôi cả hai bang Kansas và Missouri trên một chiếc xe bò với hai cái bao bằng da chứa đầy bột vàng và các đồng tiền và đồ nữ trang thô kệch được nhét dưới ghế ngồi như đôi giày cũ, rồi cuối cùng tìm ra căn lều vách đất và cưỡi xe đến đó, miệng la toáng lên. Một người đàn ông ngồi trên ghế trước cửa ra vào. “Cha anh đó,” Nathaniel nói với người đàn bà ngồi trên ghế bên cạnh anh. “Thấy không?” Tuy chưa đầy sáu mươi tuổi nhưng mắt người cha đã bắt đầu thấy kém. Ông chỉ có thể nhận ra gương mặt của đứa con mình khi chiếc xe bò ngừng lại và các cô em gái rộn rã chạy ào ra. Rồi Calvin đứng dậy, và với tất cả sức lực của mình, hét một tiếng thật to và lâu. “Đây, đây,” Nathaniel nói, “tụi con về rồi đây này.”
Calvin không nói rành rọt cả câu chút nào. Ông chỉ hét lớn và chưởi thề. “Tao sẽ dần cho mày một trận nhừ tử!” ông rống lên. “Mấy con nhỏ đâu rồi? Vangie! Beck! Sarah!” Ba chị em đã ra trước nhà rồi. Họ mặc váy dài và khi chạy ào ra cửa thì họ trông như những quả bóng trên giòng thác, và họ hét toáng lên đinh cả tai, nhưng tiếng rống oang oang của người cha vẫn mạnh hơn. Cái áo khoác, tức cái áo vét có đuôi dài mà ông mặc ngày chủ nhật đó, loại áo của người giàu hay người nghỉ hưu, giờ mở toang ra và ông đưa tay lục lọi cái gì gần bên hông, trông giống điệu bộ và tư thế của một người đang tìm khẩu súng lục. Nhưng ông chỉ rút ra sợi dây nịt bằng da với bàn tay còn lại, và ông vừa vung nó lên, vừa xông đến giữa ba cô gái đang nhảy nhót như chim và kêu la inh ỏi. “Tao dạy mày cho mày biết tay! Tao dạy cho mày biết tìm đường mà bỏ nhà đi!” Cái nịt da quất hai lần xuống vai Nathaniel. Và còn hai lần quất nữa trước khi hai người đàn ông ôm chặt nhau.
Đó là một trò chơi, theo một nghĩa nào đó: một thứ giống như một trò chơi chết người, nửa nghiêm chỉnh, nửa cười cợt, trò chơi của hai con sư tử, có thể để lại dấu vết, có thể không. Cái nịt da đã ngừng quất, họ ôm ghì lấy nhau. Họ đứng đó, mặt đối mặt, ngực này ép sát ngực kia: người cha già tóc bạc, bộ mặt hốc hác, đôi mắt xanh nhợt của người miền New England, khác xa đứa con trai trẻ với cái mũi khoằm và hàm răng trắng tươi cười. “Thôi đủ rồi,” Nathaniel nói. “Bộ cha không thấy ai đang nhìn từ chiếc xe đàng kia sao?”
Cả bọn họ, không ai nhìn đến chiếc xe bò cho tới giờ. Ngồi trên ghế là một người đàn bà và một đứa bé trai độ mười hai tuổi. Người cha liếc nhìn người đàn bà đó một lần; ông thậm chí không cần nhìn thằng bé. Và ông chỉ nhìn người đàn bà, miệng há hốc, như thể ông nhìn thấy một bóng ma. “Evangline!” ông nói. Cô trông giống người vợ quá cố của ông đến mức người ta có thể tưởng là hai chị em. Người con trai hầu như không thể nhớ mặt mẹ mình, vậy mà đã chọn làm vợ một cô gái giống bà gần như đúc.
“Đây là Juana,” anh nói. “ Và đó là Calvin bên cạnh. Tụi con về đây để cưới nhau.”
Tối hôm đó, sau bữa ăn tối và vợ con đã đi ngủ, Nathaniel kể mọi chuyện cho họ nghe. Mọi người ngồi quanh ngọn đèn: người cha, các con gái, đứa con trai giờ đã trở về. Không có lấy một mục sư nơi vùng anh sống, anh giải thích, chỉ toàn là linh mục Thiên chúa giáo không à. “Vậy là khi tụi con biết ra mình sắp có thằng nhỏ [86] , cổ bắt đầu nói về các cha cố. Nhưng con dứt khoát không muốn đứa con mang họ Burden ra đời mà không có đạo. Vậy là con bắt đầu tìm kiếm, để cổ yên tâm. Nhưng rồi cứ bị lu bu việc này, chuyện nọ đến nỗi con không thể vắng mặt để tìm gặp mục sư, rồi thằng bé sinh ra, và vậy là việc này thấy chẳng còn gấp gáp nữa. Nhưng cổ cứ tiếp tục lo lắng, nói lên nói xuống về mấy cha cố và đại loại như vậy, và vậy là khoảng hai năm sau con nghe nói là sẽ có một mục sư da trắng một ngày nào có thể đến Santa Fe [87] . Vậy là tụi con gói ghém đồ đạc và lên đường, và tới Santa Fe vừa kịp để nhìn theo đám bụi mù sau chiếc xe ngựa chở khách đưa ông mục sư đi xa. Vậy là tụi con ở lại đó để chờ, rồi thêm hai năm nữa, một cơ hội khác lại đến, nhưng ở tận Texas lận. Song lần này thì con lại bận rộn giúp mấy tên kiểm lâm, họ phải dàn xếp một vụ rắc rối dính líu đến một tên cảnh sát bị người ta tấn công trong buổi nhảy đầm đến nỗi phải chạy trốn. Vậy là, khi chuyện đó xong xuôi tụi con quyết định về đây để cưới nhau. Đó, tụi con về đây rồi đó.”
Người cha ngồi dưới ngọn đèn, tóc bạc, hốc hác, khắc khổ. Ông đã lắng nghe, nhưng mặt ông mang vẻ suy nghĩ mông lung, dường như đang ngủ hay trầm ngâm quá sâu, cùng với một sự căm tức pha lẫn ngạc nhiên. “Lại thêm một thằng dòng họ Burden trời đánh có lông đen trên người,” ông nói. “Người ta chắc sẽ nghĩ là tao đã nhảy cái với một con đàn bà miền Nam trời đánh thánh vật nào đó. Và bây giờ nó cũng đã phải nhảy cái với một con như vậy!” Đứa con trai im lặng nghe, thậm chí không tìm cách nói với cha rằng vợ mình là người Tây Ban Nha chứ không phải một Phiến quân. “Quỷ tha ma bắt cái đám dân lùn da nâu sẫm này đi cho rồi: lùn, vì sức nặng của sự nổi giận của Chúa không cho tụi nó lớn lên được, da nâu sẫm vì tội lỗi trong kiếp người đầy ràng buộc làm dơ máu huyết và da thịt tụi nó.” Ánh nhìn chằm chằm của ông thì mơ hồ, cuồng tín, tin chắc mình không sai. “Nhưng hiện tại thì chúng ta đã giải phóng tụi nó rồi, đen lẫn trắng đều được tự do. Tụi nó sẽ làm phai màu da. Trong vòng một trăm năm, tụi nó sẽ trở thành dân da trắng lần nữa hết. Rồi có lẽ chúng ta sẽ để cho tụi nó trở vào lại nước Mỹ.” Ông ngồi trầm ngâm, bất động, đầy vẻ suy tư. “Chúa ơi,” ông đột ngột nói, “tuy nó mang màu da nâu sẫm nhưng dù sao nó vẫn có xương cốt của một thằng đàn ông. Chúa ơi, nó sẽ to cao như ông nội nó, sẽ không thành thằng còi như cha nó. Chắc chắn nó sẽ như vậy rồi, dù mẹ nó da nâu sẫm, dù chính nó cũng da nâu sẫm.”
Cô kể tất cả mấy chuyện này cho Christmas nghe. Hai người ngồi trên giường, trong căn lều càng lúc càng tối, và hơn một tiếng đồng hồ trôi qua mà họ vẫn ngồi một chỗ. Christmas bây giờ không thể thấy khuôn mặt cô chút nào; y hầu như không nghe cô nói, có vẻ để giọng nói của cô đu đưa nhẹ nhàng như trên một chiếc tàu trôi giạt; y dường như hơi lắc lư một cách yếu ớt, trên một sự yên bình mơ mơ màng màng và vô cùng vô tận, không gợi lên một ý tưởng nào cả vào bất cứ lúc nào. “Ảnh tên là Calvin, giống tên ông nội, và ảnh cũng to cao như ông nội, mặc dù ảnh da nâu như gia đình phía bà nội và như mẹ ảnh. Bà này không phải mẹ tôi: ảnh chỉ là anh cùng cha khác mẹ với tôi. Ông nội là út trai trong đám mười người con, và cha tôi là thứ hai trong hai người, và Calvin là người cuối cùng trong tất cả. Anh vừa mới được hai mươi tuổi thì bị giết chết ở dưới phố, cách nhà hai dặm, bởi một tên cựu chủ nô và cựu binh miền Nam có tên là Sartoris vì cãi nhau về quyền bầu cử của người da đen.”
Cô kể cho Christmas về các ngôi mộ: mộ của anh cô, ông nội, cha và hai người vợ của ông - tất cả nằm trên một gò đất có nhiều cây tuyết tùng trong cánh đồng cỏ cách nhà nửa dặm. Christmas vừa im lặng nghe, vừa nghĩ, ‘A, cổ sẽ dẫn mình thăm mộ. Mình sẽ đi thôi.’ Nhưng y lầm. Cô nói về những nấm mộ đó với y chỉ một lần vào đêm đó thôi, khi cô nói ra chỗ chúng nằm và y có thể tự mình đi đến đó để nhìn nếu y thích. “Dù sao, anh chắc là không thể tìm ra chúng đâu,” cô nói. “Bởi vì khi người ta mang ông nội và Calvin về nhà tối hôm đó, cha tôi đã chờ tới khuya mới chôn cất hai người, rồi che giấu các cái huyệt, san phẳng mặt đất ở đó rồi phủ lên tất cả bằng các nhánh cây và nhiều thứ khác nữa.”
“Che giấu họ à?” Christmas nói.
Cô nói bằng một giọng không có gì dịu dàng, không có gì nữ tính, hay đau thương và luyến tiếc quá khứ. “Để mà người ta không tìm ra họ. Để người ta không thể đào mộ bươi xác họ lên và có lẽ chặt họ ra từng khúc.” Cô tiếp tục, có lẽ hơi mất kiên nhẫn trong giọng nói và nặng phần giải thích: “Ở quanh đây người ta thù ghét chúng tôi lắm. Chúng tôi là dân Yankee mà. Người nước ngoài mà. Còn tệ hại hơn cả người nước ngoài nữa đó: chúng tôi là kẻ thù của họ. Một loại cha căng chú kiết nào đó bỗng dưng lù lù sống trên đất họ [88] . Và nó - cuộc Nội chiến - vẫn còn quá gần đến nỗi ngay cả những người bại trận chưa thể trở nên biết điều lần nữa. Họ gọi đó là kích động dân da đen giết người và hãm hiếp, một nguy cơ đối với tính ưu việt của người da trắng. Vì vậy, tôi cho rằng đại tá Sartoris được xem là anh hùng của thành phố bởi vì ông ta đã giết được, bằng hai phát đạn súng lục, một ông già cụt tay và một thằng bé thậm chí chưa từng đi bỏ phiếu lần nào. Có lẽ họ có lý. Tôi làm sao biết được.”
“Ồ,” Christmas nói. “Họ đã có thể làm vậy sao? Đào mả moi lên hai người đã bị giết, đã chết sao? Vậy thì khi nào những con người thuộc các chủng tộc khác nhau mới thôi thù ghét nhau đây?”
“Khi nào thì họ...?” Tiếng nói cô ngưng lại. Rồi cô tiếp tục: “Tôi làm sao biết được. Tôi không biết họ có đào mả hay không. Hồi đó tôi chưa ra đời mà. Tôi chỉ sinh mười bốn năm sau khi Calvin bị giết. Tôi không biết những người đàn ông đã có thể làm gì lúc đó. Nhưng cha nghĩ rằng họ hẳn có thể làm chuyện đó. Vì vậy ông đã che giấu các nấm mộ đó. Rồi mẹ Calvin chết, và ông chôn cất bà cũng ngay chỗ đó, bên cạnh Calvin và ông nội. Và vậy là chỗ đó tự nhiên trở thành nghĩa trang của chúng tôi, mà chúng tôi lúc đầu không nghĩ là thành như vậy. Có lẽ cha đã không có ý định chôn bà ở đó. Tôi còn nhớ mẹ tôi kể (ít lâu sau khi mẹ Calvin mất, cha đã cho tìm bà tận trên New Hampshire, nơi mà một vài người bà con của chúng tôi còn sinh sống. Ông chỉ có một mình ở đây, anh thấy đó. Tôi cho rằng nếu không phải vì Calvin và ông nội được chôn ở đây thì ông hẳn đã bỏ đi lâu rồi.), mẹ tôi kể là mẹ Calvin chết ngay lúc cha sửa soạn ra đi. Nhưng bà chết vào mùa hè, và thời tiết hẳn là quá nóng để có thể đưa bà về lại gia đình bà ở Mexico. Vậy là ông chôn bà ở đây. Có lẽ đó là lý do ông quyết định ở lại đây. Hay có lẽ vì ông cũng già đi lúc đó, và tất cả đàn ông đã đánh nhau trong cuộc Nội chiến cũng già đi, và những người da đen hầu như đã không hãm hiếp hay giết người nào. Dù gì đi nữa, ông đã chôn bà ở đây. Ông cũng phải che giấu cái nấm mộ đó nữa, bởi vì ông nghĩ ai đó có thể thấy nó và tình cờ nhớ lại Calvin và ông nội. Ông không muốn đánh liều một chuyện như vậy, cho dù mọi việc đã qua rồi, đã chấm dứt, thực sự chấm dứt lúc đó. Và năm sau ông viết cho người anh họ của chúng tôi ở New Hampshire. Ông nói, ‘Tôi giờ đã năm mươi tuổi. Tôi có tất cả những gì mà cô ấy sẽ cần từ trước đến nay. Hãy gởi cho tôi một người đàn bà tử tế để làm vợ. Tôi không quan tâm đến chuyện cô ấy là ai, miễn là một người nội trợ tốt và ít nhất ba mươi lăm tuổi.’ Ông gởi kèm tiền vé xe lửa theo lá thư. Hai tháng sau mẹ tôi đến đây, và hai người cưới nhau ngay trong ngày đó. Đối với ông, đó là một sự kết hôn vội vã. Lần kia, ông phải mất hơn mười hai năm để cưới nhau, cái lần mà ở Kansas, ông, Calvin và mẹ Calvin cuối cùng gặp được ông nội đó. Họ về đến nhà vào giữa tuần, nhưng họ phải chờ đến chủ nhật để làm đám cưới. Họ làm tiệc ngoài trời, bên bờ suối, với nguyên một con bê quay và một thùng rượu uýt-ki và tất cả mọi người, ai được nghe mời và ai nghe tin, đều đến dự. Họ bắt đầu đến ngay từ sáng thứ bảy, và tối thứ bảy thì ông mục sư đến. Suốt ngày hôm đó, các em gái của cha cặm cụi may cho mẹ Calvin chiếc áo cưới và mạng che mặt. Họ tạo ra chiếc áo cưới từ bao bố đựng lúa mì và mạng che mặt từ cái mùng chống muỗi mà một ông chủ quán rượu đã đóng đinh phủ lên một bức tranh sau quầy. Họ đã mượn nó từ ông chủ quán. Họ thậm chí cũng may cho Calvin mặc một thứ tựa như bộ com-lê. Ảnh mười hai tuổi lúc đó, và họ bắt ảnh làm người mang hộp nhẫn cưới. Ảnh không muốn chút nào. Ảnh biết ra vào đêm trước đó chuyện họ tính bắt ảnh làm, và ngày hôm sau, (họ đã định cử hành lễ cưới vào khoảng sáu hay bảy giờ sáng hôm đó) sau khi mọi người đã dậy và ăn sáng, họ phải dời lại lễ cưới cho tới khi tìm được Calvin. Cuối cùng thì họ cũng tìm ra ảnh và bắt ảnh mặc lên người bộ com-lê và lễ cưới được cử hành, với mẹ Calvin mặc áo cưới may tại gia và đeo mạng che mặt bằng vải mùng và cha tôi, với mái tóc ép sát đầu bằng mỡ gấu và đôi ủng Tây Ban Nha bằng da thuộc ông mang về từ Mexico. Và chính ông nội hộ tống cô dâu để trao cho tân lang. Chỉ phải cái là trong khi mọi người chạy đi tìm Calvin thì ông đến chỗ thùng uýt-ki vài lần, và vậy là khi tới lúc đưa cô dâu cho tân lang, ông lại làm một bài diễn từ thay cho việc này. Ông bắt đầu nói về Lincoln [89] và chế độ nô lệ và thách thức mọi người có mặt xem ai dám phủ nhận ý kiến theo đó Lincoln và dân da đen, Moses [90] và dân Do Thái, cũng là như nhau, và Biển Đỏ chỉ là máu đã phải đổ ra để cho chủng tộc người da đen có thể vượt qua mà đi vào miền Đất hứa [91] . Phải khá lâu họ mới làm ông im miệng để buổi lễ cưới có thể tiếp tục. Hai vợ chồng còn ở lại một tháng sau khi cưới. Rồi một hôm cha và ông nội lên đường đi về miền Đông, đến thủ đô Washington và được chính phủ giao cho nhiệm vụ xuống Jefferson đây để giúp đỡ những người da đen vừa được giải phóng khỏi chế độ nô lệ. Vậy là họ đến Jefferson, tất cả mọi người trừ các cô em gái của cha. Hai người thì đã lấy chồng, và cô út thì đến ở với một trong hai chị, và ông nội, cha, Calvin và mẹ ảnh đến đây và mua cái nhà này. Và rồi, chuyện mà chắc họ luôn luôn tiên liệu đã thực sự xảy ra, và cha chỉ có một mình cho đến ngày mẹ tôi đến từ New Hampshire. Hai người chưa từng thấy nhau trước đó, ngay cả qua ảnh chụp. Họ cưới nhau ngay trong ngày mẹ tôi đến và hai năm sau thì tôi sinh ra và cha đặt tên tôi là Joanna, theo tên của mẹ anh Calvin. Tôi không nghĩ là ông muốn có thêm một đứa con trai khác. Tôi không nhớ rõ ông cho lắm. Một lần duy nhất mà tôi nhớ ông như là một người quan trọng đối với mình, như là một con người, là khi ông dẫn tôi đến và cho tôi thấy ngôi mộ của Calvin và ông nội. Đó là một ngày mùa xuân ngập nắng. Tôi nhớ là thoạt đầu mình không muốn đi, thậm chí không biết chỗ định đi là ở đâu. Tôi không muốn đi vào chỗ có những cây tuyết tùng. Tôi không biết tại sao mình lại không muốn đi. Tôi hẳn không thể biết có gì trong chỗ đó, tôi mới bốn tuổi mà. Và thậm chí nếu tôi biết thì đã không có gì khiến một đứa bé phải sợ. Tôi nghĩ đó là cái gì đó đến từ cha tôi, cái gì đó đến với tôi từ lùm cây tuyết tùng, qua ông; cái gì đó mà tôi cảm thấy là ông đã đặt trong lùm cây tuyết tùng đó, mà tôi khi đi vào trong đó thì lùm cây trùm lên tôi đến nỗi tôi sẽ không bao giờ có thể quên được nó. Tôi không biết. Nhưng ông ép tôi đi cùng. Và cả hai chúng tôi đứng đó, và ông nói, ‘Con hãy nhớ điều này. Ông nội và anh con nằm dưới đó, bị giết không phải bởi một tên da trắng nhưng bởi lời nguyền rủa mà Chúa áp đặt lên toàn thể một chủng tộc rất lâu trước khi ông nội, anh con, cha và con đây bị phán xét. Một chủng tộc bị nguyền rủa, bị kết tội để mãi mãi là một phần của sự kết tội và của sự nguyền rủa mà chủng tộc da trắng phải chịu vì những tội lỗi của nó. Hãy nhớ điều này nghe con. Sự kết tội và sự nguyền rủa của Chúa. Đời đời. Mãi mãi. Cha có tội. Mẹ con. Cả con nữa, dù con chỉ là đứa bé. Sự nguyền rủa mà bất cứ đứa bé da trắng nào cũng phải chịu, đứa đã sinh ra cũng như đứa sẽ sinh ra. Không ai có thể chạy thoát được.’ Và tôi nói, ‘Ngay cả con nữa sao?’ Và ông nói, ‘Ngay cả con nữa. Con thì lại càng không thể thoát.’ Tôi đã thấy và biết người da đen từ lâu, từ khi biết nhớ cái này, cái kia. Tôi chỉ nhìn họ giống như tôi nhìn trời mưa, nhìn bàn ghế, hay thức ăn hay giấc ngủ. Nhưng sau chuyện đó, tôi dường như nhìn họ lần đầu tiên không phải như con người, mà như một cái gì, một cái bóng mà trong đó tôi sống, tụi tôi, tức là mọi thứ dân da trắng đó, tức là mọi người đó, sống. Tôi nghĩ đến tất cả những đứa bé luôn luôn ra đời, những đứa bé da trắng, với cái bóng đen này đã chụp lên chúng ngay trước khi chúng bắt đầu thở. Và tôi dường như thấy cái bóng đen này có hình thánh giá. Và có vẻ như những trẻ sơ sinh da trắng đang tranh đấu, ngay cả trước khi thở, để thoát khỏi cái bóng đen này, nó không những ở trên mà còn ở dưới chúng nữa, trải rộng như hai cánh tay của chúng giang ra, như thể chúng bị đóng đinh trên thánh giá. Tôi thấy tất cả những trẻ sơ sinh bé nhỏ trên thế gian này, ngay cả những đứa chưa ra đời, sắp hàng dài với hai cánh tay giang ra trên các cây thánh giá đen. Lúc đó, tôi không thể biết là tôi thấy hay tôi nằm mộng, nhưng cảnh tượng này làm tôi kinh sợ. Tôi khóc vào ban đêm. Rồi cuối cùng tôi nói với cha, cố gắng nói với ông. Tôi muốn nói với ông là tôi phải thoát đi, rời xa từ bên dưới cái bóng này, nếu không thì tôi chết mất. ‘Con không thể thoát đâu,’ ông nói. ‘Con phải đấu tranh, phải đứng lên. Nhưng để đứng lên thì con phải đưa cái bóng lên theo. Nhưng con không bao giờ có thể đưa nó lên ngang hàng với con. Giờ thì cha thấy điều đó, cha đã không thấy trước đó cho tới khi đến đây. Nhưng thoát khỏi nó thì không thể được đâu con. Sự nguyền rủa mà chủng tộc da đen phải chịu, chính là sự nguyền rủa của Chúa đó. Nhưng sự nguyền rủa mà chủng tộc da trắng phải chịu, chính là một người da đen sẽ được Chúa ban cho ân sủng đời đời bởi vì một ngày nọ Ngài đã nguyền rủa hắn.’ ” Cô ngừng nói. Những con đom đóm bay qua, bay lại trước cánh cửa hơi có dạng chữ nhật đang mở. Christmas cuối cùng lên tiếng:
“Tôi đã muốn hỏi cô một chuyện, nhưng bây giờ tôi nghĩ là tự tôi biết câu trả lời rồi.”
Cô vẫn ngồi yên. Giọng cô điềm tĩnh. “Chuyện gì?”
“Tại sao cha cô không giết cái thằng đó - tên nó là gì rồi? Sartoris?”
“Ồ,” cô nói. Rồi lại im lặng như trước. Trước cửa, những con đom đóm bay qua bay lại. “Anh thì... anh sẽ giết ông ta, phải không?”
“Phải,” y nói ngay lập tức. “Không chờ đâu.” Rồi y biết là cô nhìn về phía y, nơi phát ra tiếng nói, như thể cô muốn nhìn y trong bóng tối. Giọng nói cô giờ trở nên gần như dịu dàng. Không khí thì lặng lẽ, bình yên.
“Anh không biết gì về cha mẹ mình phải không?”
Bộ mặt y bất ngờ tối sầm lại, khép kín, nhưng cô không thể thấy. “Không, tôi không biết, trừ chuyện một trong hai người có mang dòng máu da đen. Như tôi đã kể cho cô nghe trước đây.”
Cô vẫn nhìn y. Y biết cô nhìn y qua giọng nói của cô, một giọng nói điềm tĩnh, hơi vô cảm, có vẻ quan tâm nhưng không tò mò. “Làm sao anh biết được điều đó?”
Y không trả lời một lúc khá lâu. Rồi y nói: “Tôi không biết điều đó.” Một lần nữa, tiếng nói bỗng im; cô biết, qua tiếng nói đó, là y quay đầu và nhìn ra cửa. Bộ mặt y thì bất động và buồn bã. Rồi y cử động một chút và lên tiếng lại. Giọng y bây giờ nghe như có thêm một âm bội, không vui nhưng hơi giễu cợt, vừa mỉa mai, vừa nghiêm trọng. “Nếu tôi không phải là da đen thì tôi đã không mất đi quá nhiều thì giờ.”
Giờ thì đến lượt cô có vẻ trầm ngâm, lặng lẽ, gần như không thở nữa, nhưng không có gì là thương thân trách phận hay luyến tiếc quá khứ. “Tôi đã nghĩ đến điều đó. Tại sao cha đã không bắn đại tá Sartoris? Tôi nghĩ đó là vì ông mang dòng máu Pháp trong người.”
“Dòng máu Pháp à?” Christmas nói. “Bộ ngay cả người Pháp cũng không nổi giận khi có thằng đàn ông giết cha mình và con trai mình trong cùng một ngày sao? Tôi nghĩ chắc là cha cô thấm nhuần đạo giáo hay sao đó. Có lẽ ông trở thành người giảng đạo thì cũng hay lắm đó.”
Cô không trả lời trong một lát. Những con đom đóm vẫn bay qua bay lại; đâu đó có tiếng chó sủa, êm dịu, buồn bã và xa xôi. “Tôi thường nghĩ đến điều đó,” cô nói. “Vào thời điểm đó thì mọi sự đã chấm dứt rồi, sự bắn giết với binh phục và cờ xí, và sự bắn giết không binh phục và cờ xí. Tất cả mấy thứ này trước đây đã không và ngày nay cũng không mang lại cái gì tốt đẹp. Thực sự không có gì tốt đẹp cả. Và chúng tôi là những người nước ngoài, những người xa lạ, chúng tôi suy nghĩ khác những người mà đất nước của họ là ngay đây, và chúng tôi đã đến đây sống giữa họ mà không được mời, không được chào đón. Và cha là người Pháp, một nửa đó. Đủ Pháp để tôn trọng tấm lòng yêu thương của bất cứ ai đối với cái đất nước này mà trên đó ông và cha mẹ ông đã sinh ra, và đủ để thấu hiểu là một con người bao giờ cũng phải hành động theo như những gì mà đất nước, nơi họ sinh ra, đã dạy họ hành động. Tôi nghĩ đó là như vậy.”