Chương 12
Chính bằng cách này mà giai đoạn hai bắt đầu. Y tưởng mình như rơi xuống ống cống. Khi nhìn lại quá khứ, y có vẻ như thấy ra một cuộc đời khác, thấy mình nhớ lại sự hàng phục đầu tiên đó, cứng rắn và mạnh bạo, một sự hàng phục kinh khiếp và khắc nghiệt, giống như sự sụp đổ của một cốt cách tinh thần mà những gân cơ của nó khi gãy rắc thì tạo ra một âm thanh hầu như nghe được bằng tai. Và điều này đã làm giảm đi rất nhiều tầm quan trọng của sự hàng phục, tương tự như một tướng lãnh bại trận, ngay trong đêm sau trận chiến cuối cùng, đã cạo râu nhẵn nhụi và chùi sạch đôi ủng vấy bùn khi đánh nhau, để sáng ngày hôm sau đến trao thanh gươm cho kẻ chiến thắng trong nghi thức đầu hàng.
Cống rãnh chỉ chảy trong đêm. Và những ngày đi qua thì trước nay không đổi. Y đi làm lúc sáu giờ rưỡi sáng. Y rời căn lều mà không đưa mắt nhìn về phía ngôi nhà chút nào. Y trở về lúc sáu giờ chiều và vẫn không nhìn đến ngôi nhà. Y tắm rửa, thay quần áo, mặc sơ-mi trắng và quần đen ủi thẳng thớm, rồi y đi lên nhà bếp, bữa ăn tối chờ sẵn y ở bàn, và y ngồi xuống ăn mà vẫn không thấy bóng dáng cô đâu. Nhưng y biết là cô đang ở trong nhà, biết là bóng đêm về giữa những bức tường cũ kỹ sẽ làm đổ vỡ cái gì đó và để mặc nó hư hỏng trong sự đợi chờ. Y biết cô đã làm gì trong ngày; những ngày của cô bây giờ thì cũng không khác gì những ngày trước đó, chúng bao giờ cũng vậy, như thể, cả trong trường hợp cô nữa, có một người nào khác sống những ngày đó. Suốt ngày y hình dung cô làm việc nhà, ngồi trong một khoảng thời gian cố định ở cái bàn giấy cũ nhiều vết sước, hay nói chuyện và lắng nghe những mụ đàn bà da đen; họ đến nhà cô từ cả hai hướng ngược xuôi của con lộ hay từ những con đường mòn mà năm tháng đã tạo ra, và từ nhà cô chúng tỏa ra như những nan hoa của một bánh xe. Họ nói gì với cô thì y không biết, dù y đã thấy họ đi đến ngôi nhà theo một cách không hẳn là bí mật nhưng có chủ tâm; họ thường vào nhà từng người một, tuy thỉnh thoảng vẫn có hai hay ba người vào cùng lúc, trên người mang tạp dề và trên đầu quấn khăn bằng giẻ rách và đôi khi còn có áo khoác đàn ông vắt trên vai, rồi sau đó họ đi ra, trở về trên những con đường mòn tỏa ra từ ngôi nhà, các bước chân thì không vội vã mà cũng không chậm rãi. Y nghĩ đến họ không lâu, rồi nghĩ bây giờ cổ làm chuyện này, bây giờ cổ làm chuyện kia nhưng không nghĩ nhiều về chính cô. Y tin rằng vào ban ngày cô nghĩ về y cũng không nhiều hơn y nghĩ về cô. Ngay cả vào ban đêm, trong căn phòng chìm trong bóng tối của mình, cô khăng khăng kể cho y nghe, với tất cả những chi tiết chán ngắt, các chuyện xảy ra trong ngày của cô, dù nhỏ nhặt nhất, rồi nằn nì đòi đến phiên y kể lại ngày của y, đó là theo kiểu của các tình nhân: sự đòi hỏi cấp thiết và không thể nào thỏa mãn được phải diễn tả ra bằng lời những chi tiết không đáng kể của cả hai ngày mà người này hay người kia không nhất thiết phải nghe. Rồi y ăn xong bữa tối và đi lên gặp cô ở chỗ mà cô đợi. Thường thì y không tỏ ra vội vàng. Với thời gian qua đi, sự mới mẻ của giai đoạn hai này bắt đầu biến mất dần và trở thành một thói quen, có khi y đứng ở cửa nhà bếp và đưa mắt nhìn xuyên qua bóng hoàng hôn và thấy, có lẽ bằng linh tính và dự cảm, con đường hoang dại và cô độc mà y đã tự ý chọn lấy và nó đang chờ y, trong khi nghĩ Cuộc đời mình đâu phải như thế này. Đây có phải là chỗ của mình đâu
Thoạt đầu, điều đó gây sốc nơi y: sự cuồng nộ hèn hạ của con sông băng vùng New England đột ngột bị đặt trước giàn lửa địa ngục trong Kinh thánh của chính vùng New England này. Có lẽ y có ý thức về sự quên mình ở trong nó: sự cấp bách mãnh liệt đòi phải phục tùng này, nó che giấu một nỗi tuyệt vọng có thật sau nhiều năm tình dục không được thỏa mãn và không thể thay đổi được đến nỗi cô hình như tìm cách bù đắp mỗi đêm như thể cô tin đó là đêm cuối cùng trên mặt đất này bằng cách tự đày ải mình vĩnh viễn xuống địa ngục của cha ông cô, bằng cách sống không những trong tội lỗi mà còn trong sự bẩn thỉu. Cô khao khát tìm kiếm những biểu tượng bằng những chữ nghĩa bị cấm đoán, cô thèm nghe cái âm thanh của chúng được phát ra từ đầu lưỡi của Christmas hay của chính cô. Cô bộc lộ một sự tò mò kinh khiếp, lạnh lùng của một đứa bé trước tất cả những vấn đề và tất cả những đối tượng bị ngăn cấm; một sự quan tâm đầy đam mê, không biết mệt mỏi và bình tĩnh của một bác sĩ giải phẫu đối với thân xác và tất cả những khả năng của nó. Và vào ban ngày thì y thấy một người đàn bà khá đứng tuổi, điềm tĩnh, bộ mặt lạnh lùng, dáng vẻ đàn ông, đã từng sống một mình suốt hai mươi năm mà không mang những nỗi lo sợ thông thường của đàn bà chút nào, trong một ngôi nhà trơ trọi trong một khu phố mà một khi có ai đến sinh sống thì đó chỉ là người da đen thôi. Y thấy cô trải qua một khoảng thời gian nào đó mỗi ngày ngồi yên lặng ở bàn giấy, và lặng lẽ viết thư, cho các người trẻ cũng như các người già, gửi đến họ những lời tư vấn cụ thể của một người cùng lúc là thầy tu, chuyên gia ngân hàng và y tá được đào tạo chính qui.
Trong giai đoạn này (không thể gọi là tuần trăng mật được), Christmas nhìn cô trải qua tất cả những hóa thân của một người đàn bà đang yêu. Chẳng mấy chốc cô làm y bị sốc hay có lẽ hơn vậy nữa: cô làm y sửng sốt, cô làm y hoang mang. Cô bắt đầu làm y ngạc nhiên một cách bất ngờ bằng những cơn ghen đầy giận dữ. Cô hẳn có thể tránh được hoàn toàn chuyện đó, bởi vì trong thực tế không có lý do nào cả cũng như không có một đàn bà nào dính dáng với Christmas để mà ghen tuông: y biết là cô biết điều này. Như thể cô cố tình bịa đặt toàn bộ sự việc, với mục đích đóng nó như đóng một vở kịch. Vậy mà cô đóng nó một cách cuồng nộ, một cách tin chắc như đinh đóng cột, và bằng sức thuyết phục cao độ, đến nỗi ngay lần đầu tiên y đã nghĩ là cô bị một ảo giác ám ảnh, và lần thứ ba thì y nghĩ cô phát điên rồi. Cô bộc lộ bản năng của một người có lắm mưu mẹo vừa bất ngờ, vừa hiệu quả. Cô khăng khăng đòi có một chỗ để cô cất giấu thư từ và các tin nhắn khác. Đó là trong một cái cột rỗng ở hàng rào bên dưới cái chuồng ngựa đổ nát. Y không hề thấy cô để vào cái giấy gì ở đó, vậy mà cô cứ nằn nì bảo y đi đến đó mỗi ngày; khi y làm theo thì y như rằng có một lá thư ở đó. Khi không làm theo và nói láo với cô, y mới biết ra là cô đã giăng bẫy để bắt quả tang y nói láo; và cô la hét, cô khóc lóc.
Đôi khi, các tin nhắn bảo y phải chờ tới một giờ nào đó để đến ngôi nhà này mà từ nhiều năm nay không một người da trắng nào, ngoại trừ y, đặt chân vào, nơi mà từ hai mươi năm nay cô ngủ một mình, tất cả mỗi đêm; trong suốt một tuần lễ cô bắt y trèo qua cửa sổ để vào gặp cô. Y đã làm vậy, và thỉnh thoảng y phải đi kiếm cô khắp cả nhà, trong bóng tối, cho tới khi tìm ra cô, khi thì cô trốn trong các tủ quần áo, khi thì trong các căn phòng trống, chờ đợi, thở hổn hển, đôi mắt trong bóng tối sáng rỡ như mắt mèo. Đôi khi, cô hẹn y dưới những bụi cây trong khuôn viên nhà cô, và y tìm thấy cô ở đó, trần truồng hay áo quần rách tơi tả trên người, đang vật vã đến phát rồ vì chứng cuồng dâm đàn bà, thân thể cô ánh lên trong khi cô cử động chậm chạp, liên tiếp tạo ra những điệu bộ và tư thế gợi dục mà chỉ có một Beardsley [92] vào thời Petronius [93] mới có thể vẽ ra. Bao quanh bằng ánh sáng mờ ảo phập phồng không có bức tường nào chặn lại, cô lúc đó lăn lộn dữ dội, tóc tai rối tung, mỗi lọn tóc trông có vẻ sống động như những vòi bạch tuộc, hai bàn tay cuống cuồng, hơi thở hổn hển: “Ôi anh đen! Ôi anh đen! Ôi anh đen!”
Trong vòng sáu tháng cô trở nên bại hoại hoàn toàn. Không thể nói là y đã làm cho cô hư hỏng. Cuộc sống của chính y, với sự chung chạ bừa bãi, không tên, thì khá ước lệ, giống như bất cứ cuộc sống nào, thường mang những tội lỗi lành mạnh và bình thường. Sự sa đọa đến từ một nguồn gốc thậm chí không thể giải thích đối với y hơn là đối với cô. Trên thực tế, dường như chính cô, bằng sự sa đọa mà cô có vẻ thu thập từ trong không khí, đã bắt đầu làm y bại hoại. Y bắt đầu thấy sợ. Y không thể biết mình sợ gì. Nhưng y bắt đầu tự nhìn mình từ một khoảng cách, thấy mình như một người đang bị hút xuống một bãi lầy không đáy. Nhưng y chưa nghĩ ra chính xác như vậy. Cái mà y đang thấy bây giờ là con đường cô độc, hoang dã và mát lạnh. Đúng đó: mát lạnh. Và y nghĩ, đôi khi nói to ra với chính mình, “Tốt hơn mình nên ra đi. Tốt hơn mình nên rời khỏi đây.”
Nhưng có cái gì đó giữ y lại, như một người tin vào số mệnh vẫn có thể bị giữ lại: bởi sự tò mò, sự bi quan hay hoàn toàn do quán tính. Trong khi đó mối quan hệ tình ái vẫn tiếp tục, càng lúc càng nhấn chìm y qua những đêm hoan lạc dữ dội, lúc nào cũng cấp thiết và gây kiệt sức. Có lẽ y hiểu ra là mình không thể trốn thoát. Dù sao đi nữa, y ở lại, quan sát hai con người vật lộn nhau trong cùng một thân thể như hai hình dạng dưới ánh trăng mờ cứ mãi vật lộn, thay phiên nhau lún sâu xuống dưới bề mặt một vũng nước đen đặc dưới ánh trăng hạ tuần. Lần này, đó là cái hình dạng bình tĩnh, lạnh lùng và thận trọng của giai đoạn thứ nhất, dù đã bị thất lạc và đày đọa, nhưng bằng cách này hay cách nọ vẫn trơ trơ và không thể lay chuyển được; rồi lần khác, đó là cái hình dạng kia, của giai đoạn hai, trong sự chối bỏ một cách kịch liệt cái tính cách không thể lay chuyển được đó, cố sức nhấn chìm xuống vực thẳm tối đen do chính mình tạo ra, sự trinh bạch thân xác được giữ gìn quá lâu để mà có thể biến mất được. Thỉnh thoảng, ôm chặt nhau như hai chị em, cả hai hình dạng đó lại trồi lên trên bề mặt đen; và khi đó nước đen rút đi. Rồi thực tại bất chợt xuất hiện lại: căn phòng, những bức tường, âm thanh bình yên của vô số côn trùng bên ngoài cửa sổ vào mùa hè, nơi mà chúng đã kêu rì rào từ bốn mươi năm nay. Và khi đó cô nhìn y chằm chằm với bộ mặt điên dại và tuyệt vọng của một người xa lạ; và y cũng nhìn cô khi đó, tự mình giải thích hơi dài dòng: “Cổ muốn cầu nguyện, nhưng cổ lại không biết làm sao cầu nguyện.”
Cô đã bắt đầu mập ra.
***
Giai đoạn hai này không chấm dứt bằng một cái gì gay gắt, đẩy tới đỉnh điểm như giai đoạn trước. Nó nhập vào giai đoạn ba từ từ đến nỗi y đã không thể phân biệt khi nào cái này chấm dứt và cái kia bắt đầu. Tương tự như khi hè chuyển sang thu, với đợt khí lạnh đầu tiên không tránh được của mùa thu ùa đến trên mùa hè đang tàn, giống như những cái bóng khi mặt trời đi xuống; như hơi nóng của mùa hè đang chết vẫn tuôn ra sang tận mùa thu, như ngọn lửa than đang lụi tàn bất chợt bùng lên. Chuyện này kéo dài đến hai năm. Y vẫn tiếp tục làm việc ở xưởng bào, và cùng lúc y bắt đầu bán một ít rượu uýt-ki, bán một cách có suy xét, tức là chỉ giao dịch giới hạn với vài khách hàng kín đáo và không quen biết lẫn nhau. Cô không biết việc này, tuy y cất giấu kho hàng của y trong khuôn viên nhà cô và gặp các khách hàng trong khu rừng cây nằm bên kia cánh đồng cỏ. Nhưng nếu biết, chắc là cô đã không phản đối. Giống như bà McEachern đã không phản đối khi thấy sợi dây thừng được giấu trong nhà; có lẽ y có cùng một lý do để không nói với cô cũng như không nói với bà McEachern. Khi y nghĩ đến bà McEachern và sợ dây thừng, nghĩ đến cô bồi bàn mà y đã không bao giờ nói ra tiền y cho nàng ta là đến từ đâu, và bây giờ nghĩ đến cô nhân tình hiện nay và rượu uýt-ki, y gần như muốn tin rằng không phải để kiếm tiền mà y bán rượu lậu nhưng bởi vì số phận bắt y phải luôn luôn giấu giếm cái gì đó với những người đàn bà sống xung quanh y. Trong lúc đó, y thỉnh thoảng vẫn thấy cô từ xa, giữa ban ngày, ở phía sau khuôn viên nhà cô. Dưới bộ áo quần sạch sẽ và mộc mạc cô mặc trên người, sự giàu có bại hoại đó chuyển động một cách liền lạc, nhưng một khi bị đụng đến thì sẵn sàng rơi vào tình trạng thối rữa, giống như những thứ gì đó mọc trên đầm lầy; và không một lần nào cô đưa mắt nhìn về phía căn lều hay về phía y. Và khi y nghĩ đến cái nhân cách khác kia, nó có vẻ hiện hữu ở đâu đó trong bóng tối tự nhiên, và theo y, dường như cái mà y thấy bây giờ, giữa ban ngày, là bóng ma của một người nào đó đã bị cô em ruột chỉ sống về đêm giết chết và bây giờ đi lang thang không mục đích trên những nơi chốn ngày xưa yên bình, và bị tước đoạt ngay cả cái khả năng than vãn.
Dĩ nhiên, những cơn cuồng mê ban đầu trong giai đoạn hai thì không thể kéo dài. Thác nước đầu tiên giờ biến đổi thành thủy triều, khi dâng, khi rút. Khi thủy triều lên, cô còn có thể lừa y và lừa cả chính cô. Như thể từ cái dự cảm là cơn triều dâng này giờ đây phải phản ứng, đã sinh ra một sự cuồng mê dữ dội hơn, một sự chối bỏ mãnh liệt, nó đẩy cả hai người vào những cuộc thử nghiệm thân xác vượt quá sự tưởng tượng, lôi kéo họ như thể theo trớn, theo đà, mang họ đi mà không có mục đích hay ý muốn. Cô dường như biết bằng cách này hay cách nọ là thời gian thì ngắn ngủi, là mùa thu gần như ở trên người cô, dù cô không biết ý nghĩa chính xác của mùa thu này. Dường như đó chỉ là bản năng: bản năng thể xác và sự chối bỏ theo bản năng những năm tháng lãng phí đã qua đi. Rồi thủy triều hạ xuống. Khi đó, hai người bị mắc kẹt, như sau một trận gió lạnh [94] đang lụi tàn, trên một bãi biển cạn kiệt vì đầy ứ người, nhìn nhau như người lạ, bằng những con mắt chán nản và trách móc (đôi mắt người đàn ông thì mệt mỏi, đôi mắt người đàn bà thì tuyệt vọng).
Nhưng cái bóng của mùa thu đã trùm lên người cô. Cô bắt đầu nói về chuyện có con, như thể cô cảm thấy, theo bản năng, giờ của sự biện minh hay giờ của sự đền tội đã điểm. Cô nói chuyện này trong những lúc thủy triều xuống. Thoạt tiên, đêm bao giờ cũng bắt đầu bằng thủy triều lên, như thể những giờ phút xa cách ban ngày đã đắp đê ngăn dòng nước đủ để biến nó thành dòng thác, ít ra trong chốc lát. Nhưng sau một lúc, nước chảy quá yếu, không còn đủ cho sự biến đổi này: bây giờ, y đến với cô một cách miễn cưỡng, như một kẻ xa lạ cứ nhìn ra sau lưng. Và như một kẻ xa lạ, y rời cô sau khi ngồi bên cạnh cô trong căn phòng tối, nói về một kẻ xa lạ thứ ba. Y đưa ra lời nhận xét là bây giờ, dường như có mưu tính trước, hai người gặp nhau lúc nào cũng ở trong phòng ngủ, như thể là vợ chồng. Y không còn phải tìm kiếm cô khắp trong nhà. Những đêm mà y phải đi tìm cô, nấp trốn, thở hổn hển và trần truồng trong ngôi nhà chìm trong bóng tối hay giữa những bụi cây trong ngôi vườn bỏ hoang, thì bây giờ đã qua đi mãi mãi như cái cột rỗng bị bỏ quên ở hàng rào phía dưới chuồng ngựa.
Tất cả những thứ đó đã chết rồi: những hoạt cảnh được trình diễn một cách không thể chê vào đâu được, những hoạt cảnh của những lạc thú bí mật và quái dị, và của sự ghen tuông. Tuy vậy, nếu như cô mà biết thì bây giờ cô đã có lý do để ghen. Y đi xa nhà mỗi tuần hay gần như vậy, vì công việc làm ăn, theo lời y nói với cô. Cô không biết là công việc làm ăn kéo y đến Memphis, nơi mà y phản bội cô với những người đàn bà khác, y ăn bánh trả tiền sòng phẳng. Cô không biết chuyện này. Có lẽ trong giai đoạn mà cô đang sống đây, cô hẳn không để mình bị thuyết phục, không nghe những bằng cớ, không buồn để ý tới chuyện gì cả. Bởi vì cô đã có thói quen nằm dài không ngủ gần như suốt đêm, và cô ngủ bù vào buổi chiều. Cô không bị bệnh chút nào. Không phải cơ thể cô có vấn đề. Chưa bao giờ cô thấy khỏe như vậy; cô ăn thấy ngon và ăn rất nhiều, mập lên hơn mười ba ký rưỡi [95] , cô chưa hề nặng đến thế trong đời. Nhưng không phải chuyện này khiến cô thao thức. Nhưng là cái gì đó đến từ bóng tối, từ mặt đất, từ chính mùa hè đang hấp hối: một cái gì đó kinh khủng, có tính đe dọa đối với cô bởi vì bản năng cô báo cho biết là cái đó sẽ không làm hại cô, là nó sẽ chế ngự cô, sẽ phản bội cô hoàn toàn nhưng nó sẽ không làm hại cô; trái lại, là cô sẽ được cứu vớt, là cuộc sống vẫn tiếp diễn giống như trước và ngay cả tốt đẹp hơn, thậm chí ít kinh khiếp hơn. Nhưng điều kinh khiếp là cô không muốn được cứu vớt. “Con chưa sẵn sàng cầu nguyện đâu,” cô nói to một cách thản nhiên, cứng rắn, lặng lẽ, đôi mắt mở to, trong khi ánh trăng tuôn trào qua cửa sổ, làm đầy căn phòng với cái gì đó lạnh lẽo, không thể hủy bỏ được, cái gì đó đầy những hối tiếc không nguôi. “Đừng bắt con phải cầu nguyện lúc này. Chúa ơi, hãy để con bị đày đọa lâu hơn một chút, thêm một chút nữa.” Cô có vẻ nhìn toàn bộ cuộc đời đã qua của mình, và những năm đói khát tình dục đó, như một đường hầm xám xịt mà ở đoạn cuối của nó, xa xăm và không thể thay đổi được, và không phai nhạt như một lời oán trách, bộ ngực trần trụi của cô cách đây ba năm ngắn ngủi đã đau đớn như thể đang hấp hối, vẫn còn trinh và bị đóng đinh vào cây thập tự; “Chưa đâu, Chúa ơi. Chưa đâu, Chúa ơi.”
Vậy là khi y đến với cô, sau những cái ôm hôn thụ động, lạnh lùng, phù hợp với sự xúc động giờ đã thành thói quen trọn vẹn, cô bắt đầu nói về một đứa con. Thoạt đầu, cô nói một cách khách quan, nói về con cái chung chung. Có lẽ đó là sự tinh ranh hoàn toàn theo bản năng của đàn bà và sự ăn nói bóng gió, nhưng cũng có lẽ không phải vậy. Dù sao, chỉ sau một thời gian khá lâu y mới nhận ra, không phải là không bị sốc, là cô bàn thảo chuyện này như một khả năng, một ý tưởng cụ thể. Y trả lời ngay lập tức: Không!
“Tại sao không?” cô nói. Cô nhìn y, hoang mang. Y suy nghĩ nhanh, y nghĩ Cổ muốn mình cưới cổ. Đúng là như vậy. Cũng như mình, cổ không muốn có đứa con nào đâu ‘Đó chỉ là một cái mưu mẹo,’ y nghĩ. ‘Lẽ ra mình phải biết cái mưu này chớ, phải tính trước chớ. Lẽ ra mình phải cuốn gói bỏ đi cách đây một năm rồi chớ.’ Nhưng y không dám nói ra điều này với cô, y sợ cái từ ngữ hôn nhân dưới dạng âm thanh sẽ đến chắn ngang giữa hai người, y nghĩ, ‘Có lẽ cổ đã không nghĩ về chuyện này, và mình lại đi nhét vào đầu cổ cái ý nghĩ này.’ Cô đang quan sát y. “Tại sao không?” cô nói. Và rồi có cái gì đó trong đầu y bật lên như tia chớp Tại sao không? Chuyện này chắc có nghĩa là mày sẽ có sự thanh nhàn, sự an toàn cho tới cuối đời. Mày chắc sẽ không bao giờ lang thang chỗ này, chỗ kia lại lần nữa. Và có lẽ hay hơn cả là mày lấy cổ trong khi nghĩ, ‘Không được. Nếu nhượng bộ bây giờ thì mình sẽ chối bỏ tất cả ba mươi năm mà mình đã sống để làm mình trở thành con người như mình đã chọn.’ Y nói:
“Nếu chúng ta định có con thì lẽ ra, tôi nghĩ, chúng ta đã có một đứa cách đây hai năm.”
“Chúng ta đã không muốn có một đứa hồi đó mà.”
“Chúng ta cũng không muốn có một đứa lúc này,” y nói.
Khi đó là vào tháng chín. Rồi ngay sau ngày Giáng sinh, cô bảo y là cô có thai. Cô chưa kịp nói xong thì y đã tin rằng cô nói láo. Y nhận ra lúc đó là y đã trông chờ cô nói ra điều này từ ba tháng nay. Nhưng khi nhìn thẳng vào mặt cô, y biết là cô không có thai. Y tin rằng cô cũng biết là mình không có thai. Y nghĩ, ‘Có chuyện rồi đây. Cổ sắp sửa nói ra bây giờ: lấy tôi đi. Nhưng ít ra mình vẫn có thể bỏ cái nhà này mà dọt đi trước tiên.’
Nhưng cô không nói. Cô ngồi rất yên lặng trên giường, hai bàn tay đặt trên đùi, khuôn mặt của người miền New England cúi xuống (cô vẫn giữ bộ mặt gái già của mình, dài, xương gò má cao, hơi gầy, trông gần như giống đàn ông, và trái ngược với nó, thân thể béo mập của cô thì trông có vẻ thú vật một cách hào phóng và mềm mại hơn bao giờ hết). Cô nói, giọng hơi trầm ngâm, bình tĩnh, khách quan: “Vậy là trọn vẹn đó chớ. Ngay cả đối với đứa con hoang da đen. Tôi muốn thấy bộ mặt của cha và Calvin khi biết chuyện này. Và nếu anh muốn cuốn gói bỏ chạy thì bây giờ là đúng lúc lắm đấy.” Nhưng dường như cô không nghe tiếng nói của chính mình, không dự định cho những từ ngữ nói ra có một ý nghĩa nào trên thực tế: ngọn lửa bùng cháy cuối cùng đó của mùa hè muộn màng và đang chết mà trên đó mùa thu, hừng đông của cái chết nửa chừng, đã đến một cách bất ngờ. ‘Bây giờ thì mọi sự chấm dứt rồi,’ cô nghĩ một cách thầm lặng; ‘hết thật rồi.’ Ngoại trừ việc chờ đợi thêm một tháng nữa, cho bảo đảm. Những người đàn bà da đen đã dạy cho cô chuyện này, là người ta không thể biết chắc trước hai tháng. Cô phải đợi thêm một tháng, theo dõi cuốn lịch. Cô đánh dấu trên cuốn lịch, để tránh mọi sai lạc; qua cửa sổ phòng ngủ cô nhìn cái tháng đó đi qua. Sương giá bắt đầu xuất hiện, và lá bắt đầu úa vàng. Và cái ngày được đánh dấu trên lịch đó rồi cũng đến và qua đi. Cô tự cho mình thêm một tuần nữa để chắc chắn gấp đôi. Cô không cảm thấy phấn chấn lắm vì cô không thấy ngạc nhiên. “Mình mang thai rồi,” cô nói to, một cách bình thản.
‘Mình sẽ ra đi ngày mai,’ y tự nhủ, cùng ngày hôm đó. ‘Mình sẽ ra đi chủ nhật,’ y nghĩ. ‘Mình đợi lãnh lương tuần này, rồi mình sẽ dọt lẹ.’ Y trông chờ ngày thứ bảy đến, và y bắt đầu nghĩ tới nơi chốn mà y sẽ tới. Y không gặp cô suốt tuần lễ đó. Y mong đợi cô cho tìm y. Khi đi vào hay khi đi ra khỏi căn lều, y thấy mình tránh nhìn về phía ngôi nhà, như y đã làm trong tuần lễ đầu tiên sau khi đặt chân đến đây. Thậm chí y cũng không thấy cô. Thỉnh thoảng y thấy những mụ đàn bà da đen ăn mặc đủ thứ đồ khó tả để chống chọi khí lạnh mùa thu, họ đến và đi theo những con đường mòn, vào trong hay ra khỏi ngôi nhà. Nhưng tất cả chỉ có vậy thôi. Khi ngày thứ bảy đó đến, y lại không đi. ‘Hay hơn cả là mình kiếm thật nhiều tiền trước đã,’ y nghĩ. ‘Nếu cổ không nóng ruột muốn mình cuốn gói đi sớm thì dại gì mà đi bây giờ. Mình sẽ đi thứ bảy tới.’
Y tiếp tục ở lại. Trời vẫn lạnh. Sáng và lạnh. Bây giờ, khi đi ngủ và đắp lên người cái mền bằng vải bông, trong căn lều đầy gió lùa, y lại nghĩ đến cái phòng ngủ trong ngôi nhà với lửa hồng trong lò sưởi, với những tấm mền bông có hoa in nổi và rộng rãi. Chưa bao giờ y cảm thấy muốn thương thân trách phận nhiều như vậy. ‘Ít ra cổ có thể gởi cho mình một cái mền nữa chớ,’ y nghĩ. Y hẳn có thể bỏ tiền ra mua một cái. Nhưng y không mua. Và cô cũng không mua. Y chờ. Y chờ một thời gian mà y cho là lâu lắm. Rồi vào một tối tháng hai, y về nhà và thấy ra một mảnh giấy nhắn tin của cô trên giường. Nó ngắn ngủi, gần như một cái lệnh, bảo y lên nhà ngay tối đó. Y không tỏ ra ngạc nhiên. Theo kinh nghiệm, y biết là do không có sẵn đàn ông nào khác, đàn bà cuối cùng thì cũng quay lại với mình thôi. Và bây giờ y hiểu là y phải ra đi vào ngày hôm sau. ‘Đây chắc chắn là điều mình đã từng đợi đó,’ y nghĩ; ‘Mình chỉ chờ để được minh oan thôi.’ Khi thay áo quần, y cũng cạo râu nữa. Tuy không để ý, y tự làm đẹp cho mình như một chú rể. Y thấy bữa ăn tối dọn sẵn cho y ở nhà bếp, như thường lệ; trong suốt thời gian không gặp cô, y đã không mất đi một bữa nào. Y ăn xong rồi leo lên lầu. Y không tỏ ra vội vàng. ‘Mình và cổ có cả đêm mà,’ y nghĩ. ‘Cổ sẽ tha hồ suy nghĩ đêm mai và đêm mốt nữa khi thấy căn lều đó trống không.’ Cô đang ngồi trước lò sưởi đã đốt. Nhưng cô không quay đầu khi y bước vào phòng. “Mang cái ghế đó tới đây luôn,” cô nói.
Giai đoạn ba bắt đầu như vậy đó. Trong một lúc y thậm chí thấy còn ngạc nhiên hơn hai người kia. Y đã trông đợi một sự vồn vã, một thứ gì như sự xin lỗi ngầm, hay nếu thiếu cái này thì là một sự thuận tình mà y đang chờ cô cầu xin y. Y sẵn sàng đi đến ngay cả mức độ đó. Nhưng sự việc xảy ra là một người đàn bà xa lạ đẩy tay y ra, với sự cương quyết trầm tĩnh của đàn ông, khi cuối cùng bị thúc đẩy bởi một thứ tuyệt vọng đầy bối rối, y tới gần và đưa tay chạm vào cô. “Này,” y nói, “nếu cô có gì để nói với tôi... mình bao giờ cũng trao đổi tốt hơn sau đó mà. Không làm hại tới đứa bé đâu, nếu đó là chuyện cô sợ.”
Cô chặn y lại bằng một từ duy nhất; đây là lần đầu tiên y nhìn thẳng vào mặt cô: y nhìn một bộ mặt lạnh lùng, xa cách và cuồng tín. “Anh có nhận ra,” cô nói, “là anh đang phung phí cuộc đời anh không?” Và y ngồi đó, nhìn cô như hóa đá, như thể y không tin chính tai mình.
Phải một lát sau y mới hiểu ra ý cô. Cô không nhìn y chút nào. Cô ngồi đó, ngắm nhìn ngọn lửa, mặt lạnh, bất động, trầm ngâm, nói chuyện với y như thể y là một kẻ xa lạ, trong khi y nghe, ngạc nhiên, tức tối. Cô muốn y đứng ra phụ trách toàn bộ công việc của cô liên quan đến các trường học da đen - thư từ trao đổi và các buổi viếng thăm thường kỳ. Cô đã lập ra cả một kế hoạch. Cô kể ra cho y một cách chi li trong khi y nghe với sự giận dữ và kinh ngạc sôi sục trong người. Y sẽ đảm nhận mọi việc và cô sẽ làm thư ký và phụ tá cho y: hai người sẽ cùng nhau đi đến các trường học, cùng nhau thăm viếng các gia đình da đen; y nghe, và dù giận dữ đến mấy, y vẫn hiểu rằng kế hoạch này thì thật là điên khùng. Và trong suốt thời gian đó, trước ánh sáng yên bình từ ngọn lửa, khuôn mặt nhìn nghiêng điềm tĩnh của cô trông nghiêm trang và lặng lẽ như một bức chân dung trong khung. Khi rời phòng, y nhớ lại là cô không một lần nào đề cập đến đứa con được trông đợi đó.
Y chưa tin là cô điên. Y nghĩ là vì cô đang mang thai, cũng như y tin là vì lý do này mà cô không cho y chạm đến người cô. Y cố gắng tranh cãi với cô. Nhưng cầm bằng tranh cãi với cái đầu gối: cô chẳng thèm bỏ công bác bỏ các ý kiến của y, chỉ im lặng nghe rồi lại bắt đầu nói với cùng cái giọng đều đều và lạnh lùng, như thể y đã không hề mở miệng. Khi y cuối cùng đứng dậy và đi ra, y thậm chí không biết là cô có nhận ra là y đã biến đi rồi không.
Trong vòng hai tháng sau đó y chỉ gặp lại cô một lần duy nhất. Y vẫn theo lề thói hàng ngày, trừ chuyện là bây giờ y không đến gần ngôi nhà nữa. Y ăn tối dưới phố, giống như ngày xưa khi y mới bắt đầu làm việc ở xưởng bào. Nhưng, vào thời đó y không thấy cần phải nghĩ đến cô vào ban ngày; y hầu như đã không bao giờ nghĩ đến cô. Giờ thì y không thể tránh được. Cô cứ liên tục hiện diện trong đầu óc y đến nỗi y dường như nhìn thấy cô ở đó, trong ngôi nhà, kiên nhẫn, trông đợi, không thể lẩn tránh, và điên rồ. Trong giai đoạn đầu, y thì như một tên đàn ông ở bên ngoài một ngôi nhà mà tuyết phủ đầy sân, tìm cách đi vào trong ngôi nhà đó; trong giai đoạn hai, y ở dưới đáy vực sâu trong bóng tối hoang dại và nóng bỏng; bây giờ y ở giữa một vùng đồng bằng không nhà cửa, ngay cả tuyết, ngay cả gió cũng không có.
Bây giờ y bắt đầu thấy sợ, y là người mà những cảm xúc cho đến nay chỉ là sự ngạc nhiên, sự dự cảm, có lẽ vậy, và sự phó mặc cho số mệnh. Y vừa có một người hợp tác trong việc mua bán uýt-ki: một kẻ xa lạ mang tên Brown đã xuất hiện một ngày đầu xuân ở xưởng bào để tìm việc làm. Y biết tên này là một thằng ngốc, nhưng thoạt đầu y nghĩ, ‘Ít ra hắn cũng có chút ít đầu óc để làm theo lời mình. Hắn sẽ không phải tự mình suy nghĩ gì cả.’ Chỉ sau này y mới tự nhủ: ‘Giờ thì mình biết cái gì biến người ta thành một thằng ngốc, đó là sự thiếu khả năng làm theo ngay cả những lời khuyên tốt đẹp của chính hắn.’ Y nhận Brown bởi vì Brown không phải là người địa phương và tính hắn thì hăng hái, vui vẻ và không theo nguyên tắc đạo đức nào cả, và nhất là y không tỏ ra can đảm lắm. Vì Christmas biết là một khi vào tay một người sáng suốt, một thằng hèn nhát cũng có thể trở thành, trong những giới hạn của chính hắn, khá có ích cho mọi người, trừ hắn ra.
Y chỉ sợ là Brown có thể biết chuyện người đàn bà trong ngôi nhà và làm cái gì đó không thể thay đổi được do cái tính ngu xuẩn không thể đoán trước được của hắn. Y sợ là người đàn bà, dạo này y tránh mặt cô, bỗng nảy ra ý đến tìm y ở căn lều một đêm nào đó. Y chỉ gặp cô một lần từ hồi tháng hai. Đó là khi y tìm gặp cô để nói là Brown sẽ đến ở chung với y trong căn lều. Một ngày chủ nhật. Y gọi cô, và cô đi ra ngoài hàng hiên sau nhà, nơi y đang đứng, và cô im lặng nghe y nói. “Anh đâu cần phải làm vậy,” cô nói. Y không hiểu lúc đó cô muốn nói gì. Chỉ sau này cái ý đó mới lóe lên đầy đủ trong đầu, như một câu được in ra giấy: Cổ nghĩ mình mang hắn về đây là để gạt cổ ra. Cổ tin là mình nghĩ, với sự hiện diện của Brown, cổ sẽ không dám đi xuống căn lều, và sẽ phải để cho mình yên
Vậy là y đặt vào ngay trong đầu y niềm tin, nỗi lo sợ về chuyện cô có thể làm, bằng cách tin rằng chính y đã gợi ý với cô về chuyện này. Y tin là, bởi vì cô đã có ý này, sự có mặt của Brown không những không ngăn chặn cô mà trái lại, còn kích động cô tìm đến căn lều. Vì hơn một tháng nay cô đã không làm gì cả, đã không đi đâu cả, y tin là cô có thể làm bất cứ chuyện gì. Và y bây giờ cũng nằm suốt đêm không chợp mắt. Nhưng y nghĩ, ‘Mình phải làm cái gì đó chớ. Có cái gì đó mà mình cuối cùng sẽ làm đây.’
Vậy là y tìm đủ cách để đánh lừa và tránh né Brown nhằm về đến căn lều trước tiên. Mỗi lần về, y đều mong thấy cô đợi mình ở đó. Khi về đến căn lều và thấy nó trống không thì trong lòng y nổi lên cái gì đó tựa như cơn giận dữ bất lực, trong khi y nghĩ đến sự cấp thiết, sự láo khoét, sự vội vã, y nghĩ đến người đàn bà này, một mình và rảnh rỗi cả ngày trong ngôi nhà, không có gì để làm ngoài việc quyết định có nên phản bội y ngay lập tức hay kéo dài sự tra tấn y lâu hơn chút nữa. Trong hoàn cảnh thông thường thì y đã bất cần nếu Brown có biết được quan hệ của họ hay không. Trong bản chất của mình, y không có cái gì là kín đáo hay hào hoa phong nhã đối với đàn bà. Ấy là vì lý do thực tế và vật chất. Nếu cả thành phố Jefferson biết y là người tình của cô thì y cũng tỏ ra bàng quan. Nhưng y không muốn thiên hạ bắt đầu để mắt đến đời sống riêng tư của y ở nơi chốn này bởi vì rượu uýt-ki lậu mang lại cho y từ ba chục đến bốn chục đô-la mỗi tuần. Đó là một lý do. Một lý do khác là tính kiêu căng. Thà y chết hay bị giết còn hơn là để một người nào khác, một tên đàn ông khác, biết được quan hệ của hai người bây giờ ra sao. Cô không những đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời riêng mình mà còn tìm cách thay đổi cuộc đời y nữa, muốn biến y trở thành cái gì đó ở giữa một ẩn sĩ và một nhà truyền đạo cho dân da đen. Y tin rằng, nếu Brown biết được mặt này của sự việc thì hắn, một cách tất yếu, sẽ biết được mặt kia. Vậy là y nói láo ở xưởng cưa và ba chân bốn cẳng ra về và cuối cùng thì đặt chân đến căn lều, khi y đặt tay lên cửa, nhớ lại trong đầu sự vội vã vừa qua và nghĩ rằng trong chốc lát y sẽ thấy ra là tất cả mấy thứ này thì không cần thiết chút nào, và tuy y không dám bỏ qua sự phòng xa này, y bỗng thấy thù ghét cô thậm tệ cùng với sự bộc phát mãnh liệt của một cơn giận dữ khủng khiếp và bất lực. Rồi, một buổi tối, y mở cửa và thấy một mảnh giấy nhắn tin trên giường.
Y thấy nó ngay khi bước vào, vuông, trắng và hết sức bí hiểm, nằm nổi bật trên cái mền tối tăm. Y thậm chí đứng lại để nghĩ là y tin mình biết tin nhắn đó là gì, nó hứa hẹn cái gì. Y không cảm thấy háo hức; y cảm thấy nhẹ nhõm. ‘Bây giờ thì xong rồi,’ y nghĩ, chưa cầm lên miếng giấy được gấp lại đó. ‘Rồi sẽ bắt đầu lại như trước đây. Không còn nói chuyện về mọi đen và con cái nữa. Cổ đã đổi ý rồi. Cổ đã hiểu là cái ý riêng của cổ đó sẽ không dẫn cô đi tới đâu cả. Cổ bây giờ thấy ra là cái mà cổ muốn, cái mà cổ cần là một thằng đàn ông. Cổ muốn một thằng đàn ông, ban đêm; hắn làm gì ban ngày thì không quan trọng.’ Lẽ ra y phải hiểu lúc đó tại sao y đã không ra đi. Lẽ ra y phải thấy là mảnh giấy vuông, nhỏ, chưa mở ra đó, ràng buộc y cũng chặt như ổ khóa và dây xích. Y không nghĩ đến điều này. Một lần nữa, y chỉ thấy mình ở ngưỡng cửa của lạc thú và hứa hẹn mới mẻ. Nhưng giờ thì sẽ thanh thản hơn. Cả hai sẽ muốn như vậy; vả lại, chính y sẽ có thế thượng phong mà. ‘Mọi chuyện vừa qua thật là ngu ngốc,’ y nghĩ, tay cầm mảnh giấy chưa mở, ‘Thiệt là quá sức ngu ngốc. Cổ vẫn là cổ và mình vẫn là mình. Và bây giờ, ôi, cả mớ chuyện ngu ngốc làm sao!’; và y nghĩ là hai người sẽ cười xòa đêm nay, sau đó, sau này, khi giờ phút nói chuyện thanh thản, cười đùa thanh thản đến, họ sẽ cười mọi chuyện đã qua, cười người này lẫn người kia, cười chính họ.
Y không mở mảnh giấy ra chút nào. Y để nó qua một bên, và vừa huýt gió vừa rửa ráy, cạo râu, thay quần áo. Y chưa kịp xong thì Brown đi vào. “Lạ, lạ, lạ thật,” hắn nói. Christmas không nói gì. Y đang thắt cà vạt trước mảnh gương móc trên tường. Brown đứng lại ngay giữa nhà: một thanh niên cao, rắn chắc trong bộ quần yếm dơ bẩn, với cặp mắt tò mò trên khuôn mặt đẹp trai u ám và mềm yếu. Gần miệng có một cái sẹo nhỏ, trắng như tia nước miếng. Sau một lát, Brown nói: “Trông như mày sắp đi du hí đâu đó.”
“Thật à?” Christmas nói, không quay đầu lại. Y huýt gió một cách đơn điệu nhưng tình cảm: một điệu nhạc cung thứ, rầu rĩ, theo phong cách da đen.
“Tao cho là tao không phải mất công tắm rửa làm gì,” Brown nói, “vì thấy mày gần như sẵn sàng rồi.”
Christmas quay đầu nhìn hắn. “Sẵn sàng cho cái gì?”
“Bộ mày không đi xuống phố sao?”
“Tao có bao giờ nói vậy à?” Christmas nói. Y quay mặt lại trước tấm gương.
“Ồ!” Brown nói. Hắn nhìn gáy Christmas. “Thôi được, mày nói vậy thì tao cho là mày đi có việc riêng”. Hắn nhìn Christmas. “Đêm nay trời lạnh để nằm dài trên mặt đất ướt, không có gì làm đệm ngoài một con nhỏ gầy còm.”
“Bộ không phải vậy sao?” Christmas nói rồi huýt gió, lo lắng nhưng không vội vã. Y quay người lại, với tay lấy cái áo khoác và mặc vào. Brown vẫn nhìn y. Y đi ra cửa. “Gặp lại sáng mai,” y nói. Cánh cửa không đóng lại sau lưng y. Y biết là Brown còn đứng đó nhìn theo. Nhưng y không tìm cách giấu giếm mục đích của mình. Y đi thẳng tới ngôi nhà. ‘Cứ cho nó nhìn,’ y nghĩ. “Cứ cho nó đi theo mình nếu nó muốn.’
Bữa ăn tối đã dọn sẵn trong bếp. Trước khi ngồi xuống, y lấy mảnh giấy nhắn tin chưa mở đó đặt lên bàn, bên cạnh dĩa ăn của mình. Nó không được bỏ trong một phong bì, cũng không được dán lại; nó tự bung ra, như thể mời mọc y để mắt tới. Nhưng y không nhìn. Y bắt đầu ăn. Chậm rãi. Khi ăn gần xong thì bất ngờ y ngẩng đầu lên, nghe ngóng. Rồi y đứng lên, đi về phía cửa mà qua đó y đã đi vào, và như con mèo nhẹ nhàng và êm ru, y bất ngờ giật mạnh cánh cửa. Brown đứng ngay ở ngoài, mặt dán vào cánh cửa, hay chính xác hơn, vào chỗ trước đó của cánh cửa khi nó đóng. Ánh sáng hắt vào mặt hắn. Dưới cái nhìn của Christmas, vẻ mặt cực kỳ tò mò một cách con nít của Brown biến thành vẻ ngạc nhiên. Rồi hắn trấn tĩnh và lùi lại một chút. Giọng nói hắn thì vui vẻ, nhưng nhẹ nhàng, thận trọng, nghe có vẻ thông đồng, như thể hắn đã trao cho Christmas, dù không được yêu cầu và không chờ để biết chuyện gì đang xảy ra, sự liên kết và sự thông cảm của hắn vì lòng trung thành đối với người cộng tác làm ăn hay có lẽ đối với đàn ông, theo nghĩa trừu tượng, như trái ngược với đàn bà. “Lạ, lạ, lạ thật,” hắn nói. “Vậy là đây là chỗ mà chàng mèo đực tìm đến mỗi đêm. Ngay trước cửa nhà tụi mình, nếu có thể nói vậy-”
Không nói không rằng, Christmas đánh hắn. Cú đấm không được ác liệt lắm vì Brown đã lùi lại một cách vui vẻ vô tội vạ, ngay giữa tiếng cười khẩy. Cú đấm cắt ngang lời nói của hắn. Nhảy vọt ra sau, hắn biến khỏi vùng sáng và lẩn vào trong bóng tối nhưng tiếng nói hắn vang ra từ đó, căng thẳng vì lo sợ và ngạc nhiên, nhưng vẫn không to, như thể ngay cả lúc này hắn tránh làm hại đến việc riêng của tên bạn làm ăn: “Mày cả gan đánh tao à!” Giữa hai đứa, hắn to cao hơn: một bộ tịch lóng ngóng đang cố gắng chạy trốn một cách lố bịch, như thể hắn sắp ngã vật xuống đất trong sự tan rã hoàn toàn. Hắn loạng choạng lùi ra sau, trong khi Christmas cứ im lặng, đều đặn bước tới. Tiếng nói của Brown lại vang lên lần nữa, oang oang, hốt hoảng và đầy sự đe dọa giả tạo: “Mày cả gan đánh tao à!” Lần này cú đấm bay vào vai hắn, vì hắn quay người. Hắn bắt đầu chạy. Được một trăm mét thì hắn chạy chậm lại, và ngoái đầu nhìn. Rồi hắn dừng, quay người lại. “Đồ dân Ý nhát gan! Đồ trời đánh thánh vật!” hắn nói, giọng ngập ngừng, lắc đầu ngay tức khắc, như thể tiếng nói của hắn gây ra nhiều tiếng động hơn, gây ồn ào hơn mức hắn muốn. Không có một tiếng gì trong ngôi nhà; cánh cửa nhà bếp đóng lại, chìm lại trong bóng tối. Hắn lên giọng một chút: “Đồ dân Ý nhát gan! Đồ trời đánh thánh vật! Tao sẽ làm mày sáng mắt ra, biết ai đây mà mày chọc giận không.” Không còn tiếng động nào nữa ở bất cứ đâu. Trời thì lạnh. Hắn quay lưng và vừa đi vào căn lều, vừa nói lẩm bẩm với chính mình.
Khi Christmas vào lại nhà bếp, y thậm chí không đưa mắt nhìn cái bàn ăn, nơi đặt mảnh giấy nhắn tin mà y chưa đọc. Y tiếp tục đi qua cái cửa dẫn vào ngôi nhà và đến chân cầu thang. Y bắt đầu bước lên, không tỏ ra vội vã. Y bước lên đều đặn; bây giờ y có thể thấy cánh cửa phòng ngủ mà bên dưới có một tia sáng trên sàn, đến từ ngọn lửa trong lò sưởi. Y tiếp tục bước và đặt bàn tay lên cửa. Rồi y mở nó và đứng sững lại. Cô đang ngồi ở bàn, dưới ngọn đèn. Y thấy cái hình dáng mà y biết, trong chiếc áo đầm đơn giản mà y biết - chiếc áo đầm trông như thể nó được may cho và mặc bởi một người đàn ông cẩu thả. Bên trên, y thấy cái đầu với mái tóc bắt đầu bạc được túm ra đằng sau thành một búi tóc lộn xộn và xấu xí như một cái bướu cây trên một cành to bị bệnh. Rồi cô ngước mắt nhìn lên y, và y thấy cô đeo kính có gọng thép mà y chưa hề thấy trước đó. Tay còn đặt trên nắm cửa, y đứng đó, bất động. Y dường như nghe ra thực sự trong đầu y lời nói Đáng lẽ mày phải đọc cái mảnh giấy nhắn tin đó chớ. Đáng lẽ mày phải đọc mảnh giấy nhắn tin đó chớ trong khi nghĩ, ‘Mình sắp sửa làm cái gì đó. Làm cái gì đó.’
Y vẫn còn nghe lời nói đó trong lúc đứng bên cạnh cái bàn mà trên mặt có nhiều giấy tờ rải rác, và cô không buồn đứng lên, và y nghe những điều quá đáng mà cô nói ra một cách bình thản, bằng cái giọng lạnh lùng và nhẹ nhàng, và miệng y lập lại những từ sau khi cô nói ra trong khi y đưa mắt nhìn xuống các giấy tờ, các tài liệu khó hiểu bị vứt lung tung và các ý tưởng của y thì biến mất một cách êm ái, đầu y trở nên rảnh rang, tự hỏi cái giấy này nghĩa là gì, cái giấy kia nghĩa là gì. “Đến trường học,” miệng y nói.
“Đúng đó,” cô nói. “Họ sẽ nhận anh vào. Trường nào cũng nhận. Vì tôi đó. Anh có thể chọn bất cứ trường nào anh muốn trong số đó. Thậm chí chúng ta không phải trả tiền học.”
“Đến trường học,” miệng y nói. “Một trường dành cho mọi đen. Tôi à!”
“Đúng vậy. Rồi sau đó anh có thể đi Memphis. Anh có thể học luật ở văn phòng của ông Pebbles. Ông ta sẽ dạy luật cho anh. Rồi sau đó anh có thể phụ trách tất cả các vấn đề pháp lý. Tất cả các thứ này, tất cả mà ông ta làm, ông Pebbles đó.”
“Và rồi học luật ở văn phòng một tên luật sư mọi đen,” miệng y nói.
“Đúng vậy. Và sau đó tôi sẽ trao tất cả công chuyện của tôi vào tay anh, tất cả tiền bạc. Tất cả mọi thứ. Để mà khi anh cần tiền cho riêng mình thì anh có thể... anh sẽ biết làm cách nào; các luật sư biết cách làm để mà... Anh sẽ giúp đỡ họ thoát ra khỏi bóng tối và không ai có thể buộc tội hay trách cứ anh đâu, ngay cả khi họ phát hiện ra... ngay cả khi anh không trả lại... nhưng anh có thể trả lại tiền, và không ai sẽ biết được bao giờ.”
“Nhưng một trường học mọi đen, một luật sư mọi đen,” giọng y nói, bình thản, thậm chí không lý sự, chỉ để nhắc lại thôi. Hai người không nhìn nhau. Cô đã không nhìn lên từ khi y vào phòng.
“Anh hãy nói cho họ biết,” cô nói.
“Nói cho tụi mọi đen biết là tôi cũng là mọi đen sao?” Bây giờ cô nhìn y. Bộ mặt cô thì khá bình thản. Đó là bộ mặt của một người đàn bà bây giờ đã già.
“Đúng vậy. Anh sẽ phải làm như vậy. Để khỏi bị bắt đóng tiền học. Vì tôi đó.”
Rồi như thể y đột ngột nói cho cái miệng mình nghe: ‘Mày câm đi. Câm những lời ngớ ngẩn này đi. Hãy để tao nói.’ Y cúi người xuống. Cô không cử động. Mặt họ không cách nhau quá ba tấc: cái mặt này thì lạnh, trắng bệch, cuồng tín, điên rồ, cái mặt kia thì có màu giấy da, môi hếch lên thành cái nhếch mép gầm gừ không thành tiếng và cứng đờ. Y nói nhẹ nhàng: “Cô già rồi. Tôi không hề để ý trước đây. Cô là một bà già. Tóc cô bạc rồi.” Cô đánh y ngay tức khắc, với lòng bàn tay, phần còn lại của người cô thì không động đậy. Cú đánh của cô gây ra một âm đục, trong khi cú đánh của y lập tức theo sau gây ra như một âm vang. Y đánh cô bằng nắm tay, rồi trong khi cơn gió lớn thổi, y kéo mạnh cô lên ra khỏi ghế, giữ cô trước mặt mình, bất động, không một cảm xúc thoáng qua trên bộ mặt thản nhiên của cô, trong khi cơn gió lớn của sự hiểu biết thổi mạnh xuống người y. “Cô đâu có mang thai,” y nói. “Cô có bao giờ mang thai đâu. Cô không có bất cứ vấn đề nào cả, trừ chuyện cô già rồi. Cái già đã xảy đến với cô, cô già đi thật và giờ thì cô không còn ra gì nữa. Đó là tất cả những gì không ổn với cô đó.” Y buông cô ra và đánh cô tiếp. Cô ngã nhào xuống giường, người co lại. Cô nhìn y, và y đấm vào mặt cô lần nữa, và khom người trên cô, y nói với cô những lời mà một thời cô đã rất thích nghe từ lưỡi y, nơi mà cô thường nói là cô có thể thưởng thức ở đó những lời thầm thì tục tĩu, mơn trớn. “Chỉ có vậy thôi. Cô thì xác xơ lắm rồi. Cô chẳng còn ra cái khỉ khô gì nữa. Chỉ có vậy thôi.”
Cô nằm nghiêng trên giường, đầu quay về phía y, và ngước mắt nhìn y, phía trên cái miệng chảy máu của cô. “Có lẽ tốt hơn nếu cả hai chúng ta đều chết,” cô nói.
***
Ngay khi vừa mở cửa y đã có thể thấy mảnh giấy nhắn tin nằm trên mền. Rồi y đến gần, đưa tay lấy và mở nó ra. Bây giờ, y nhớ lại cái cột rỗng ở hàng rào như một cái gì đó mà y đã nghe nói lại, như cái gì đó từng hiện hữu trong kiếp trước mà y đã không hề sống qua. Bởi vì giấy, mực, hình dạng, kích thước đều giống nhau. Các tin nhắn thì đã không bao giờ dài. Giờ thì chúng cũng không dài hơn. Nhưng giờ thì chúng không còn có cái gì có thể gợi lên những lời hứa hẹn ngầm, những lạc thú phong phú và không thể gọi tên. Chúng bây giờ thì ngắn gọn hơn lời khắc trên bia mộ, khô khan hơn mệnh lệnh.
‘Không đi,’ y nghĩ theo sự thôi thúc bản năng đầu tiên của mình. Y tin là y không dám đi. Rồi y hiểu ra là y không dám không đi. Nhưng bây giờ y chẳng thèm thay quần áo nữa. Trong bộ quần yếm đầy dấu vết mồ hôi, y đi xuyên qua bóng hoàng hôn tháng năm và vào trong nhà bếp. Không còn bữa ăn tối dọn sẵn cho y trên bàn nữa. Đôi khi, y nhìn cái bàn khi đi ngang qua và y nghĩ, ‘Trời ơi, có khi nào mình ngồi xuống ăn mà được yên thân?’ Và y không thể nhớ lại.
Y tiếp tục đi vào trong ngôi nhà và bước lên cầu thang. Chưa gì y đã nghe tiếng cô. Nó nghe to hơn khi y lên cao và tới cửa phòng ngủ. Cửa thì đóng và khóa kín. Giọng nói sau cánh cửa nghe đều đặn và đơn điệu. Y không thể phân biệt các từ, chỉ nghe được cái giọng đều đều không dứt. Y không dám thử phân biệt các từ. Y không dám tự nói với mình việc mà cô đang làm. Vậy là y đứng đó, chờ, và sau một lúc tiếng nói ngừng và cô mở cửa và y bước vào. Khi đi qua gần giường, y nhìn xuống sàn và y dường như phân biệt được dấu in của hai đầu gối và y đột ngột quay mắt sang chỗ khác như thể đó là cái chết mà y vừa nhìn.
Thường thì ngọn đèn trong phòng chưa được thắp lên. Họ không ngồi xuống. Họ lại đứng nói chuyện, giống như họ có thói quen làm vậy hai năm trước; đứng trong cảnh tranh sáng tranh tối, giọng cô lập lại câu chuyện: “...không đến trường, nếu anh không muốn đi... anh không thể không cần cái đó... linh hồn anh. Sám hối để...” Lạnh lùng, bất động, y chờ đợi cô chấm dứt: “...địa ngục... mãi mãi, mãi mãi và mãi mãi...”
“Không,” y nói. Và cô cũng bình thản nghe y nói, và y biết là cô không tin chắc và cô biết là y cũng không. Vậy mà, không người nào nhượng bộ; tệ hơn nữa: họ không thể chia tay; thậm chí y không thể bỏ đi nơi khác. Và họ còn đứng đó một lúc nữa trong buổi hoàng hôn an bình mà vô số những bóng ma của tội lỗi và lạc thú, như thể đi ra từ gan ruột họ, thường lui tới; họ nhìn nhau nhưng gương mặt bất động và mờ nhạt của họ thì mệt mỏi, lụi tàn nhưng không nhượng bộ.
Sau đó y rời đi. Và trước khi cửa đóng then cài sau lưng, y nghe cái giọng đó vang lên lần nữa, đều đều, bình thản, và tuyệt vọng, và y không dám biết hay nghi ngờ những gì mà cái giọng đó nói ra, và nói với ai hay với cái gì. Và ba tháng sau, khi ngồi dưới bóng ngôi vườn bỏ hoang vào một đêm tháng tám đó và nghe tiếng chuông từ tòa thị chính cách đó hai dặm gióng lên mười tiếng rồi mười một tiếng, y tin, bằng một sự nghịch lý điềm nhiên, là mình chỉ là một người phục vụ thụ động cho số mệnh mà y tin là y không tin. Y tự nhủ Mình đã bị bắt buộc làm chuyện này đã dùng thì quá khứ khi nói Mình đã bị bắt buộc làm chuyện này. Chính cổ cũng nói vậy mà
Cô đã nói như vậy hai đêm trước. Y tìm thấy mảnh giấy nhắn tin và đến gặp cô. Khi y càng lên cao cầu thang thì cái giọng đều đều đó càng trở nên to hơn, nghe mạnh và rõ hơn thường lệ. Khi đến đầu cầu thang thì y biết tại sao. Cửa thì để mở, lần này, và cô không đứng dậy từ chỗ cô quỳ bên cạnh giường khi y vào. Cô không cử động, tiếng nói không ngừng lại. Đầu cô không cúi xuống. Cô ngửng mặt lên hầu như với sự kiêu hãnh, thái độ nhún nhường trang trọng của cô là một phần của sự kiêu hãnh này, giọng cô thì trầm tĩnh, nhẹ nhàng và cam chịu trong bóng hoàng hôn. Cô có vẻ không biết là y đã vào phòng cho đến khi cô chấm dứt một câu dài. Rồi cô quay đầu. “Quỳ xuống bên cạnh tôi,” cô nói.
“Không,” y nói.
“Quỳ xuống,” cô nói. “Anh thậm chí không cần chính anh nói với Ngài. Chỉ cần quỳ thôi. Chỉ cần làm một bước trước thôi.”
“Không,” y nói. “Tôi đi đây.”
Không cử động, cô quay đầu và ngước mắt nhìn lên y. “Joe này,” cô nói, “Hãy ở lại! Anh hãy vui lòng làm bấy nhiêu đó thôi!”
“Được rồi,” y nói. “Tôi ở lại. Nhưng hãy làm nhanh lên.”
Cô bắt đầu cầu nguyện lại. Cô nói nhẹ nhàng, với sự nhún nhường đầy kiêu hãnh. Khi thấy cần dùng những từ ngữ mang tính biểu tượng mà y đã dạy cho cô, cô dùng chúng, nói chúng ra một cách thẳng thắn, không do dự, nói chuyện với Chúa như thể Ngài là một người đàn ông ở trong phòng cùng với hai người đàn ông khác. Cô nói về mình và về Christmas như hai người xa lạ, giọng cô nhẹ nhàng, đơn điệu và vô giới tính. Rồi cô ngừng lại. Lặng lẽ đứng lên. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng, hai người đứng đối mặt nhau. Lần này, cô cũng không hỏi y gì cả; y cũng không cần trả lời. Sau một lát, cô nói nhẹ nhàng:
“Giờ thì còn một chuyện khác để làm thôi, một chuyện duy nhất.”
“Còn một chuyện khác để làm thôi, một chuyện duy nhất,” y nói.
‘ Vậy là xong xuôi cả rồi, chấm dứt cả rồi,’ y nghĩ thầm, ngồi dưới bóng dày đặc những bụi cây, nghe tiếng chuông cuối cùng của cái đồng hồ từ xa vọng về rồi tắt hẳn. Ngay chỗ này đây, hai năm trước, y đã đến gặp cô, đã tìm ra cô vào một trong những đêm hoang dại, điên cuồng của họ. Nhưng chuyện đó đã thuộc vào một thời đã qua, thuộc vào một cuộc đời khác rồi. Mọi sự giờ thì bất biến, yên bình, mặt đất màu mỡ thở dài một cách lạnh nhạt. Vô số tiếng nói đến làm đầy bóng tối, những tiếng nói của mọi thời kỳ mà y đã biết, như thể toàn bộ quá khứ tạo ra một bức tranh không có nét nổi bật. Và điều đó sẽ tiếp tục: đêm mai, và tất cả những ngày mai, cũng sẽ là một phần của bức tranh đó... tiếp tục. Y suy nghĩ về điều đó với sự ngạc nhiên thầm lặng: tiếp tục... hằng hà sa số... và tất cả có lẽ đều quen thuộc đối với y, bởi vì tất cả những gì đã từng hiện hữu thì cũng giống như tất cả những gì sẽ hiện hữu, bởi vì cái ngày mai sẽ đến và cái ngày mai đã qua thì cũng giống nhau. Đúng vậy, đến lúc rồi đây.
Y đứng lên. Y ra khỏi bóng tối, đi quanh ngôi nhà rồi vào nhà bếp. Ngôi nhà thì tối đen. Từ sáng sớm đến giờ y đã không về lại căn lều nên không biết cô có để một mảnh giấy nhắn tin cho y hay không, cô có trông đợi y hay không. Tuy nhiên, y không cố gắng giữ im lặng chút nào. Như thể y không nghĩ đến chuyện ngủ nghê của người khác, không xem là quan trọng chuyện cô có đang ngủ hay không. Với bước chân chắc nịch, y leo lên cầu thang và đi vào phòng ngủ. Gần như ngay tức khắc, cô lên tiếng từ giường. “Thắp đèn lên!” cô nói.
“Tôi đâu cần ánh sáng,” y nói.
“Thắp đèn lên!”
“Không,” y nói. Y đứng khom người bên trên giường. Tay cầm con dao cạo râu. Nhưng y chưa mở nó ra. Cô không nói gì nữa, rồi y có cảm giác thân thể rời xa mình. Y thấy nó đi đến bên cái bàn, hai tay y đặt con dao cạo lên bàn, và tìm thấy cây đèn và quẹt diêm. Cô ngồi dậy trên giường, lưng tựa vào đầu giường. Trên chiếc áo ngủ cô khoác thêm tấm khăn choàng vai mà cô thắt lại quanh ngực. Hai cánh tay khoanh lại trên tấm khăn và hai bàn tay thì giấu không thấy được. Y đứng tựa vào bàn. Họ nhìn nhau.
“Anh có muốn quỳ xuống bên cạnh tôi không?” cô nói. “Tôi không đòi hỏi anh làm chuyện này.”
“Không,” y nói.
“Tôi không đòi hỏi anh. Không phải là chính tôi đòi hỏi anh. Quỳ xuống bên tôi.”
“Không,”
Hai người nhìn nhau. “Joe này,” cô nói, “lần chót đó nghe. Tôi không đòi hỏi anh làm chuyện này. Nhớ đó. Quỳ xuống bên tôi.”
“Không,” y nói. Rồi y thấy hai cánh tay cô buông ra và bàn tay mặt hiện ra từ dưới tấm khăn choàng vai. Bàn tay đó cầm một khẩu súng lục trái khế [96] kiểu cũ, bắn từng phát một, hầu như dài bằng và nặng hơn một khẩu súng trường nhỏ. Nhưng bóng của nó, của cánh tay và bàn tay cô trên tường không dao động, những cái bóng kỳ quái, và cũng kỳ quái không kém là cái kim hỏa đã kéo về sau [97] , uốn cong như cái móc một cách hằn học trông giống cái đầu con rắn sắp sửa vọt tới; nó không dao động chút nào. Và cặp mắt cô cũng không dao động chút nào, chúng bất động như cái họng tròn, đen của khẩu súng lục; nhưng chúng không phản chiếu một sự căng thẳng hay giận dữ nào. Chúng thì bình thản và lặng lẽ như tất cả lòng thương xót, tất cả nỗi tuyệt vọng và tất cả niềm tin vững chắc. Nhưng y không nhìn chúng. Y đang nhìn cái bóng của khẩu súng trên tường. Y đang còn nhìn thì cái bóng của kim hỏa biến mất nhanh như chớp.
Đứng giữa đường, y giơ bàn tay mặt lên cao, ngay trước ánh