← Quay lại trang sách

Chương 13

Trong vòng mười lăm phút sau khi tên nhà quê phát hiện đám cháy, người ta bắt đầu tụ tập. Một số người trên đường vào thành phố bằng xe la để trải qua ngày thứ bảy trong phố cũng ngừng lại. Một số người khác đi bộ đến từ các khu lân cận. Đây là vùng của những căn lều người da đen, những cánh đồng nứt nẻ và bạc màu, nơi mà cả một tiểu đội thám tử hẳn không thể mò ra đâu cho đủ chục mạng nam phụ lão ấu, vậy mà chỉ trong vòng nửa giờ, cả vùng này thấy xuất hiện, như thể sinh ra từ không khí, hết nhóm người này đến nhóm người nọ, từ một cá nhân đơn lẻ đến cả toàn bộ gia đình đông đúc. Và người ta còn đến từ trong phố nữa chớ, trong những chiếc xe hơi chạy nhanh và kêu be be. Trong số họ có ông cò - một người to mập và giàu có, với cái đầu cứng rắn và lõi đời, với cái bộ dạng nhân từ. Ông đẩy ra xa những người tụ tập đang nhìn xuống cái xác chết nằm trên tấm ra trải giường. Họ lộ ra sự ngạc nhiên bất động giống như con nít mở mắt tròn xoe, giống như người lớn lặng nhìn cái diện mục không thể nào thoát được của riêng mình. Trong số họ có những người Yankee tình cờ đi ngang đó, có những người da trắng nghèo mạt rệp, và có ngay cả những người miền Nam đã từng sống một thời gian ở miền Bắc và nói oang oang cho mọi người nghe ra ý họ, rằng chắc chắn đó là một tội ác da đen mờ ám, không phải do một tên da đen nào đó mà do Người Da Đen ra tay phạm tội, và họ biết, tin, và hy vọng là cô cũng đã bị hãm hiếp nữa: ít nhất là một lần trước khi cô bị cắt cổ và ít nhất là một lần sau đó. Ông cò đến gần, chính ông đưa mắt nhìn một lần và cho mang xác chết đi để không ai còn nhìn cái cảnh tội nghiệp này nữa.

Rồi không còn gì để họ nhìn ngoài cái chỗ mà xác cô đã nằm và đám cháy. Và chẳng bao lâu thì không ai còn nhớ chính xác cái chỗ mà tấm ra giường đã được trải ra, phần đất nào mà nó đã phủ lên, và lúc đó thì chỉ còn đám cháy để nhìn thôi. Vậy là họ nhìn đám cháy, với cùng sự ngạc nhiên bất động và ngốc nghếch mà họ đã mang xuống từ những hang động xưa cũ hôi thối, nơi mà sự nhận thức bắt đầu, như thể, tương tự cái chết, họ chưa bao giờ thấy đám cháy trong đời. Sau một lát, một xe chữa lửa hùng hổ chạy đến, còi huýt chuông reng ầm ĩ. Nó mới toanh, sơn đỏ chói, với đường viền mạ vàng và còi hụ sử dụng bằng tay và một cái chuông màu như vàng có tiếng nghe thanh thoát, tự phụ và hãnh diện. Nó mang theo hai bên hông những tên đàn ông và thanh niên đầu để trần, bám chặt vào nó, coi thường một cách đáng ngạc nhiên các định luật vật lý mà loài ruồi sở hữu. Nó được trang bị một cái thang tự động có thể bung lên tới những độ cao phi thường khi ta đưa tay chạm đến, giống như những cái mũ lò xo của tên làm xiếc; khổ cái là bây giờ không còn gì để cái thang vươn lên. Xe chữa lửa còn có những cuộn ống dẫn nước gọn gàng và mới toanh, khiến ta nghĩ đến những hình ảnh quảng cáo của các hãng điện thoại trong các tạp chí bình dân; nhưng khổ cái là không có gì để mắc chúng vào, và lại không có gì để chảy bên trong. Vậy là những người đàn ông, đầu trần, trước đó đã rời bỏ văn phòng và quầy hàng, bây giờ leo xuống xe, kể cả cái anh chàng lo chuyện bóp còi. Họ cũng đến gần và người ta chỉ cho họ dăm ba chỗ khác nhau mà tấm ra giường đã được trải ở đó, và vài người trong bọn họ, mang sẵn súng lục trong người, bắt đầu tìm ai đó để đóng đinh lên thập giá.

Nhưng không có ai cả. Cô đã sống một cuộc đời bình lặng, chỉ chăm lo công chuyện riêng của mình, đến mức cô để lại cho thành phố, nơi mà cô đã sinh ra, đã sống và đã chết như một người nước ngoài, như một người đến từ một xứ sở khác, một thứ tựa như di sản về sự kinh ngạc và sự xúc phạm mà vì nó họ sẽ không bao giờ tha thứ cho cô, sẽ không bao giờ để cô chết trong an bình và lặng lẽ, mặc dù cuối cùng cô đã cung cấp cho họ một bữa tiệc cảm xúc ở ngoài trời với các món thịt nướng, gần giống như một cuộc truy hoan ở La Mã thời xưa. Không phải vậy đâu. Sự bình yên, ai cho mà có chớ. Vậy là họ tụ tập lại, xô đẩy nhau, họ tin rằng những ngọn lửa, máu huyết, và cái thân thể đã chết ba năm trước và bây giờ vừa bắt đầu sống lần nữa, gào thét đòi trả thù. Họ không biết là sự giận dữ cực kỳ của những ngọn lửa và sự bất động im lìm của cái tử thi chỉ là những sự khẳng định một giới hạn đã đạt tới, nếu vượt quá giới hạn này thì người ta không thể gây ra thương tích hay đau đớn nữa. Không phải vậy đâu. Bởi vì cái ý tưởng kia thì dễ chịu hơn. Dễ chịu hơn những cái kệ và những cái quầy bày đầy những đồ vật quen thuộc từ lâu, chúng được mua không phải vì người chủ ham thích hay ngưỡng mộ chúng, hay ông ta có thú vui sở hữu chúng, nhưng bởi vì ông ta muốn lừa gạt, xúi giục người khác mua chúng để kiếm lời. Và những đồ vật đã không bán được, và những người lẽ ra đã có thể mua chúng nhưng họ đã không mua, vậy là thỉnh thoảng người chủ phải ngắm nhìn chúng, với sự tức giận, có lẽ cảm thấy bị lăng nhục, có lẽ bị tuyệt vọng nữa. Dễ chịu hơn những văn phòng mốc meo, nơi mà những viên luật sư chờ đợi, rình mò giữa những bóng ma của các tính dâm đãng cũ, các lời nói dối cũ. Dễ chịu hơn những phòng khám, nơi các bác sĩ chờ đợi với các con dao bén, với thuốc men đắng ngắt, nói với người bệnh, tin là người bệnh phải tin, không cần viện đến các quảng cáo được in trên báo, là họ làm việc cho một mục đích duy nhất mà một khi đạt được mục đích này thì họ sẽ không còn bất cứ việc gì để làm nữa. Và đàn bà cũng tới nữa, những người rỗi rảnh trong những bộ đồ màu sáng và đôi khi mặc đại cho nhanh, với những ánh nhìn bí mật, đầy đam mê và sáng rỡ, với những bộ ngực bí ẩn và không được thỏa mãn (những người đàn bà này bao giờ cũng yêu cái chết hơn sự yên bình). Và bằng vô số gót giày nhỏ và cứng, họ in dấu sau những lời thầm thì liên tục Ai đã làm chuyện đó? Ai đã làm chuyện đó? các dấu chấm như thế này, có lẽ Nó chưa bị bắt à? A, Chưa à? Chưa à?

Ông cò cũng nhìn chằm chằm những ngọn lửa với sự bực tức và ngạc nhiên, bởi vì không có hiện trường để khám xét. Ông chưa có cảm tưởng là mình đã bị một tác nhân là con người làm cho thất vọng. Tác nhân ở đây là lửa. Theo ông, dường như lửa bốc cháy một cách tự phát, với một mục đích duy nhất: cháy. Theo ông, dường như cái sự việc mà nhờ nó và vì nó mà ông đã có tổ tiên khá lâu đời để chính ông có thể hiện hữu, nó đã liên kết với tội ác. Vậy là ông tiếp tục đi bộ, dáng vẻ bối rối và băn khoăn, quanh cái di tích dửng dưng này, nó mang màu sắc của cả hy vọng lẫn tai ương, cho đến khi một viên cảnh sát đến báo cáo với ông là anh ta vừa khám phá ra một căn lều đằng sau ngôi nhà có dấu vết cho thấy có người ở đó mới đây. Và ngay lập tức, tên nông dân, người đã khám phá ra đám cháy (ông chưa đi vào phố, chiếc xe la của ông đã không tiến tới một tấc từ khi ông bước xuống xe hai tiếng đồng hồ trước đó, và bây giờ ông đi ngược đi xuôi giữa đám người tụ tập đó, tóc tai bờm xờm, vung tay múa chân, bộ mặt thì mang vẻ u ám, kiệt sức, tức giận và giọng nói thì khản đến mức chỉ còn là tiếng thầm thì) nhớ lại là ông đã thấy một người đàn ông trong ngôi nhà khi ông phá cửa vào.

“Một tên da trắng?” ông cò nói.

“Dạ thưa ông, phải. Cứ lăn lộn ở phòng ngoài như thể nó vừa rớt từ trên cầu thang xuống. Tìm cách cản tui đi lên lầu đó chớ. Biểu tui là nó đã lên trển rồi, không có ai ở trển đâu. Và khi tui xuống lại thì nó đã đi đâu mất tiêu rồi.”

Ông cò nhìn quanh mọi người. “Ai đã ở trong căn lều đó?”

“Tôi không biết ai ở đó,” tên phụ tá cho ông cò nói. “Tụi mọi đen, tôi nghĩ vậy. Có thể bả đã cho tụi mọi đen sống trong nhà với bả, theo những gì tôi nghe được. Điều làm tôi ngạc nhiên là không một đứa nào trong đám tụi nó đã xuống tay với bả sớm hơn.”

“Mang một thằng mọi đen tới đây cho tao,” ông cò nói. Tên phụ tá và hai hay ba người nữa dẫn đến một người da đen. “Ai ở trong căn lều đó?” ông cò nói.

“Thưa ông Watt, tui không biết,” tên da đen nói. “Tui có để ý gì đâu. Tui cũng không biết căn lều có người ở.”

“Dẫn nó xuống dưới này,” ông cò nói.

Những người hiếu kỳ giờ tụ tập xung quanh ông cò, tên phụ tá và tên da đen; và gần sát đôi mắt háo hức của họ là những ngọn lửa trống trải chỉ cứ tiếp tục cháy nhưng đã bắt đầu yếu dần và những khuôn mặt thì y hệt nhau. Như thể năm giác quan của tất cả những người này đã giảm xuống chỉ còn một giác quan duy nhất: thị giác, như một sự tôn vinh, và những lời nói trao đổi giữa họ với nhau dường như sinh ra từ gió hay không khí Có phải tên đó không? Có phải tên đã làm chuyện đó không? Ông cò bắt nó rồi. Ông cò đã tóm được nó rồi Ông cò nhìn họ. “Đi chỗ khác đi,” ông nói. “Tất cả mọi người. Đi nhìn lửa cháy đi. Nếu tôi cần giúp, tôi sẽ cho người gọi các bạn. Đi tiếp chỗ khác đi.” Ông quay người và dẫn nhóm người của mình đi xuống căn lều. Sau lưng ông, những người bị ông đuổi đi lại tụ tập và đứng nhìn ba người da trắng và một người da đen đi vào căn lều và đóng cửa lại. Sau lưng họ, những ngọn lửa đang lụi tàn lại bùng lên từng lúc, làm đầy không khí một tin đồn cũng ầm ĩ như những tiếng nói nhưng có nguồn gốc rõ ràng hơn Trời ơi, nếu là nó thật, chúng ta đang làm gì ở đây? Đứng đây à? Giết chết một người đàn bà da trắng cái thằng mọi đen chó đẻ Không ai trong bọn họ đã từng vào ngôi nhà. Khi cô còn sống, họ đã không cho phép vợ họ thăm viếng cô. Khi họ trẻ hơn, khi còn con nít (và những người cha của một số người trong bọn họ cũng đã làm chuyện này), họ gọi cô một cách thô bạo khi thấy cô ngoài đường, “Mụ mê mọi đen! Mụ mê mọi đen!”

Trong căn lều, ông cò ngồi xuống một cách nặng nề trên một trong hai chiếc giường. Ông thở dài: giống như cái thùng, ông có cái tính chậm chạp trọn vẹn và nặng nề như tảng đá của một cái thùng. “Bây giờ, tao muốn biết ai ở trong căn lều này,” ông nói.

“Tui đã nói với ông tui không biết,” tên da đen nói. Giọng hắn thì có chút gì cáu kỉnh nhưng cảnh giác, cảnh giác một cách kín đáo. Hắn quan sát ông cò. Hai người đàn ông da trắng thì đứng sau lưng hắn nên hắn không thể thấy họ. Hắn không quay người nhìn ra sau, dù chỉ liếc mắt. Hắn đang quan sát bộ mặt ông cò như người ta quan sát tấm gương. Và giống như trong tấm gương, có lẽ hắn thấy nó trước khi nó đến. Có lẽ hắn không thấy nó, vì nếu có một sự thay đổi, một cảm xúc thoáng qua, trên gương mặt ông cò thì đó cũng chỉ là một cảm xúc thoáng qua mà thôi. Nhưng tên da đen không nhìn ra sau. Khi chiếc dây da quất lên lưng hắn, chỉ có mặt hắn co rúm lại, một sự rùng mình đột ngột, đau nhói, lẹ làng làm co giật khóe miệng và làm lộ ra trong một khoảnh khắc những cái răng, giống như khi mỉm cười. Rồi bộ mặt hắn giãn ra, trở lại khó hiểu như trước.

“Tao cho là mày không chịu ra sức nhớ lại đó thôi,” ông cò nói.

“Tui không thể nhớ được vì tui không thể biết,” tên da đen nói. “Tui thậm chí không ở gần đây. Các ông da trắng này, các ông chắc phải biết tui ở đâu chớ.”

“Ông Buford đây nói mày ở ngay phía dưới con lộ đằng kia đó,” ông cò nói.

“Rất nhiều người ở con lộ đó. Ông Buford chắc phải biết tui ở đâu.”

“Thằng này nói láo đó,” tên phụ tá nói. Anh ta tên Buford. Anh ta là người sử dụng cái nịt da như cái roi bằng cách cầm nó ở đầu ngược với cái khóa. Anh ta giữ nó sẵn sàng, mắt nhìn chăm chăm mặt ông cò. Anh ta trông giống như một con chó tai cụp [98] đang chờ người ta ra lệnh nhảy xuống nước.

“Có lẽ vậy, có lẽ không phải vậy,” ông cò nói. Ông vừa nhìn tên da đen, vừa nghĩ ngợi. Ông ngồi im, cả thân hình mập bự, ù lì, đè lún các lò xo của cái giường dã chiến. “Tao nghĩ nó chưa hiểu là tao không nói giỡn. Đó là không kể đám người ngoài kia không có nhà tù để giam nó, nếu có chuyện gì xảy ra mà nó không thích lắm. Tống nó vào tù thì có lẽ là không làm phiền ai cả, nếu bọn kia có nhà tù.” Có lẽ có thêm một biểu hiện, một hiệu lệnh trong mắt ông; có lẽ không. Có lẽ tên da đen thấy nó; có lẽ không. Chiếc dây da lại quất mạnh, cái khóa nịt rạch lưng tên da đen. “Mày nhớ lại chưa?” ông cò nói.

“Đó là hai người đàn ông da trắng,” tên da đen nói. Giọng hắn thì lạnh, không rầu rĩ, không gì cả. “Tui không biết họ là ai cũng như không biết họ làm gì. Đâu phải việc của tui. Tui chưa bao giờ tìm gặp họ. Tui chỉ nghe nói là có hai đàn ông da trắng sống ở đây. Tui đâu có quan tâm họ là ai. Tui chỉ biết tất cả vậy thôi. Ông có thể quất tui đến đổ máu. Nhưng tui chỉ biết tất cả vậy thôi.”

Ông cò lại thở dài. “Thôi đủ rồi. Tao cho là nó nói thiệt.”

“Đó là cái thằng có tên là Christmas, nó làm ở xưởng bào trước đây, và một thằng khác tên là Brown,” một người thứ ba nói. “Ông có thể chọn ra bất cứ người đàn ông nào ở Jefferson mà hơi thở có mùi bình thường thì ông ta hẳn có thể nói với ông chừng này chuyện thôi.”

“Tao cho là chuyện này cũng đúng đó,” ông cò nói.

Ông quay lại phố. Khi đám đông nhận ra là ông cò đang bỏ đi, họ cũng ùn ùn kéo nhau rời bỏ hiện trường. Như thể lúc này không còn gì để nhìn nữa. Xác chết đã được mang đi chỗ khác, và bây giờ ông cò bỏ về. Như thể ông mang bên trong ông, đâu đó bên trong cái khối thịt ù lì và hay rên rĩ này, chính cái điều bí mật của sự kiện: cái điều đã làm họ xúc động và đem lại cho họ một lời hứa về cái gì đó vượt qua sự bẩn thỉu của bao tử đầy ứ và những ngày tháng đơn điệu, tẻ nhạt của họ. Vậy là không còn gì để nhìn lúc này, trừ ngọn lửa đang cháy; họ đã nhìn nó cả ba tiếng đồng hồ rồi và giờ thì họ quen mắt với nó, ngay cả quen thuộc với nó. Cuộc hỏa hoạn giờ đã trở thành một phần thường trực của những trải nghiệm cũng như của cuộc đời họ, trong khi họ đứng phía dưới cột khói bất động, cao hơn và cũng kiên cố như một đài kỷ niệm mà người ta có thể trở lại thăm viếng bất cứ khi nào. Vậy là khi đoàn xe lũ lượt về đến trung tâm thành phố thì trông họ có cái gì đó như sự long trọng kiêu căng của một đám ma đi sau xe tang, chiếc xe hơi của ông cò dẫn đầu, những chiếc xe khác còi kêu inh ỏi, tiếng máy ro ro, chạy theo sau xe ông cò, bụi đường xe này hòa lẫn với xe kia. Đến một ngã tư gần quảng trường thì đoàn xe bị chặn lại một lát bởi một chiếc xe la nhà quê đang ngừng lại để cho một người xuống. Đưa mắt nhìn ra, ông cò thấy một người đàn bà trẻ chậm chạp và thận trọng leo xuống xe, với sự vụng về dè dặt của một người bụng mang dạ chửa mà ngày sinh đẻ không còn xa. Rồi chiếc xe la tấp vào bên đường; đoàn xe đi tiếp, băng qua quảng trường, nơi mà một viên thủ quỹ của ngân hàng đã lấy ra sẵn từ hầm két một bì thư mà người đàn bà vừa tử vong đã giao cho ngân hàng giữ trước đây, nó mang hàng chữ Mở ra khi tôi chết. Joanna Burden Khi ông cò bước vào văn phòng của mình thì viên thủ quỹ đang chờ sẵn ở đó, tay cầm cái bì thư và nội dung của nó. Đó là một tờ giấy duy nhất trên đó cùng một bàn tay đã viết trên bì thư, viết Báo tin cho luật sư E.E. Peebles, - đường Beale, Memphis, bang Tennessee, và Nathaniel Burrington, - St.Exeter, bang New Hampshire. Vỏn vẹn chỉ có vậy.

“Tên Pebbles này là một thằng luật sư mọi đen,” viên thủ quỹ nói.

“Thật vậy à?” ông cò nói.

“Dạ thật. Ông muốn tôi làm gì đây?”

“Tôi nghĩ là ông nên làm theo lời ghi trên tờ giấy đó,” ông cò nói. “Hay tốt hơn chính tôi làm chuyện này.” Ông gởi hai điện tín. Chưa đầy ba mươi phút sau, ông nhận được câu trả lời từ Memphis. Hai tiếng đồng hồ sau, câu trả lời kia đến tay ông. Và trong vòng mười phút sau đó, tiếng đồn lan ra khắp thành phố là người cháu của cô Burden ở New Hampshire hứa thưởng một ngàn đô-la cho ai bắt được kẻ sát nhân. Vào lúc chín giờ tối, một tên đàn ông xuất hiện. Đó là người mà ông nông dân đã chạm mặt trong ngôi nhà đang cháy khi ông phá cửa để vào. Lúc đó, người ta chưa biết hắn là người đó, vì hắn không nói ra với họ. Người ta chỉ biết một điều, hắn đến ở thành phố này chưa lâu, và họ biết hắn là một thằng bán rượu lậu mang tên Brown - vả lại, nó làm khá tồi trong nghề này. Hắn xuất hiện ở quảng trường trong tình trạng phấn khích cực độ, tìm gặp ông cò. Rồi các sự kiện được xâu chuỗi lại. Ông cò biết là Brown ít nhiều đã chung tay làm ăn với một tay khác, một kẻ xa lạ mang tên Christmas mà người ta biết y còn ít hơn biết Brown, dù y sống ở Jefferson cả ba năm nay. Và chỉ đến lúc này ông cò mới biết là Christmas đã trú ngụ ở căn lều nằm sau ngôi nhà của cô Burden từ ba năm nay. Brown muốn khai báo; hắn nằn nì một cách ầm ĩ để được nói, và người ta thấy ngay tức khắc là hắn thèm chảy nước miếng một ngàn đô-la tiền thưởng đó.

“Mày muốn đứng ra làm chứng chống lại cái thằng bị buộc tội đó trước tòa không?” ông cò hỏi hắn.

“Tôi không muốn làm chứng chống lại ai cả,” Brown nói, giọng khàn khàn khó nghe, vẻ mặt nhớn nhác. “Tôi biết ai làm chuyện đó và khi nào nhận tiền thưởng thì tôi sẽ nói.”

“Mày tóm được cái thằng đã làm chuyện đó rồi mày sẽ lãnh tiền thưởng,” ông cò nói. Vậy là họ đưa Brown vào nhà tù để bảo đảm an ninh cho hắn. “Nhưng tao thấy việc này không thực sự cần thiết cho lắm,” ông cò nói. “Tao nghĩ là chừng nào nó còn ngửi được một ngàn đô-la đó đâu đây thì tụi mày không thể đuổi nó đi chỗ khác chơi được đâu.” Khi Brown bị dẫn đi, giọng vẫn còn khàn khàn, vẫn vung tay múa chân giận dữ thì ông cò điện thoại cho thành phố lân cận, nơi có một cặp chó cảnh sát. Chúng sẽ đến sáng hôm sau bằng chuyến tàu sớm.

Vào buổi hừng đông ảm đạm của ngày chủ nhật đó, trên sân ga buồn tẻ, ba hay bốn chục người đàn ông đang đứng chờ thì tàu đến, các cửa sổ thắp sáng đi ngang qua rồi ngừng lại một vài phút trong tiếng động ầm ĩ. Nó là tàu nhanh, không phải lúc nào cũng ngừng lại ở Jefferson. Nó chỉ ngừng tạm đủ thì giờ cho hai con chó xuống: một ngàn tấn kim loại tốn kém, phức tạp một cách lạ kỳ, sáng bóng, kêu cót két, và trong sự im lặng gần như gây sốc, đầy những tiếng động yếu ớt của con người, nó nhả ra hai cái bóng ma hốc hác và sợ hãi mà hai cái mặt dịu dàng với đôi tai cụp xuống của chúng thì nhìn chằm chằm một cách hèn hạ và buồn bã những bộ mặt mệt mỏi, tái xanh của những người đàn ông; họ đã không ngủ được bao nhiêu từ hai đêm nay, và họ vây quanh chúng bằng cái gì đó kinh khiếp, hăm hở và bất lực. Như thể sự xúc phạm ban đầu của vụ án mạng đã kéo theo sau nó và làm cho tất cả những hành động tiếp theo thành cái gì đó quái dị, nghịch lý và bậy bạ, trái ngược với cả lý trí lẫn tự nhiên.

Mặt trời vừa lên thì lực lượng cảnh sát vừa đến căn lều đằng sau ngôi nhà, giờ chỉ còn là một đống tro than nguội lạnh. Hai con chó, trở nên can đảm hoặc nhờ ánh nắng và sự ấm áp của mặt trời hoặc nhờ sự phấn khích căng thẳng của đoàn người truyền sang, bắt đầu nhảy chồm tới và sủa ăng ẳng xung quanh căn lều. Chúng sụt sịt mũi nghe thành tiếng, và khi được lệnh, chúng bắt đầu chạy, kéo theo người giữ dây dắt. Chúng chạy bên nhau được gần trăm thước thì ngừng lại và bắt đầu cào đất một cách hung dữ, làm lộ ra một cái hố nhỏ mà ai đó mới đây đã chôn những lon đồ hộp đã ăn xong. Họ phải dùng sức để kéo hai con chó đi xa căn lều một chút và để chúng săn tìm lần nữa. Trong một lúc, chúng chạy lăng xăng, gầm gừ, rồi vọt chạy hết tốc lực trở lại căn lều, lưỡi thè ra ngoài, rớt dãi, buộc những người cầm dây dắt phải chạy nhanh theo, miệng lầm bầm chửi thề. Rồi trước cánh cửa để mở, mắt đảo quanh, hai chân trước dựng đứng, đầu ngửa ra sau, chúng sủa vang trời, một cách say mê như hai ca sĩ giọng nam trung hát nhạc kịch Ý. Họ đem hai con chó về phố lại bằng xe hơi và cho chúng ăn. Khi họ đi ngang quảng trường, chuông nhà thờ đang đổ, chậm rãi và yên bình, và trên đường phố những người dáng bộ đường hoàng đi lại một cách khoan thai, tay này cầm dù đã giương ra, tay kia cầm cuốn Kinh thánh hay các sách kinh cầu nguyện khác.

Đêm đó một thanh niên, một nông dân trẻ, và cha hắn đến gặp ông cò. Tên thanh niên kể rằng trên đường về nhà bằng xe hơi khuya thứ sáu, hắn bị một tên đàn ông với khẩu súng lục chặn lại, cách nơi xảy ra vụ giết người một hay hai dặm. Hắn nghĩ rằng mình sắp sửa bị cướp, thậm chí bị giết, và hắn kể là hắn có ý lừa y bằng cách thuyết phục y để mình lái xe đến tận sân trước nhà mình, nơi mà hắn sẽ ngừng xe và nhảy ra ngoài la hét cầu cứu, nhưng tên đàn ông nghi ngờ cái gì đó, buộc hắn ngừng xe để y xuống. Người cha tỏ ý muốn biết họ sẽ lãnh được bao nhiêu tiền trong số một ngàn đô-la đó.

“Trước tiên ông hãy tóm được y đã rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau,” ông cò nói. Vậy là họ đánh thức hai con chó và dắt chúng lên một chiếc xe khác, và tên thanh niên chỉ cho họ chỗ mà tên đàn ông kia đã xuống. Họ thả chó ra để sục sạo, và ngay lập tức chúng chạy thẳng vào khu rừng cây ven đường, và với khả năng đánh hơi không sai vào đâu được đối với đồ kim loại dưới mọi hình dạng, chúng tìm ra được khẩu súng lục với hai viên đạn trong ổ hầu như ngay tức khắc.

“Nó là một trong những khẩu súng lục trái khế cũ kỹ của thời Nội chiến,” tên phụ tá cho ông cò nói. “Đạn đã bị kim hỏa mổ xuống nhưng nó bị kẹt lại, không bắn ra được. Bộ ông nghĩ y làm được cái gì với cái thứ súng này?”

“Thả chó ra,” ông cò nói. “Có lẽ mấy cái dây dắt cản trở chúng.” Họ làm theo. Hai con chó giờ được tự do; nửa giờ sau, chúng biến mất tiêu. Không phải những tên cảnh sát bị mất chó mà chó bị mất họ. Chúng đang ở bên kia con suối nhỏ, phía sau một dốc đứng, và họ có thể nghe chúng rõ ràng. Giờ thì chúng không sủa nữa, vì kiêu hãnh và tự tin, và có lẽ vì vui thú. Nhưng chúng phát ra tiếng kêu rền rĩ kéo dài và tuyệt vọng, trong khi họ cũng không ngừng la hét về phía chúng. Nhưng chắc là hai con vật này không thể nghe họ. Hai giọng của chúng thì có thể phân biệt được, nhưng tiếng kêu hèn hạ, rền rĩ như tiếng chuông thì có vẻ phát ra từ một cuống họng duy nhất, như thể hai con vật đó thu mình nằm sát sườn bên nhau. Sau một lúc, họ tìm thấy chúng nằm y như vậy, trong một cái hố. Lúc đó, giọng nói của họ nghe gần như giọng của trẻ con. Họ ngồi xổm ở đó cho đến khi trời vừa đủ sáng để tìm đường trở lại chỗ họ đậu xe. Giờ đã là sáng thứ hai rồi.

Thứ hai, nhiệt độ bắt đầu tăng lên. Thứ ba, đêm mang bóng tối đến sau một ngày nóng gắt, nhưng oi bức, bất động, ngột ngạt. Vừa mới đặt chân vào nhà Byron đã cảm thấy các góc lỗ mũi mình trắng ra và căng ra khi đụng phải cái mùi mốc meo nặng nề của căn nhà không được bảo quản tốt cho lắm bởi một người đàn ông. Và khi Hightower đến gần, mùi của da thịt béo mập tắm rửa không đủ và của áo quần cũ mèm - cái mùi của sự ngồi một chỗ quá dễ dãi, của da thịt dư thừa thiếu vận động và ít khi tắm - thì quá nồng nặc đối với anh. Vừa đi vào, Byron vừa nghĩ, như anh từng nghĩ trước đây: ‘Đó là quyền của ổng. Đó không phải là lối sống của mình, nhưng là lối sống của ổng, và là quyền của ổng mà.’ Và anh nhớ lại có một lần anh dường như đã tìm được câu trả lời, như thể nhờ sự ngẫu hứng hay bói toán: ‘Đó là mùi của tính thiện. Dĩ nhiên, đối với những người xấu xa và tội lỗi như chúng ta thì nó có mùi hôi.’

Hai người lại ngồi đối diện nhau trong phòng làm việc, cái bàn giấy và cây đèn thắp sáng ở giữa họ. Một lần nữa Byron ngồi trên cái ghế không lót nệm, mặt cúi xuống, người bất động. Giọng nói anh nghe dịu dàng, và bướng bỉnh: giọng của một người đàn ông nói cái gì đó không những gây khó chịu mà còn không tin được. “Tôi định tìm một chỗ khác cho cổ. Một chỗ kín đáo hơn cho cổ. Một chỗ mà cổ có thể...”

Hightower quan sát gương mặt cúi xuống của Byron. “Tại sao cổ phải đi chỗ khác? Khi mà cổ được thoải mái ở đó, với một người đàn bà bên cạnh khi cần thiết?” Byron không trả lời. Anh vẫn ngồi bất động, nhìn xuống đất; mặt anh mang vẻ bướng bỉnh, không đổi sắc. Vừa nhìn mặt Byron, Hightower vừa nghĩ, ‘Đó là vì có biết bao nhiêu chuyện xảy ra. Có quá nhiều chuyện xảy ra. Đúng là như vậy. Con người thực hiện, làm phát sinh ra quá nhiều chuyện hơn là nó có thể hay có lẽ phải chịu đựng. Nhờ vậy mà nó nhận thấy là nó có thể chịu đựng bất cứ chuyện gì. Đúng vậy. Và vì vậy đây mới là điều khủng khiếp: nó có thể chịu đựng bất cứ chuyện gì, bất cứ chuyện gì.’ Ông quan sát Byron. “Có phải bà Beard là lý do duy nhất khiến cổ sắp đi ở chỗ khác không?”

Byron vẫn không ngẩng đầu lên, và vẫn nói với cái giọng bình thản, bướng bỉnh: “Cổ cần một chỗ mà cổ cảm thấy hơi giống như ở nhà mình. Cổ không còn nhiều thì giờ nữa đâu, và trong một nhà trọ mà phần lớn khách trọ chỉ toàn là đàn ông... Một căn phòng mà cổ sẽ được yên tĩnh khi thời điểm sinh nở đến, chứ không phải cái hành lang mà những tên lái ngựa hay mấy người bồi thẩm ở tòa án thường qua lại...”

“Tôi hiểu,” Hightower nói. Ông nhìn bộ mặt của Byron. “Và bạn muốn tôi nhận cổ vào đây ở?” Byron muốn nói nhưng người kia tiếp tục, giọng lạnh lùng, đều đều: “Không thể được đâu, Byron à. Giá như có một người đàn bà nào khác tại đây, sống trong nhà này thì... Thật đáng tiếc, tất cả các căn phòng bỏ trống ở đây, lại yên tĩnh nữa. Tôi nghĩ cho cổ đó, bạn hiểu không. Chớ không cho tôi. Và người ta có nói gì, có nghĩ gì thì mặc kệ họ.”

“Tôi có yêu cầu chuyện này hồi nào đâu.” Byron không ngước mắt nhìn lên. Anh có thể cảm thấy là người kia đang nhìn anh. Anh nghĩ Ổng biết tỏng là mình đâu có ý nói đến chuyện này. Ổng biết chớ. Ổng chỉ nói ra chuyện này như vậy đó. Mình biết ổng đang nghĩ gì. Mình cho là mình trông đợi ổng làm vậy. Mình cho là ổng chẳng có lý do gì để mà nghĩ khác những người khác, ngay cả chuyện liên quan đến mình “Tôi cho là ông phải biết điều tôi vừa nói ra.” Có lẽ ông thực sự biết. Nhưng Byron không ngước mắt lên để nhìn. Đầu vẫn cúi thấp, anh tiếp tục nói, giọng đục, đều đều, trong khi bên kia bàn, Hightower, ngồi thẳng lưng hơn một chút trong ghế bành, nhìn khuôn mặt gầy còm, mệt mỏi vì việc làm nặng nhọc, sạm lại vì nắng gió, của người đàn ông đối diện ông. “Tôi không muốn ông dính líu gì đến chuyện này. Dù sao, đó không phải là chuyện của ông. Thậm chí ông cũng chưa gặp cổ, và tôi nghĩ là ông sẽ không bao giờ gặp. Và tôi cho là ông cũng chưa hề gặp tên kia, cái tên Brown đó. Tôi chỉ nghĩ có lẽ...” Giọng anh ngừng lại. Bên kia bàn, ông mục sư cứng rắn vẫn nhìn anh, chờ, không tỏ ý giúp anh. “Khi vấn đề là không làm gì hết, tôi cho là một người có thể tự tin đi theo lời khuyên do chính mình đưa ra. Nhưng khi vấn đề là làm cái gì đó, tôi cho là người đó tốt hơn nên lắng nghe mọi lời khuyên mà mình có thể nhận được. Nhưng tôi không muốn làm ông dính líu vào chuyện này. Tôi không muốn ông bận tâm về nó.”

“Tôi nghĩ tôi biết mà,” Hightower nói. Ông quan sát khuôn mặt cúi xuống của người kia. ‘Mình không còn thuộc về thế gian này nữa,’ ông nghĩ. ‘Vì vậy mà thật là vô ích nếu mình cố sức xen vào, can thiệp vào. Anh ta có lẽ không nghe mình nhiều hơn tên đàn ông và người đàn bà kia (à, còn đứa bé đó nữa chứ) nghe hay chú ý đến mình, nếu mình tìm cách trở lại thế gian này.’ “Nhưng bạn nói với tôi là cổ biết hắn ở đây mà.”

“Đúng vậy,” Byron nói, trầm ngâm. “Ngoài kia, ở xưởng bào, nơi mà tôi những tưởng là mình không thể có cơ hội gây hại cho bất cứ ai, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Và cổ đến đó chưa được bao lâu mà tôi đã khai ra với cổ mọi chuyện trước khi đi về nhà!”

“Tôi không có ý nói vậy. Chính bạn, vào lúc đó, đã không biết, tôi muốn nói, phần còn lại của chuyện này. Về hắn và chuyện - cái chuyện... Ba ngày rồi. Cổ phải biết chuyện này, dù bạn nói ra với cổ hay không. Giờ thì cổ chắc chắn đã nghe kể lại rồi.”

“Và tên Christmas?” Byron không nhìn lên. “Tôi đã không nói gì thêm, sau khi cổ hỏi về cái sẹo trắng nhỏ bên khóe miệng hắn. Trong thời gian tôi dẫn cổ xuống phố tối hôm đó, tôi cứ sợ miết trong bụng là cổ sẽ hỏi tôi. Tôi cố gắng moi óc tìm ra cái gì đó để kể với cổ hầu ngăn cản cổ hỏi thêm nữa. Tôi cứ muốn ngăn cổ khám phá ra rằng không những hắn đã bỏ trốn, để mặc cổ bị rắc rối, mà còn thay đổi tên họ để cổ không thể tìm ra hắn, và bây giờ thì cổ đã biết là, khi cuối cùng cổ tìm ra hắn, cái người mà cổ tìm té ra là một thằng bán rượu lậu. Cổ rốt cuộc đã biết hắn là một thằng chẳng ra gì.” Anh nói thêm, với một thứ ngạc nhiên pha chút đăm chiêu: “Tôi thậm chí không bao giờ cần giấu giếm chuyện đó với cổ, không cần nói láo cho nhẹ bớt cú sốc. Như thể cổ đã biết trước những gì tôi sẽ nói, biết trước là tôi sẽ nói láo với cổ. Như thể chính cổ đã nghĩ đến chuyện đó, như thể cổ đã không tin tôi từ trước, ngay cả trước khi tôi mở miệng nói ra, và như vậy thì cũng tốt thôi. Nhưng cái phần riêng của cổ, cái phần biết sự thực đó, tức là cái phần mà dù thế nào đi nữa tôi đã không thể lừa gạt cổ...” Anh dò dẫm tìm lời, trong khi người đàn ông cứng rắn bên kia bàn cứ nhìn anh, không tỏ ý giúp đỡ. “Như thể con người cổ có hai phần; phần này biết hắn là một tên vô lại, nhưng phần kia lại tin rằng một khi một người đàn ông và một người đàn bà sắp có con với nhau thì Chúa sẽ lo liệu giúp họ được ở bên nhau khi đứa bé ra đời. Như thể Chúa dõi mắt theo đàn bà để bảo vệ họ trước đàn ông. Và nếu như Chúa thấy không tiện để cho hai cái phần đó hợp lại, và so sánh lẫn nhau, nếu có thể nói vậy, thì tôi cũng sẽ không làm chuyện đó đâu.”

“Vô lý!” Hightower nói. Ông nhìn qua bên kia bàn khuôn mặt bất động, bướng bỉnh và khổ hạnh: khuôn mặt của một người ẩn dật đã sống một thời gian dài ở một nơi vắng vẻ chỉ có gió thổi cát bay. “Cổ chỉ có một việc, một việc duy nhất để làm, là trở về Alabama. Trở về với gia đình cổ.”

“Tôi không nghĩ vậy,” Byron nói. Anh nói ngay tức khắc, bằng một sự quyết định đột ngột, như thể anh chỉ chờ lúc như thế này để nói. “Cổ sẽ không cần làm vậy đâu. Tôi cho là cổ sẽ không cần làm vậy đâu.” Nhưng anh không nhìn lên. Anh có thể cảm thấy người kia đang nhìn anh.

“Tên Bu... Brown có biết cổ đang ở Jefferson không?”

Trong một khoảnh khắc, Byron hé nở một nụ cười. Môi nhếch lên: một cử động thoáng qua, gần như một cái bóng, và không vui gì lắm. “Hắn thì quá bận mà. Chạy theo một ngàn đô-la đó. Nhìn hắn thì thiệt là mắc cười. Giống như một anh chàng không thể chơi cho ra hồn một giai điệu nhưng lại cố thổi tù và thật to với hy vọng là âm nhạc sẽ đến trong vòng một phút. Hắn bị dẫn đi qua quảng trường, hai tay trong còng, mỗi mười hai hay mười lăm giờ, khi mà họ đã không thể làm hắn bỏ đi chỗ khác chơi, ngay cả thả những con chó cảnh sát này ra cắn hắn. Hắn qua đêm thứ bảy trong tù, và hắn cứ nói đi nói lại là người ta muốn ngăn cản hắn lãnh một ngàn đô-la tiền thưởng bằng cách ra sức chứng minh rằng hắn đã giúp Christmas trong vụ giết người này, cho đến khi Buck Conner cuối cùng vào tận xà lim để nói là hắn sẽ bị nhét giẻ vào miệng nếu hắn không câm cha cái miệng lại, nếu hắn cứ tiếp tục không để các tù nhân khác ngủ yên. Và hắn câm miệng lại thiệt, và đêm chủ nhật họ đi ra ngoài sục sạo với hai con chó, và hắn lại la hét ỏm tỏi đến nỗi họ phải đưa hắn ra khỏi nhà tù và dẫn hắn theo nữa. Nhưng hai con chó lại không muốn đi. Và hắn gào thét, chửi rủa mấy con chó và muốn đánh đá chúng bởi vì chúng không tìm ra dấu vết, và hắn cứ lặp đi lặp lại là chính hắn đã tố giác Christmas đầu tiên và hắn chỉ muốn một điều duy nhất, đó là công lý, cho đến khi ông cò kéo hắn ra riêng và nói chuyện với hắn. Người ta không biết ông cò nói gì với hắn. Có lẽ ông hăm dọa tống hắn vào tù lại và không cho hắn đi cùng với họ lần tới. Dù sao đi nữa, hắn tỏ ra bình tĩnh lại và họ tiếp tục cuộc săn tìm. Họ chỉ trở về phố vào khuya thứ hai. Hắn thì rất điềm tĩnh lúc đó. Có lẽ hắn đuối sức. Hắn không ngủ được bao nhiêu từ mấy hôm nay, và họ kể là hắn đã tìm cách chạy trước hai con chó đến nỗi ông cò cuối cùng buông lời hăm dọa còng tay hắn vào tay của một trong những tên cảnh sát nhằm giữ hắn lại phía sau để mà hai con chó có thể ngửi được cái gì khác hơn là mùi người hắn. Tối thứ bảy, khi họ giam hắn vào ngục, hắn đã cần cạo râu rồi. Giờ thì hắn còn cần cạo râu cấp thiết hơn nữa. Theo ý tôi, hắn chắc chắn trông như thằng sát nhân hơn cả Christmas. Và bây giờ hắn chửi rủa Christmas, như thể Christmas trốn tránh chỉ vì tính hèn hạ của y, vì muốn trêu tức hắn và ngăn cản hắn lãnh một ngàn đô-la đó. Và họ dẫn hắn về nhà ngục và tống hắn vào lại đêm đó. Rồi sáng nay, họ đem hắn ra và mọi người lại lên đường với hai con chó, tìm theo những dấu vết mới. Theo lời đồn, người ta nghe hắn la hét và nói oang oang cho tới khi họ ra khỏi thành phố.”

“Và bạn nói là cổ không biết chuyện đó. Bạn nói là bạn giấu cổ chuyện đó. Bạn thích cổ biết hắn là thằng vô lại hơn là thằng ngu, phải vậy không?”

Bộ mặt Byron bây giờ thì bất động lần nữa, và không mỉm cười nữa; nó mang vẻ rất điềm đạm. “Tôi không biết. Đó là vào đêm chủ nhật vừa qua, sau khi tôi đến đây nói chuyện với ông rồi trở về nhà. Tôi tưởng cổ đã ngủ trong giường, nhưng cổ vẫn còn ngồi ở phòng khách, và cổ nói, ‘Chuyện gì vậy? Chuyện gì xảy ra ở đây?’ Và tôi không nhìn cổ và tôi cảm thấy cổ nhìn tôi. Tôi nói với cổ là có một tên mọi đen giết chết một bà da trắng. Lần này tôi không có nói láo. Tôi cho là tôi rất sung sướng không phải nói láo lúc đó. Bởi vì, không kịp suy nghĩ gì ráo, tôi đã buột miệng nói thêm ‘tên này cũng đã châm lửa đốt ngôi nhà đó.’ Và vậy là quá trễ. Vì trước đó tôi đã chỉ cổ thấy cột khói và kể với cổ về hai tên sống ngoài đó, Christmas và Brown. Tôi cảm thấy cổ nhìn tôi như tôi cảm thấy ông đang nhìn tôi bây giờ, và cổ nói: ‘Thằng mọi đen đó tên gì vậy?’ Như thể Chúa lo liệu để các cô nàng tìm ra điều họ cần biết trong những lời láo khoét của cánh đàn ông mà không cần hỏi. Và để các cô nàng không tìm ra điều họ không cần biết mà thậm chí họ không biết là mình đã không tìm ra điều đó. Và vậy là tôi không biết chắc chắn cổ biết điều gì và cổ không biết điều gì. Tôi chỉ biết là tôi giấu cổ chuyện này: chính tên đàn ông mà cổ tìm đã tố cáo tên sát nhân, và hắn bây giờ đang ở trong tù, trừ khi hắn được cho ra ngoài cùng với mấy con chó để đi lùng sục cái tên đàn ông trước đó đã đón tiếp hắn và xem hắn như bạn. Chuyện này, tôi đã giấu cổ.”

“Và bây giờ bạn định làm gì? Cổ muốn đi đâu?”

“Cổ muốn đi ra ngoài đó để đợi hắn. Tôi biểu cổ là hắn đi làm công chuyện với ông cò. Như vậy, tôi đã không nói láo hoàn toàn. Trước đó cổ đã hỏi tôi hắn sống ở đâu và tôi đã nói ra với cổ rồi. Và cổ nói đó là nơi mà cổ phải đến để chờ hắn cho tới khi hắn trở lại, bởi vì đó là nhà hắn. Cổ nói đó là điều mà hắn muốn cổ làm. Và tôi không thể nói ngược lại, không thể nói rằng hắn chắc chắn không hề muốn cổ đến căn lều đó chút nào. Cổ muốn đi tới đó tối nay, ngay sau khi tôi từ xưởng bào về nhà. Cổ để sẵn bên mình cái bọc vải đã cột lại, và đội sẵn mũ trên đầu, đợi tôi về nhà. ‘Tôi đã bắt đầu tự mình đi một lần,’ cổ nói. ‘Nhưng tôi không chắc mình biết đường cho lắm.’ Và tôi nói ‘Được rồi; có điều là hôm nay thì trễ rồi và chúng ta sẽ đi ra đó ngày mai,’ và cổ nói, ‘Còn một giờ nữa trời mới tối mà. Chỉ có hai dặm thôi, phải không?’Và tôi nói với cổ là phải chờ đã, vì trước tiên tôi phải hỏi thăm, và nàng nói, ‘Hỏi thăm ai? Bộ đó không phải là nhà của Lucas sao?’ và tôi cảm thấy cổ đang chăm chú nhìn tôi và cổ nói, ‘Tôi nghĩ anh đã nói rằng đó là nơi Lucas ở mà,’ và cổ đang chăm chú nhìn tôi và cổ nói, ‘Ông mục sư đó là ai mà anh cứ nói chuyện với ổng về tôi?’ ”

“Và bạn sẽ để cổ đến sống ngoài đó chăng?”

“Có lẽ như vậy là tốt nhất. Cổ sẽ được yên tĩnh ngoài đó, và cổ sẽ được cách biệt với tất cả những chuyện ngồi lê đôi mách cho đến khi vụ việc này chấm dứt.”

“Bạn muốn nói, cổ cứ khăng khăng giữ ý muốn đó trong đầu và bạn sẽ không ngăn cổ lại. Bạn không muốn ngăn cổ lại.”

Byron không nhìn lên. “Dù sao, đó là nhà của hắn. Hắn sẽ không bao giờ có nhà nào khác hơn cái đó, tôi nghĩ vậy. Và hắn là... của cổ.”

“Ở ngoài đó một thân, một mình, với đứa bé sắp sinh. Và nhà gần nhất, một vài căn lều của người da đen, thì cách đó đến nửa dặm.” Ông quan sát nét mặt Byron.

“Tôi đã nghĩ đến chuyện này. Có cách này, cách nọ chớ không phải không, có những cái ta có thể làm được mà.”

“Những cái gì? Bạn có thể làm gì để bảo vệ cổ ngoài đó chớ?”

Byron không trả lời ngay lập tức; anh không nhìn lên. Khi anh nói, giọng anh nghe cứng cỏi. “Có những cái mà con người có thể làm một cách vụng trộm mà không phải là xấu xa, thưa ông mục sư. Và người ta có nghĩ gì về chuyện này thì cũng mặc kệ họ.”

“Tôi không nghĩ rằng bạn có thể làm chuyện gì rất ác, Byron à, dù người ta có thể nghĩ gì đi chăng nữa. Không biết bạn có ý định nói chính xác là cái ác mở rộng đến đâu trong cái vẻ ngoài của cái ác? Chính xác là cái ác dừng lại ở đâu giữa hành động và vẻ ngoài?”

“Không,” Byron nói. Rồi anh cử động chút ít; anh nói như thể anh cũng tỉnh ngủ: “Tôi hy vọng là không. Tôi cho là tôi đang cố gắng làm chuyện tốt với những ánh sáng của riêng tôi.” - ‘Và điều này,’ Hightower nghĩ, ‘là lời nói láo đầu tiên anh ta nói với mình từ trước đến nay. Nói với bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, có lẽ cả chính anh ta nữa, từ trước đến nay.’ Ông nhìn qua bên kia bàn khuôn mặt bướng bỉnh, cứng cỏi, khiêm tốn, trong khi nó chưa nhìn lại ông. ‘Hay có lẽ điều đó chưa phải là một lời nói láo bởi vì chính anh ta không biết nó là như vậy.’ Ông nói:

“Thôi được.” Giờ thì ông nói với một thứ cộc cằn giả tạo, bị bác bỏ bởi chính hai cái má sệ mềm nhão và đôi mắt tối tăm như hang động của ông. “Đồng ý vậy. Bạn sẽ đưa cổ ra ngoài đó, đến nhà hắn, và bạn sẽ lo liệu cho cổ được thoải mái ở đó, bạn sẽ lo liệu cho cổ được yên ổn, không ai quấy rầy cho đến khi mọi chuyện xong xuôi. Rồi sau đó bạn sẽ nói với cái thằng đàn ông đó - Bunch, Brown - là cổ đang ở đây.”

“Và hắn sẽ vắt giò lên cổ mà dông một mạch,” Byron nói. Anh không nhìn lên, nhưng anh có vẻ được một con sóng hứng khởi và hân hoan tràn qua người trước khi anh có thể kiềm chế hay giấu giếm nó, và giờ thì quá trễ để cố gắng làm vậy. Trong lúc này, anh không tìm cách kiềm chế nó. Anh cũng ngã người ra đằng sau, trên ghế, và đây là lần đầu tiên anh nhìn ông mục sư với nét mặt tự tin, táo bạo, không kiềm giữ được. Hightower bắt gặp tia nhìn của anh, và không tỏ vẻ dao động.

“Có phải đó là điều bạn muốn hắn làm không?” Hightower nói. Hai người ngồi như vậy, dưới ánh đèn. Sự im lặng nóng bức và lúc nhúc côn trùng của đêm tối ngột ngạt đi vào trong nhà qua cánh cửa sổ mở. “Hãy suy nghĩ về chuyện bạn đang làm. Bạn đang tìm cách xen vào giữa vợ chồng người ta.”

Byron lấy lại bình tĩnh. Vẻ mặt anh không còn hân hoan nữa. Nhưng anh nhìn chằm chằm người đàn ông già hơn mình trước mặt. Có lẽ anh cũng đã cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, nhưng anh chưa thể làm được. “Họ chưa phải là vợ chồng mà,” anh nói.

“Bộ cổ nghĩ vậy sao? Bộ bạn tin là cổ sẽ nói vậy sao?” Hai người nhìn nhau. “A, Byron, Byron này, một vài lời thầm thì trước Chúa, trước sự kiên trì trong bản tính một người đàn bà, là cái gì chớ? Trước đứa bé đó, là cái gì chớ?”

“Ồ, có thể hắn sẽ không bỏ chạy. Nếu hắn lãnh được phần thưởng đó, số tiền đó. Chắc chắn là hắn sẽ uống đủ say với một ngàn đô-la đó để làm bất cứ chuyện gì, ngay cả lấy vợ.”

“A, Byron ơi, Byron ơi.”

“Vậy thì ông nghĩ chúng ta - tôi phải làm gì? Ông khuyên tôi gì đây?”

“Đi khỏi đây. Rời bỏ Jefferson.” Họ nhìn nhau. “Không đâu,” Hightower nói, “Bạn không cần tôi giúp đỡ. Bạn đã và đang được ai đó mạnh hơn tôi giúp đỡ rồi.”

Byron không nói gì trong một lát. Hai người nhìn nhau chằm chằm. “Ai giúp tôi chớ?”

“Quỷ sứ,” Hightower nói.

***

‘Và quỷ sứ cũng chăm lo cho anh ta nữa,’ Hightower nghĩ trong khi chân đang bước dở nửa chừng; ông ở giữa đường về nhà, cái giỏ xách nhỏ đựng đồ ăn mua ở chợ trên tay. ‘Cho anh ta nữa. Cho anh ta nữa,’ ông vừa đi, vừa nghĩ. Trời nóng. Ông mặc áo sơ-mi trần, dáng người cao, đôi chân dài trong cái quần đen. Vai và tay ông thì ốm trơ xương, và cái bụng thì béo phị, nhẽo nhèo như cái bụng chửa quái dị. Áo sơ-mi thì trắng nhưng nó không tươi mới; cổ áo thì bẩn cũng như cái cà vạt bằng vải gai mịn màu trắng được thắt lỏng lẻo, và ông đã không cạo râu từ hai hay ba ngày nay. Chiếc mũ rơm rộng vành [99] thì lấm bẩn, và ở bên dưới nó, người ta thấy lòi ra các cạnh và góc một chiếc khăn tay dơ dáy đặt giữa mũ và sọ để chống nóng. Ông đã đi ra phố như thường lệ, hai lần mỗi tuần, để mua sắm. Hốc hác, biến dạng, với bộ râu muối tiêu và đôi mắt mang kính râm, hai bàn tay lấm đen ở mép và cái mùi hăng hắc của da thịt không vận động và ít được tắm rửa, ông đi vào cửa tiệm có mùi thơm và ngổn ngang hàng hóa, cửa tiệm duy nhất mà ông tự chọn đồ lấy, và ông trả tiền mặt những gì ông mua.

“A, họ cuối cùng thì cũng tìm ra dấu vết thằng mọi đen đó,” ông chủ tiệm nói.

“Tên da đen đó à?” Hightower nói. Ông bỗng trở nên hoàn toàn bất động trong khi ông đang bỏ tiền thối lại vào túi.

“Cái... ơ... thằng đó, thằng sát nhân đó. Tôi lúc nào cũng nói rằng y có cái gì không phải. Y không là người da trắng. Rằng y có cái gì buồn cười nơi con người y. Nhưng ta không thể nói với mọi người chuyện gì hết cho tới khi...”

“Tìm được y?” Hightower nói.

“Ông nói đúng đó, họ đã tìm ra y. Cái thằng ngốc ấy thậm chí không có lấy một chút đầu óc suy nghĩ để ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi cái quận này. Ông cò đã điện thoại khắp nơi trong tỉnh và cái thằng nhóc da đen này... ơ... lại ở ngay đây, ở suốt trước cái mũi trời đánh của ổng.”

“Và họ đã...” Ông khom người trên quầy, phía trên cái giỏ xách đầy đồ. Ông cảm thấy cái gờ quầy đụng vào bụng mình. Nó cho ông cái cảm giác vững vàng, ổn định; hay đúng hơn, nó giống như cả quả đất đang đung đưa nhè nhẹ, sửa soạn chuyển động. Rồi nó, cái quầy, có vẻ đung đưa từ từ, như cái gì đó mà người ta buông ra một cách chậm rãi, không hấp tấp, và rất khéo léo trong sự sà xuống từ từ, bởi vì con mắt bị đánh lừa, tin rằng những cái kệ dơ dáy với những đồ hộp dính đầy cứt ruồi, và chính ông chủ tiệm đằng sau quầy, đã không chuyển động. Một cảm giác tai hại, gây hoang mang. Và ông nghĩ, ‘Không, không! Ta đã mua sự miễn trừ rồi mà. Ta đã trả giá. Ta đã trả giá rồi mà.’

“Họ chưa bắt được y,” ông chủ tiệm nói. “Nhưng trước sau gì họ cũng sẽ bắt được mà. Ông cò đã đưa chó đến ngôi nhà thờ sáng nay, trước rạng đông. Họ chỉ bị trễ sau y không quá sáu tiếng đồng hồ. Khi ta nghĩ đến cái thằng ngốc trời đánh không có tí ti đầu óc này... thì điều này đủ để chứng minh y là thằng mọi đen, ngay cả khi không có bằng chứng nào khác...”

***

Rồi ông chủ tiệm nói, “Ông mua vậy là đủ cho hôm nay?”

“Cái gì?” Hightower nói. “Cái gì?”

“Ông có tất cả những gì ông cần rồi chớ?”

“Ừ, ừ. Đó là...” Ông đưa tay sờ soạng trong túi trong khi ông chủ tiệm nhìn ông. Bàn tay ông lại ra khỏi túi, vẫn còn sờ soạng. Nó hạ xuống trên quầy, làm vung vãi những đồng tiền. Ông chủ tiệm chụp lại được hai hay ba cái sắp sửa rơi khỏi quầy.

“Tiền này để trả cho cái gì vậy?”

“Cho...” Bàn tay của Hightower sờ soạng cái giỏ xách. “Cho...”

“Ông đã trả rồi mà.” Ông chủ tiệm nhìn ông, lộ vẻ tò mò. “Đó là tiền lẻ của ông, tôi vừa thối lại ông. Từ tờ một đô-la đó mà.”

“Ồ,” Hightower nói. “Ừ. Tôi... Tôi chỉ...” Ông tiểu thương đưa tay gom lại các đồng tiền rồi trao lại cho Hightower. Khi bàn tay của người khách hàng chạm tay mình, ông ta cảm thấy nó lạnh như băng.

“Chính là vì thời tiết nóng quá như vầy,” ông chủ tiệm nói. “Nó làm kiệt sức mọi người. Ông có muốn nghỉ ngơi ở đây một chút trước khi đi về nhà không?” Nhưng chắc là Hightower không nghe ông ta. Ông đang đi về phía cửa, dưới cặp mắt nhìn theo của ông chủ tiệm. Ông ra khỏi cửa, bước xuống đường, cái giỏ xách trên tay, đi bộ một cách cứng ngắc và thận trọng, giống như ai đó đi trên băng. Trời rất nóng. Hơi nóng bốc lên từ nhựa đường, bao bọc các tòa nhà quen thuộc của quảng trường bằng một thứ quầng sáng, một cái gì đó như sự phối hợp sáng-tối sống động và hồi hộp. Một người nào đó lên tiếng với ông khi đi ngang qua nhưng ông thậm chí không biết đến. Ông vừa đi tiếp, vừa nghĩ Và cho anh ta nữa. Và cho anh ta nữa Ông bây giờ bước nhanh đến nỗi ông thở hổn hển khi đến góc con phố nhỏ vắng lặng, không sinh khí, nơi có căn nhà vắng lặng và không sinh khí đang chờ ông. ‘Chắc vì trời nóng,’ bề mặt của bộ óc ông thầm thì bảo ông. Tuy nhiên, ngay cả ở con đường yên tĩnh này, nơi mà những người qua lại ít ỏi giờ cũng không dừng bước để nhìn, để nhớ lại cái biển hiệu đó, và căn nhà của ông, nơi trú ẩn của ông, đã hiện ra trong tầm mắt, ông nghe, đến từ nơi sâu thẳm trong tâm trí ông, những lời lừa dối dịu ngọt: ‘Không. Không. Ta đã mua sự miễn trừ rồi mà.’ Như thể đó là những lời bây giờ được nói to ra, những lời được lặp đi lặp lại, kiên nhẫn, biện bạch: ‘Ta đã trả giá cho chuyện đó. Ta đã không cò kè về giá cả. Không ai có thể trách ta điều này. Ta chỉ muốn sự thanh thản trong tâm hồn. Ta đã trả cho họ cái giá họ muốn mà không cò kè bớt một thêm hai.’ Con đường phố run rẩy và có vẻ trôi nổi; ông đang đổ mồ hôi nhưng bây giờ, ngay cả sức nóng buổi trưa cũng tạo ra nơi ông một cảm giác tươi mát. Rồi, mồ hôi, hơi nóng, ảo ảnh, tất cả đến dồn dập, hòa lẫn với nhau thành một cứu cánh hủy bỏ toàn bộ lô-gích, toàn bộ sự biện bạch, và xóa sạch tất cả, như ngọn lửa hẳn sẽ làm: Ta không muốn ! Ta không muốn !

***

Khi đêm vừa xuống, ngồi ở bàn giấy bên cửa sổ, và thấy Byron đi vào vùng ánh sáng của ngọn đèn đường rồi đi ra, ông bỗng chồm người ra trước ghế. Không phải là ông ngạc nhiên thấy Byron vào giờ này. Trước tiên, khi nhận ra dáng người, ông nghĩ A, mình đã biết trước là anh ta sẽ đến tối nay. Anh ta không phải là kẻ có thể ủng hộ đến cả cái vẻ ngoài của cái Ác Chính trong lúc nghĩ điều này mà ông bắt đầu ngồi chồm người ra trước: sau khi nhận ra dáng dấp của người đang đến gần dưới ánh đèn sáng rỡ, ông tin trong một khoảnh khắc rằng mình lầm, tuy ông lúc nào cũng biết là mình không thể lầm được, là không ai khác ngoài Byron bởi vì anh ta đã đi vào cổng.

Đêm nay Byron hoàn toàn thay đổi. Điều này có thể thấy được trong cách đi đứng, trong dáng điệu của anh. Nghiêng người ra trước, Hightower tự nhủ Như thể anh ta mới học được sự kiêu hãnh, hay sự bất chấp Byron bước nhanh, người giữ thẳng, đầu ngẩng cao; Hightower bất ngờ nói, gần như thành tiếng: ‘Anh ta đã làm cái gì đó rồi. Anh ta đã bắt đầu hành động.’ Ông chắc lưỡi nghe rõ, nghiêng người ở khung cửa tối tăm, đưa mắt theo dõi cái bóng dáng của người đi nhanh qua tầm nhìn từ cửa sổ, tiến tới hàng hiên, tới cửa ra vào, và trong vài khoảnh khắc Hightower nghe tiếng chân và tiếng gõ cửa. ‘Và anh ta không muốn bộc bạch với mình,’ ông nghĩ. ‘Mình hẳn sẽ nghe, sẽ để anh ta nói ra các suy nghĩ trước mặt mình.’ Chưa gì ông đã đi ngang căn phòng, ngừng lại chút xíu bên bàn giấy để bật đèn. Ông đi đến cửa trước.

“Tôi đây, ông mục sư ơi,” Byron nói.

“Tôi nhận ra bạn mà,” Hightower nói. “Dù lần này bạn không vấp cái bậc tam cấp sát đất. Byron này, bạn đã vào cái nhà này vào tối chủ nhật và cho tới tối nay, bạn không bao giờ vào nhà mà không vấp phải cái bậc sát đất đó.” Đó là cái cung cách chào hỏi thường lệ mỗi khi Byron đến: một thái độ hơi kẻ cả, vừa nhẹ nhàng, vừa thân tình để làm người khách thấy thoải mái, và về phần người khách, sự rụt rè chậm chạp, có gốc nhà quê, là một hình thức lịch sự. Đôi khi Hightower có cảm tưởng đã kéo Byron vào nhà đơn giản bằng một luồng hơi thở được điều khiển đúng lúc, như thể Byron mang một cánh buồm trên người.

Nhưng lần này Byron đã vào trong nhà trước khi Hightower chấm dứt câu nói. Anh vào ngay lập tức, với cái dáng vẻ mới mẻ này, sinh ra ở đâu đó giữa sự tự tin và sự bất chấp. “Và tôi cho là ông sẽ nhận ra rằng ông thấy phát ghét khi tôi không vấp nhiều hơn là khi tôi vấp,” Byron nói.

“Có phải đó là một hy vọng, hay là một lời hăm dọa, Byron?

“Ồ, tôi không có ý hăm dọa gì cả,” Byron nói.

“A,” Hightower nói. “Nói một cách khác, bạn chẳng đưa ra được một cái hy vọng nào. Thôi, ít ra là tôi được báo trước rồi đó. Tôi đã được báo trước ngay khi tôi thấy bạn dưới ánh đèn đường. Nhưng ít ra bạn nên nói ra với tôi về chuyện đó. Về chuyện bạn đã làm, dù rằng bạn đã cho là không đáng để nói với tôi trước đây.” Hai người đang đi dần về phía cửa phòng làm việc. Byron dừng bước, quay người và đưa mắt nhìn lên khuôn mặt cao hơn anh.

“Vậy là ông biết,” anh nói. “Ông đã nghe từ trước rồi phải không?” Và, dù đầu anh không cử động, anh không còn nhìn Hightower nữa. “Dù sao,” anh nói. Anh lặp lại, “Dù sao, đàn ông nào thì cũng có cái lưỡi tự do. Cả đàn bà nữa. Nhưng tôi muốn biết ai đã nói lại với ông. Không phải vì tôi xấu hổ đâu. Không phải vì tôi tính giấu ông. Tôi đến đây để chính tôi nói ra với ông ngay khi tôi có thể đến.”

Họ đứng ngay trước cánh cửa của căn phòng có ánh đèn. Hightower lúc này thấy ra là Byron mang trên tay những hộp đồ, những túi xách trông như đựng thực phẩm. “Chuyện gì?” Hightower nói. “Bạn đến để nói với tôi chuyện gì? - Nhưng vào đây đã. Có lẽ tôi thực sự biết chuyện gì rồi. Nhưng tôi muốn nhìn mặt bạn khi bạn kể ra với tôi. Bạn thấy không, tôi cũng báo trước cho bạn đó, Byron à.” Hai người vào trong phòn