Chương 14
“Có người ở ngoài kia, trong căn lều đó,” tên phụ tá nói với ông cò. “Không phải trốn đâu. Sống trong đó.”
“Đi tới xem đi,” ông cò nói.
Tên phụ tá đi rồi quay lại.
“Một người đàn bà. Một người đàn bà trẻ. Và cổ có vẻ như đã sắp xếp mọi thứ để sống lâu dài ở đó. Và Byron Bunch thì cắm một cái lều, cách xa căn lều đó như từ đây đến phòng bưu điện.”
“Byron Bunch nào vậy ta?” ông cò nói. “Con nhỏ đó là ai vậy?”
“Tôi không biết. Cổ không phải người vùng này. Một người đàn bà trẻ. Cổ đã kể hết với tôi. Tôi chưa kịp vào hẳn trong căn lều mà cổ đã bắt đầu kể chuyện của cổ, như thể đó là một bài nói chuyện đã sửa soạn trước, một bài nói chuyện mà cổ quen đọc. Như thể cổ đã tạo thành một thói quen. Và tôi cho là cổ đã có nó từ khi cổ rời Alabama tới đây để tìm người chồng. Hắn đã ra đi trước cổ để tìm việc làm, dường như vậy, và sau một thời gian, cổ lại ra đi và dọc đường người ta nói với cổ là hắn ở đây. Và ngay lúc đó thì Byron bước vào, và anh ta nói là anh ta có thể giải thích cho tôi. Anh ta nói đã có ý định nói chuyện với ông về việc này đó.”
“Byron Bunch?” ông cò nói.
“Dạ phải,” tên phụ tá nói. Rồi nói thêm: “Cổ chờ ngày đẻ con. Cũng không lâu đâu.”
“Đẻ con à?” ông cò nói. Ông nhìn tên phụ tá. “Và từ Alabama? Từ bất kể chỗ nào lại xách đít tới đây đẻ! Đừng nói với tao về Byron Bunch với cái chuyện đó.”
“Tôi cũng không chực làm vậy,” tên phụ tá nói. “Tôi có nói là con của Byron đâu. Vả lại, Byron cũng không nói là con của mình. Tôi chỉ lặp lại với ông những gì anh ta nói thôi.”
“Ồ,” ông cò nói. “Tao hiểu tại sao con nhỏ đó lại ra ở ngoài này rồi. Ấy là một trong hai thằng đó. Christmas phải không?”
“Không phải đâu. Byron nói với tôi như vầy nè. Anh ta kéo tôi ra ngoài và bắt đầu kể với tôi khi ra khá xa để cổ không thể nghe được. Anh ta nói đã có ý định đến gặp và nói chuyện với ông. Đó là con của Brown. Nhưng chỉ phải tên hắn không phải là Brown. Là Lucas Burch đó. Byron nói với tôi. Về chuyện Brown hay Burch đã bỏ rơi cổ ở Alabama. Hắn nói với cổ là hắn ra đi chỉ để tìm việc làm, sửa soạn đồ đạc sẵn trong nhà rồi sau đó sẽ cho gọi cổ đến. Nhưng cổ sắp đến ngày sinh rồi mà vẫn không có tin gì từ hắn, hắn ở đâu, hắn làm gì, vậy là cổ quyết định không đợi nữa. Cổ đi bộ, hỏi thăm dọc đường có ai biết một gã nào tên Lucas Burch; thỉnh thoảng cổ được người ta cho đi nhờ xe la, và hễ gặp bất cứ ai là cổ hỏi có biết hắn không. Rồi một ngày nọ, có người bảo cổ là có một gã tên là Burch, hay Bunch hay cái gì đó, làm việc ở xưởng bào ở Jefferson, và cổ tìm đến đây. Cổ đến đây ngày thứ bảy, trên chiếc xe la, vào lúc mà mọi người chúng ta đều ra ngoài này vì cái chuyện giết người đó, và cổ lần mò đến xưởng bào và tìm thấy thằng cha Bunch thay vì thằng cha Burch. Và Byron nói anh ta có tiết lộ với cổ mà không suy nghĩ trước gì cả, là chồng cổ đang ở Jefferson. Vậy là cổ buộc anh ta tiếp tục và khai ra chỗ ở của Brown. Nhưng anh ta không nói với cổ chuyện Brown, hay Burch, có dính líu đến vụ giết người này với Christmas. Anh ta chỉ nói là Brown đi xa vì chuyện làm ăn. Và tôi cho là ông có thể gọi đó là chuyện làm ăn. Dù sao, đó cũng là công việc mà. Tôi chưa hề gặp một ai ham muốn một ngàn đô-la và làm việc khổ sở để nhận số tiền đó hơn hắn ta. Và vậy là cổ nói căn nhà của Brown này hẳn là căn nhà mà Lucas Burch đã hứa để cổ tới ở một khi sẵn sàng, và vậy là cổ chuyển ra ngoài đó để chờ cho đến khi Brown trở về sau chuyến đi làm ăn. Byron nói anh ta đã không thể ngăn cản cổ bởi vì anh ta không muốn nói ra sự thật về Brown, sau khi đã nói láo với cổ, nếu có thể nói như vậy. Anh ta nói đã có ý định đến gặp và nói chuyện với ông, chỉ phải cái là ông đã khám phá ra chuyện này quá nhanh, trước khi anh ta thu xếp ổn thỏa chỗ ăn ở cho cổ.”
“Lucas Burch?”, ông cò nói.
“Chính tôi cũng thấy ngạc nhiên chút ít,” tên phụ tá nói. Ông định làm gì đây?”
“Không gì cả,” ông cò nói. “Tao cho là tụi nó sẽ không làm gì có hại ngoài này đâu. Và cái nhà này không phải của tao nên tao không thể biểu con nhỏ đó dọn đi chỗ khác. Và như Byron đã nói với con nhỏ đó, Burch hay Brown hay ông nội ơi, bất cứ cái tên gì mà nó có, thì sẽ còn bận rộn lâu hơn lắm đó.”
“Ông có định nói với Brown về cổ không?”
“Tao không nghĩ vậy,” ông cò nói. “Đó không phải việc của tao. Tao không quan tâm đến những con vợ nó bỏ lại ở Alabama, hay ở bất cứ đâu khác. Điều tao quan tâm là thằng chồng mà nó dường như có lấy từ ngày nó đến ở Jefferson đây.”
Tên phụ tá bật cười hô hố. “Tôi nghĩ đó là một sự việc có thực,” anh ta nói. Anh ta ngừng cười, lộ vẻ suy nghĩ: “Nếu hắn không lãnh được một ngàn đô-la đó thì tôi nghĩ hắn sẽ không sống nổi.”
“Tao không nghĩ vậy,” ông cò nói.
***
Sáng thứ tư, vào khoảng ba giờ, một tên da đen cưỡi một con la không yên vào thành phố. Nó đi đến nhà ông cò và đánh thức ông dậy. Nó đã đến thẳng một lèo từ một ngôi nhà thờ dành cho người da đen cách đây hai mươi dặm, nơi mà buổi lễ đêm nhằm gây dựng lòng mộ đạo đang diễn ra. Vào buổi tối trước đó, ngay giữa lúc hát thánh ca, người ta bỗng nghe một tiếng động kinh khiếp ở phía cuối nhà thờ, và khi quay đầu lại, các đạo hữu thấy một người đàn ông đứng ở cửa ra vào. Cửa không có cài then, hay thậm chí không đóng lại, vậy mà tên đàn ông đó chắc đã chụp lấy cái tay nắm mà xô mạnh cánh cửa vào tường đến nỗi tiếng động đi xuyên qua các giọng hát đồng ca như một phát súng lục. Rồi tiếng hát im bặt trong khi tên đàn ông bước nhanh lên theo lối đi giữa nhà thờ, về phía bục giảng, nơi mà ông thầy thuyết pháp còn đứng khom người, hai bàn tay còn giơ cao nửa chừng, miệng còn chưa khép lại. Rồi họ thấy ra tên đàn ông là da trắng. Trong khung cảnh tối mờ mờ, dày đặc như ở dưới hang động mà hai ngọn đèn dầu lửa chỉ có làm tối thêm, họ đã không thể thấy tức khắc y ra sao cho đến khi y đến được một nửa lối đi. Rồi họ thấy mặt y không phải da đen, và một người đàn bà bắt đầu la hét, và những người ngồi phía sau đứng bật dậy, bắt đầu nhào ra phía cửa ra vào; và một người đàn bà khác, ngồi ở chiếc ghế dài dành cho những người đàn bà than khóc và lúc đó đã rơi một nửa vào tình trạng cuồng loạn, đứng bật dậy và quay người hết phía này sang phía kia và nhìn y trừng trừng trong một khoảnh khắc với đôi mắt trắng dã đảo lộn và hét toáng lên: “Quỷ sứ đó bà con ơi! Quỷ Sa-tăng hiện nguyên hình đó!” Rồi bà ta bỏ chạy như một người mù. Bà ta chạy thẳng về phía y. Không dừng bước, y vung tay đấm một cú thật mạnh làm bà ta ngã sóng soài, rồi y bước qua người bà ta đi tiếp, giữa những bộ mặt có miệng há hốc để la hét nhưng biết tránh đường cho y đi thẳng tới bục giảng và đặt tay lên ông mục sư.
“Không có một mống nào nhảy ra chặn y lại, ngay cả lúc đó,” tên da đen đưa tin nói. “Mọi thứ diễn ra nhanh quá, và không ai biết y, không biết y là ai, y muốn gì hay không muốn gì cả. Và đàn bà thì la hét om sòm, và y thì đứng trước bục giảng, một tay nắm cổ họng Thầy Bedenberry, cố sức kéo thầy xuống. Tụi tôi thấy Thầy Bedenberry nói chuyện với y, cố gắng làm y bình tĩnh lại, nhưng y cứ giật lắc người thầy, rồi đưa tay tát mạnh vào mặt thầy. Và tụi tôi, với cả đám đàn bà đang la hét ầm ĩ, tụi tôi không thể nghe Thầy Bedenberry nói gì, nhưng chỉ thấy thầy không hề tìm cách đánh trả lại, rồi một vài người trong đám mấy ông già, những vị trợ tế đó, đến gần y và cố gắng nói chuyện với y, và y thả Thầy Bedenberry ra rồi y quay người lại, xô ngã lão già Thompson bảy mươi tuổi xuống ngay cái ghế dài dành cho những người đàn bà than khóc, và rồi y cúi người, cầm lên một chiếc ghế và xoay tròn nó khiến mấy người khác phải lùi lại. Và người ta cứ vẫn la hét ầm ĩ, chen lấn nhau để chạy ra ngoài. Rồi y quay người lại và trèo lên trên bục giảng trong khi Thầy Bedenberry lại đi xuống từ phía bên kia, và y đứng đó, hai cánh tay giơ cao như đang giảng đạo. Người y đầy bùn, trên quần, trên áo sơ-mi, và râu ria thì mọc đen trên hai má. Và y bắt đầu to tiếng nguyền rủa đám người trước mặt, rồi y nguyền rủa Chúa, nghe to hơn tiếng kêu thét của đám đàn bà, và có vài người đàn ông đang cố giữ lại thằng Roz Thompson, cháu ngoại lão già Pappy Thompson đó, nó cao một thước tám và cầm trong tay một cái dao cạo đã mở sẵn, miệng rít lên, ‘Tui sẽ giết nó. Để tui đi, cô bác ơi. Nó đánh ông ngoại tui. Tui sẽ giết nó đây. Thả tui ra. Làm ơn thả tui ra coi,’ Và người ta vẫn tìm cách chạy ra ngoài, họ chen lấn, giẫm đạp nhau ở các lối đi, ở cửa ra vào, trong khi y, ở bục giảng, tiếp tục nguyền rủa Chúa, nguyền rủa những người đàn ông đang cố lôi kéo thằng Roz Thompson ra phía cửa và thằng Roz cứ mở miệng van nài họ thả nó ra. Cuối cùng thì họ cũng lôi được thằng Roz ra ngoài, và tụi tôi chạy trốn trong các bụi rậm, và y vẫn đứng ở bục giảng mà la hét và nguyền rủa. Rồi sau một lát y im miệng, và tụi tôi thấy y đi ra đứng ở ngưỡng cửa. Và họ còn phải giữ thằng Roz lại lần nữa. Y chắc chắn đã nghe tiếng ồn ào phát sinh từ chỗ thằng Roz bởi vì y bắt đầu cười. Y đứng đó, ở ngưỡng cửa, với ánh sáng sau lưng, y cười rất to một lát rồi bắt đầu nguyền rủa lại, tụi tôi thấy y chộp lấy một cái chân ghế dài và huơ lên cao. Và tụi tôi nghe tiếng một cái đèn đầu tiên bị bể, và ngôi nhà thờ trở nên tối hơn, tụi tôi nghe một cái đèn khác bị bể, vậy là bóng tối chụp xuống hoàn toàn và tụi tôi không còn thấy y nữa. Và từ chỗ thằng Roz bị giữ lại đó, nổi lên tiếng ồn kinh khiếp. Họ hét to, ‘Giữ chặt nó lại! Giữ chặt nó lại! Tóm nó lại! Tóm nó lại!’ Rồi ai đó la lên, ‘Nó thoát ra rồi!’ và tụi tôi nghe Roz chạy về lại phía nhà thờ và ông trợ tế Vines nói với tôi, ‘Roz sẽ giết y. Mày nhảy lên con la đi tìm ông cò ngay đi. Kể với ổng những gì mày thấy.’ “Thưa ông cò, không có ai chọc giận y cả,” tên da đen nói. “Tụi tôi thậm chí không biết tên y. Thậm chí chưa bao giờ thấy y trước đó. Và tụi tôi cố sức giữ thằng Roz lại. Nhưng thằng Roz thì to con quá đi, và y đã xô ngã ông ngoại bảy chục tuổi của thằng Roz và thằng Roz, với cái dao cạo mở sẵn trong tay, không tỏ ra quan tâm tới người nào khác mà nó có lẽ phải cắt để vạch một lối đi đến tận ngôi nhà thờ, nơi mà tên da trắng đang đứng. Nhưng tôi thề trước Chúa là tụi tôi đã làm hết sức để giữ thằng Roz lại.”
Đó là những gì tên da đen kể ra bởi vì đó là những gì anh ta biết. Anh ta đã lên đường vào thành phố ngay tức khắc: anh ta không biết là trong lúc anh ta kể chuyện cho ông cò thì tên da đen Roz nằm bất tỉnh trong một căn lều bên cạnh, sọ bị nứt ở chỗ mà Christmas, đứng sau cánh cửa giờ đây tối thui, nện vào đầu nó với cái chân ghế khi Roz lao vào trong nhà thờ. Christmas, canh theo tiếng chân chạy, chỉ đánh một cú duy nhất, dữ dội, dã man, vào cái hình dạng cao to đâm đầu lao qua ô cửa, và ngay sau khi ấy nghe nó đổ nhào ầm ĩ giữa các ghế dài bị lật ngược rồi nằm im. Không chờ thêm chút nào, Christmas nhảy vọt ra ngoài, hai châm chạm đất thì y đứng lại, giữ thăng bằng, điềm tĩnh, thậm chí không thở hổn hển, tay vẫn nắm chặt cái chân ghế. Y không thấy nóng, không toát mồ hôi; bóng tối mát lạnh bao phủ người y. Sân nhà thờ là một đám đất nện có hình lưỡi liềm vàng vọt được vây quanh bởi các bụi rậm và cây cối. Y biết là các bụi rậm thì đầy người da đen: y cảm thấy những cặp mắt của họ. ‘Đang nhìn đó. Đang nhìn đó,’ y nghĩ. ‘Nhưng họ thậm chí không biết là họ không thể thấy mình.’ Y thở sâu; y chợt nhận ra là y đang nhắc xem nặng nhẹ cái chân ghế, một cách tò mò, như thể để thử sự thăng bằng, như thể y chưa hề chạm đến nó trước đó. “Mình sẽ khắc một cái dấu lên nó ngày mai,’ y nghĩ. Y cẩn thận dựng cái chân ghế vào bức tường bên cạnh y và móc ra từ áo sơ-mi một điếu thuốc và que diêm. Giữa lúc quẹt diêm, y ngừng một chút, và với ngọn lửa bé bỏng, vàng vọt bùng lên, y vẫn đứng tại chỗ, đầu hơi quay ra sau. Đó là tiếng móng guốc mà y nghe ra. Y nghe nó bỗng dưng vang lên, càng lúc càng nhanh rồi tắt dần. “Một con la,” y thầm thì thành tiếng. “Mang tin tốt lành đi vào thành phố.” Y châm lửa điếu thuốc rồi ném que diêm, và y vẫn đứng tại chỗ, hút thuốc, cảm thấy những cặp mắt da đen nhìn chằm chằm đốm lửa nhỏ xíu đang cháy. Dù đứng đó cho tới khi hút xong điếu thuốc, y vẫn tỏ ra rất cảnh giác. Y dựa lưng vào bức tường và tay mặt cầm lại cái chân ghế. Y hút đến khi điếu thuốc cháy hết, rồi y ném nó, ánh lửa lập lòe, ra xa hết sức mình, về phía những bụi rậm, nơi mà y cảm thấy đám người da đen đang núp. “Còn mẫu thuốc dành cho các bạn đó!” y nói, tiếng nói thì đột ngột và vang to trong sự im ắng chung quanh. Trong các bụi rậm mà họ đang rình rập, những người da đen thấy điếu thuốc lá mang ánh lửa rơi xuống đất và còn phát sáng thêm một lát. Nhưng họ không thấy y bỏ đi lúc nào, hay theo ngã nào.
Tám giờ sáng hôm sau ông cò đến, với một đội cảnh sát được thành lập tạm thời và hai con chó. Ngay tức khắc, họ khám phá ra một điều mà các con chó không dính dáng gì đến. Ngôi nhà thờ thì trống không. Không có lấy một bóng người da đen. Đội cảnh sát đi vào trong ngôi nhà thờ, im lặng đưa mắt nhìn các thứ đồ bị gãy đổ. Rồi họ đi ra. Các con chó đã dò thấy tức khắc cái gì đó nhưng chúng chưa kịp bày tỏ thì một tên cảnh sát tìm thấy một mảnh giấy nhét trong khe nứt của một tấm ván nằm phía bên hông nhà thờ. Rõ ràng là nó được một bàn tay con người nhét vào đó, và sau khi mở nó ra, người ta thấy đó là cái bao của gói thuốc lá được mở bung ra và được vuốt cho phẳng, ở trên cái mặt trong, màu trắng, thì có một tin nhắn viết bằng bút chì. Chữ viết rất xấu, như thể từ một bàn tay vụng về hay có lẽ được viết trong bóng tối. Tin nhắn không dài. Nó được gởi cho đích thân ông cò, và nó thì không thể lặp lại ở đây vì quá tục tĩu - chỉ một nhóm từ duy nhất - và không có ký tên. “Tôi đã bảo ông rồi mà, không phải vậy sao?” một người trong bọn họ nói. Anh ta cũng không cạo râu, da xám xịt, giống như con mồi mà họ chưa thấy bóng dáng, và bộ mặt anh ta trông mệt mỏi và hơi điên, với một vẻ thất vọng, căm tức, giọng thì khàn đục như thể dạo sau này anh ta đã không ngừng hét và nói. “Tôi lúc nào cũng bảo ông mà! Tôi đã bảo ông mà!”
“Bảo tao cái gì?” ông cò nói, giọng lạnh và đều. Ông cầm mảnh giấy có tin nhắn và ném về phía anh ta một tia nhìn chằm bằm và lạnh lẽo. “Mày đã bảo tao cái gì? Và khi nào?” Anh ta nhìn ông cò, lộ vẻ tuyệt vọng, phẫn nộ, gần như sắp tới giới hạn của sức chịu đựng; nhìn anh ta, tên phụ tá ông cò nghĩ, ‘Nếu không giựt được số tiền thưởng đó thì nó chỉ có chết thôi.’ Miệng anh ta mở ra, dù không phải để nói, trong khi anh ta nhìn chằm chằm ông cò với một thứ ngạc nhiên hoang mang và nghi hoặc. “Và tao cũng đã bảo mày mà,” ông cò nói với giọng điềm tĩnh và lạnh lùng, “nếu mày không thích cách tao điều khiển công việc này thì mày chỉ việc quay về chờ trong phố. Có một chỗ tốt ở đó để cho mày chờ. Mát mẻ lắm, chớ mày không phải chịu đựng nắng cháy da dưới mặt trời như ở ngoài này. Có phải tao đã bảo mày vậy không? Mày nói đi.”
Anh ta đành khép miệng lại. Đưa mắt nhìn chỗ khác, như thể phải ra sức lắm mới làm được vậy; và như thể ra sức lắm mới nói được, “Dạ phải.” với giọng khô khốc và nghẹn ngào.
Ông cò quay người lại một cách nặng nề, tay vẫn cầm mảnh giấy. “Vậy thì ráng nhét điều đó vào trong óc mày!” ông nói. “Giả dụ là mày có óc...” Mọi người đứng vòng quanh ông. Các bộ mặt thì điềm tĩnh, đầy vẻ quan tâm, dưới nắng sớm. “Nhưng tao nghi lắm, cái chuyện mày có óc hay không đó, nếu mày hay thằng nào khác muốn biết ý tao.” Ai đó bỗng bật cười hô hố. “Im đi,” ông cò nói. “Bắt đầu đi nào. Bufe, mày thả chó chạy đi.”
Hai con chó được thả lỏng và tìm ra ngay các dấu vết, tuy còn bị dắt dây. Các dấu vết thì rõ, dễ lần theo nhờ sương mai trên mặt đất. Chắc là kẻ chạy trốn chẳng bỏ công che giấu chúng chút nào. Họ có thể thấy ngay cả những dấu đầu gối và bàn tay ở chỗ y đã quỳ xuống bên một con suối để uống nước. “Tôi chưa từng biết một thằng sát nhân nào khôn khéo hơn thế, đối với những người truy đuổi y,” tên phụ tá ông cò nói. “Nhưng cái thằng ngu trời đánh này, y thậm chí không ngờ là ta có thể dùng chó.”
“Ta đã thả chó chạy tìm y mỗi ngày một lần từ chủ nhật tới giờ,” ông cò nói. “Và ta vẫn chưa tóm được y.”
“Những dấu vết đó đã nguội quá rồi. Ta chỉ có những dấu vết nóng hổi mới ngày hôm nay thôi. Nhưng rốt cuộc thì y cũng có sơ xuất thôi. Ta sẽ tóm y hôm nay. Có lẽ trước buổi trưa đó.”
“Tao chờ để thấy đây,” ông cò nói.
“Ông sẽ thấy mà,” tên phụ tá nói. “Những dấu vết này nối tiếp nhau thẳng như đường xe lửa. Tôi có thể tự mình đi theo nó, gần như vậy. Ông nhìn này. Ông có thể thấy ngay cả những dấu chân của y. Cái thằng ngu trời đánh đó không đủ khôn để đi theo con lộ đầy bụi ngoài kia, nơi có nhiều người đi bộ qua lại, nơi mà mấy con chó không thể ngửi ra y được. Trước mười giờ, những con chó này sẽ tìm ra nơi mà những dấu vết này chấm dứt.”
Những con chó làm đúng y vậy. Một lát sau, những dấu vết nối tiếp nhau đó đột ngột quẹo thẳng góc. Họ dò theo rồi đụng phải con lộ mà họ đi tiếp, theo sau các con chó. Đầu chúc xuống, vẻ hăm hở, hai con chó chạy được một quãng ngắn thì nhào sang phía bờ đường, nơi có một con đường chạy xuống từ một nhà kho chứa bông vải nằm trên cánh đồng sát bên. Chúng bắt đầu chạy quanh, cố sức giằng sợi dây dắt, sủa to bằng cái giọng mạnh mẽ, vui vẻ và ngân vang; rất phấn khích, chúng gầm gừ, chúng nhảy chồm tới. “Nhìn này, cái thằng ngu trời đánh!” tên phụ tá nói. “Y ngồi xuống chỗ này để nghỉ chân: đây là những dấu chân của y, có cùng gót giày bằng cao su đó. Bây giờ y ở cách đây không quá một dặm đâu! Tiến tới nào, các chàng trai!” Họ đi tiếp. Các con chó vẫn sủa, kéo căng các dây dắt, và đám đàn ông giờ thì chạy nước kiệu. Ông cò quay về phía tên đàn ông không cạo râu.
“Bây giờ là cơ hội cho mày chạy lên trước tóm y và lãnh một ngàn đô-la đó,” ông nói. “Tại sao mày lại chần chờ?”
Tên đàn ông không trả lời; không ai còn nhiều hơi để nói chuyện, nhất là sau khi chạy được khoảng một dặm, các con chó, vẫn kéo căng dây dắt và sủa ăng ẳng, lại rời con lộ và đi theo một con đường hẹp chạy quanh co lên một ngọn đồi rồi chấm dứt trong một cánh đồng trồng bắp. Tại đây, chúng ngừng sủa, nhưng sự háo hức của chúng có vẻ tăng lên; đám cảnh sát bây giờ thì không đi nữa, họ chạy. Nằm đằng sau những cây bắp cao tới đầu người là một căn lều da đen. “Y ở trong đó,” ông cò nói, tay rút súng lục ra. “Bây giờ thì phải cẩn thận đó nghe tụi mày. Y có súng đó.”
Cuộc vây bắt được thực hiện một cách khéo léo và lành nghề: căn lều bị những tên cảnh sát ẩn nấp, tay cầm súng, bao quanh, và ông cò với tên phụ tá theo sau, ép thân hình vạm vỡ của mình vào sát tường căn lều một cách nhanh chóng và khôn khéo, ở ngoài tầm nhìn từ cửa sổ. Vẫn ép người sát tường, ông chạy đến tận cửa ra vào, giơ chân đạp tung cánh cửa và nhảy vọt vào trong căn lều, súng giơ ra đằng trước. Ông chỉ thấy một đứa bé da đen. Trần truồng như nhộng, nó ngồi trên đống tro nguội trước lò sưởi, đang ăn cái gì đó. Hình như chỉ có mình nó, nhưng một khoảnh khắc sau đó một người đàn bà xuất hiện từ cửa trong nhà, miệng há hốc, suýt buông cái nồi bằng sắt trên tay. Mụ mang một đôi giày đàn ông mà một người trong nhóm nhận ra là của cái tên đang trốn chạy. Mụ kể với họ về một tên đàn ông da trắng thuộc loại lang thang rày đây mai đó, xuất hiện vào lúc rạng đông, và y đã đổi giày với mụ, đổi lấy một đôi giày xăng đá của chồng mụ mà mụ đang mang trên chân lúc đó. Ông cò lắng tai nghe. “Chuyện đó xảy ra ngay bên nhà kho bông vải phải không?” ông nói. Mụ trả lời: “Phải đó.” Ông quay ra gặp lại các nhân viên của mình, gặp lại các con chó hăm hở tuy cổ còn bị cột dây dắt. Ông nhìn xuống hai con chó trong khi các tên cảnh sát lên tiếng hỏi ông rồi ngừng nói, mắt vẫn nhìn ông. Họ nhìn ông bỏ cái súng lục vào túi lại, rồi quay người, đưa chân đá thật mạnh hai con chó, mỗi con một cú. “Mang hai cậu chó trời đánh này về lại phố,” ông nói.
Nhưng ông cò là một sĩ quan giỏi. Ông biết, cũng như các nhân viên của mình, là ông sẽ trở lại nhà kho chứa bông vải, nơi mà ông tin là Christmas đã lẩn trốn suốt thời gian qua, dù ông cũng biết là Christmas sẽ không còn đó khi ông quay lại. Họ vất vả lắm mới kéo được hai con chó rời khỏi căn lều da đen và dưới ánh nắng chói lọi của mặt trời mười giờ, họ vây quanh cái nhà kho chứa bông một cách thận trọng, lành nghề và êm ru bà rù, súng lục cầm sẵn trên tay, tất cả theo đúng bài bản chiến đấu tuy không mang hy vọng gì đặc biệt. Họ chỉ tìm ra một con chuột đồng đầy vẻ kinh ngạc và sợ hãi! Tuy nhiên, ông cò bắt đem chó đến. Trước đó, chúng đã không chịu đến gần nhà kho chút nào, không chịu rời xa con lộ; chúng cứ kéo căng sợi dây dắt, tự ý ngoái cổ nhìn ra sau, mõm chỉa xuống mé dưới con lộ, về phía căn lều da đen, nơi mà chúng vừa mới bị lôi đi khỏi. Phải cần đến hai người dùng sức mới kéo được chúng đến. Ngay khi sợi dây dắt được thả dài, chúng nhảy vọt ra trước, chạy quanh cái nhà kho bông vải rồi lao đi theo các dấu vết mà đôi chân của kẻ trốn chạy đã để lại trên những ngọn cỏ cao còn ướt sương, dưới bóng nhà kho. Chúng chạy ra phía con lộ một lần nữa, vừa chạy vừa nhảy vọt, kéo căng sợi dây dắt và lôi hai tên cảnh sát chạy theo gần năm chục thước trước khi hai người này quấn được sợi dây dắt xung quanh một thân cây nhỏ để chúng không thể chạy tiếp được nữa. Lần này, ông cò không muốn nhọc sức đá chúng nữa.
***
Cuối cùng thì sự ồn ào, những hồi báo động, âm thanh và cuồng nộ của cuộc săn người cũng lụi tàn, cũng tắt ngấm, và y không nghe gì nữa. Y không ở trong nhà kho chứa bông khi đám người và hai con chó đi qua, như ông cò nghĩ. Y chỉ ngừng bước ở đó trong một lát đủ để cột lại dây đôi giày xăng đá: giày đen, giày đen mang mùi người da đen. Chúng trông như được đục đẽo từ quặng sắt bằng một cái rìu cùn. Nhìn xuống sự thô kệch không rõ hình dạng, mộc mạc và vụng về của chúng, y nói, “A” qua kẽ răng. Y có cảm tưởng thấy chính mình cuối cùng bị săn đuổi bởi dân da trắng tới tận cái vực tối đen đang đợi y, đang tìm cách nhận chìm y từ ba mươi năm nay, và bây giờ và cuối cùng thì y thực sự thâm nhập vào đó, mang xung quanh mắt cá chân của mình một cái máy đo chuẩn xác và không thể hủy hoại được của lớp thủy triều tối đen đang dâng lên này.
Trời hừng đông: ánh sáng ban ngày vào cái khoảnh khắc xam xám và cô đơn, vào lúc mà chim chóc cựa mình tỉnh giấc một cách dịu dàng. Không khí hít vào thì mát rượi như nước từ dòng suối trong veo. Y thở sâu, chậm, và với mỗi hơi thở, y cảm thấy cả con người mình tan biến trong cái màu xám không đậm, không nhạt, được đồng hóa với nỗi cô đơn này, với sự thanh thản này - cả haikhông từng biết đến nỗi cuồng nộ hay niềm tuyệt vọng. ‘Đó là tất cả những gì mình muốn,’ y nghĩ, với một sự ngạc nhiên thầm lặng và chậm rãi. ‘Tất cả chỉ có vậy thôi, từ ba mươi năm nay. Theo mình thì đâu có gì là đòi hỏi lắm đâu, trong ba mươi năm trời.’
Y đã không ngủ được nhiều từ hôm thứ tư, và giờ đây thứ tư lại đến rồi đi, dù y không biết. Khi nghĩ về thời gian, y bây giờ có cảm tưởng rằng trong ba mươi năm y đã sống bên trong một cuộc diễu hành có thứ tự, với những ngày được đặt tên và mang số như những cái cọc hàng rào, và rằng vào một đêm đi ngủ, khi tỉnh dậy y thấy mình không còn ở trong đó nữa. Trong một khoảng thời gian sau khi trốn chạy vào đêm thứ sáu đó, y cố gắng tính toán những ngày đi qua, theo thói quen cũ. Một lần, sau khi ngủ suốt đêm trên một đống rơm, y tỉnh dậy đúng lúc để thấy cái nông trại thức giấc. Y thấy, trước khi trời sáng, cái ánh vàng vàng của một ngọn đèn trở nên sống động trong nhà bếp; rồi trong cái bóng tối đang chuyển sang xám, y nghe tiếng động chậm rãi, chát chúa của một chiếc rìu, nghe sự chuyển động trong cái chuồng bò gần đó, một sự chuyển động của con người giữa những tiếng động của đám gia súc đang thức dậy. Rồi y ngửi thấy mùi khói đến từ nhà bếp, một mùi đồ ăn nóng hổi, và y bắt đầu nói đi nói lại không dứt với chính mình Mình đã không ăn gì từ đó Mình đã không ăn gì từ đó cố gắng nhớ lại từ hôm thứ sáu, từ lúc y ăn tối trong một tiệm ăn ở Jefferson, đến nay là bao nhiêu ngày rồi. Và sau một lát, trong khi y nằm im chờ đợi cho đến khi những người đàn ông ăn xong và đi ra đồng, cái tên của ngày trong tuần đối với y có vẻ quan trọng hơn là đồ ăn. Bởi vì, khi các người đàn ông sau hết cũng ra đi và y leo xuống đống rơm và xuất hiện trước cửa nhà bếp, dưới ánh nắng chan hòa màu vàng nhạt như hoa trường thọ, y không hề xin đồ ăn. Y đã có ý định xin ăn trước đó. Y cảm thấy những lời lẽ gay gắt di chuyển qua đầu y, ngay sau cái miệng. Rồi một người đàn bà mặt mũi hốc hác, da sạm nắng, đi đến ngưỡng cửa và nhìn y, y có thể thấy rõ cú sốc và sự nhận biết và nỗi sợ hãi trong mắt bà ta, và trong khi nghĩ Mụ biết mình rồi. Mụ cũng nghe tin đồn y nghe miệng mình nói ra một cách bình thản: “Bà có thể nói cho tôi biết hôm nay là thứ mấy vậy? Tôi chỉ muốn biết hôm nay thứ mấy thôi.”
“Thứ mấy à?” Mặt bà ta thì cũng hốc hác như y, thân hình thì cũng ốm, cũng không biết mệt và cũng kiệt sức như y. Bà ta nói: “Rời khỏi đây đi! Hôm nay thứ ba đó! Rời khỏi đây đi! Nếu không, tôi sẽ gọi chồng tôi ra.”
Y nói, “Cám ơn,” một cách bình thản khi cánh cửa đóng sập lại. Rồi y nhận ra là mình đang chạy. Y không nhớ mình đã bắt đầu chạy khi nào. Trong một lúc, y nghĩ là y chạy vì một mục tiêu và hướng đến một mục tiêu mà cái hành động chạy này bỗng dưng nhớ lại, và do đó trí óc y không cần bận tâm để nhớ ra tại sao y lại chạy, bởi vì chạy là một chuyện không khó. Trên thực tế, chạy thì dễ lắm. Y cảm thấy người mình nhẹ nhàng, không trọng lượng. Mặc dù sải chân rất dài, y có vẻ chạy không nhanh tuy nhẹ nhàng, bước chân đặt xuống một cách khi hú họa, khi cố ý, trên mặt đất không được cứng chắc cho lắm. Rồi y té xuống, dù không bị vấp gì cả. Y chỉ ngã bổ cả người, trong một khoảnh khắc tin rằng mình vẫn còn vững trên hai chân và còn đang chạy. Nhưng giờ thì y đã nằm sấp trong một cái hố cạn ở cuối một cánh đồng đã cày xong. Rồi bất ngờ y nói, “Tốt hơn mình nên đứng dậy cho rồi.” Khi ngồi dậy, y thấy mặt trời đang ở lưng chừng trời nhưng chiếu đến y từ hướng ngược lại. Thoạt đầu y chỉ nghĩ là mình đã đơn giản xoay người sang hướng khác. Rồi y hiểu ra là trời đang tối, là y đã té khi chạy vào buổi sáng, và dù y có cảm tưởng mình đã ngồi dậy ngay lập tức, bây giờ là buổi tối rồi. ‘Mình đã lăn ra ngủ,’ y nghĩ. ‘Mình đã ngủ hơn sáu tiếng đồng hồ. Mình chắc chắn đã ngủ trong khi chạy mà không biết. Chắc chắn là vậy rồi.’
Y không cảm thấy ngạc nhiên chút nào. Thời gian, sự nối tiếp của ngày và đêm đã không còn đều đặn nữa đối với y. Nó bây giờ có thể hoặc là ngày, hoặc là đêm, dường như ở ngay khoảnh khắc này, giữa hai cái chớp mắt, mà không hề báo trước. Y không bao giờ có thể biết được khi nào y trải qua từ đêm sang ngày, khi nào y nhận ra là mình đã ngủ mà không nhớ có nằm xuống hay không, hay khi nào y đi bộ mà không nhớ mình đã ngừng ngủ. Đôi khi y có cảm tưởng là một đêm ngủ, trong ổ rơm, trong một cái hố ven đường, dưới một mái nhà bỏ hoang, được theo sau tức khắc bởi một đêm khác mà không có lấy một ngày, không có ánh sáng xen vào giữa hai đêm đó để y có thể thấy đường mà chạy trốn; là ngày tiếp nối ngày, không có đêm ở giữa chúng, lúc nào cũng gấp gáp vì trốn chạy, không có cách quãng để nghỉ ngơi, như thể mặt trời, thay vì lặn xuống, lại quay lại trên bầu trời, lui về phía sau mà không chạm đến chân trời. Khi y vừa đi vừa ngủ, hay ngay cả khi quỳ xuống để vốc nước uống bên một con suối, y không bao giờ có thể biết đôi mắt mình khi mở ra sẽ gặp ánh nắng mặt trời hay các vì sao đêm.
Có một giai đoạn mà y lúc nào cũng thấy đói. Y nhặt nhạnh các trái cây ung thối hay đã có giòi để ăn. Đôi khi, y bò trong các cánh đồng, kéo thấp xuống và nhai các trái bắp đã già, cứng như cái đồ nạo khoai tây. Lúc nào y cũng nghĩ đến chuyện ăn, hình dung ra trong đầu các món ăn, các đồ ăn. Có khi y nghĩ tới bữa ăn dọn sẵn trên bàn cho y ở nhà bếp ba năm trước đây, và với cả cõi lòng tan nát không kham nổi vì hối tiếc, ân hận và giận điên người, y thấy lại những cái vung tay ra sau của mình một cách đều đặn và có tính toán để ném mạnh vào tường những dĩa đồ ăn. Rồi một ngày nọ y không thấy đói nữa. Chuyện này đến bất ngờ và thanh thản. Y cảm thấy mát mẻ và im ắng trong người. Tuy vậy, y biết rõ là y phải ăn. Y tự ép mình ăn những trái cây ung thối, những trái bắp cứng ngắt, nhai chậm rãi mà không thấy có mùi vị gì. Y ăn, ăn quá nhiều những thứ đó đến nỗi y bị xuất huyết đường ruột tới mấy lần. Vậy mà ngay tức khắc sau đó, y bị nhu cầu ăn, ham muốn ăn, ám ảnh trở lại. Không phải là đồ ăn đâu, mà là nhu cầu ăn ám ảnh y, bây giờ. Y cố gắng nhớ lại khi nào là lần cuối cùng y ăn được những đồ ăn nấu chín và tươm tất. Y có thể cảm thấy, có thể nhớ lại, ở đâu đó, một ngôi nhà, một căn lều. Ngôi nhà hay căn lều, trắng hay đen: y không thể nhớ ra. Rồi, trong khi đang ngồi im lặng, trên khuôn mặt hốc hác, bệnh hoạn, đầy râu ria không cạo, lại xuất hiện một vẻ mơ mộng ngây ngất: y ngửi ra mùi người da đen. Bất động (y đang ngồi dựa lưng vào một gốc cây bên dòng suối, đầu hơi ngã ra sau, hai bàn tay đặt trên đầu gối, gương mặt tiều tụy nhưng yên bình), y ngửi và thấy các món ăn nấu theo cách người da đen. Đó là trong một căn phòng. Y không nhớ mình đi vào bằng cách nào. Nhưng căn phòng thì đầy sự khiếp đảm đột ngột và nhộn nhạo trốn chạy, như thể người ta vừa mới bỏ trốn bất ngờ, trong sợ hãi. Y ngồi ở bàn, chờ đợi, không suy nghĩ gì hết, trong sự trống không, trong sự im lặng mang không khí trốn chạy. Rồi y thấy đồ ăn trước mặt mình, những dĩa đồ ăn được mang đến bất thình lình bởi những bàn tay da đen dài và mềm mại, chúng cũng bỏ trốn ngay sau khi đặt đồ ăn lên bàn. Y có cảm tưởng đang nghe, mà như thực sự không nghe, những lời than van của nỗi kinh hoàng và đau đớn, nhẹ hơn những tiếng thở dài xung quanh y, hòa lẫn với tiếng nhai và nuốt đồ ăn. ‘Lần đó, là trong một căn lều,’ y nghĩ. ‘Và họ sợ. Sợ người anh em của mình!’
Đêm đó, một điều lạ lùng xuất hiện trong tâm trí y. Y nằm sẵn sàng ngủ. Nhưng y không ngủ. Y không có cảm giác mình có nhu cầu phải ngủ. Như trong trường hợp y để bao tử mình sẵn sàng tiếp nhận đồ ăn trong khi nó có vẻ không ham muốn hay không cần ăn chút nào. Đó là một cảm giác lạ lùng, theo nghĩa là y không thể khám phá ra điểm xuất phát, động cơ hay sự giải thích nào về nó. Y nhận ra là mình đang cố gắng tính toán hôm nay là thứ mấy trong tuần. Như thể y cuối cùng cảm thấy, bây giờ, một nhu cầu có thực và khẩn cấp xóa bỏ mà không sai lầm vì tính thiếu hay tính quá lố, những ngày đã qua, với một mục đích nào đó, một ngày hay một hành động rõ ràng nào đó. Thay vì ngủ, y lại rơi vào trạng thái hôn mê, vì nhu cầu ngủ giờ đã đi vào tâm trí y. Khi y tỉnh dậy trong buổi rạng đông đầy sương xám, nhu cầu này được kết tinh đến mức nó không còn có vẻ lạ lùng nữa.
Mặt trời vừa lên, ánh sáng bắt đầu lan ra. Y đứng lên và đi xuống suối, móc từ túi ra cái dao cạo, xà bông và bàn chải để quệt xà bông. Nhưng trời còn quá mờ mờ để có thể thấy rõ mặt y trên mặt nước, vậy là y ngồi xuống bên suối và chờ cho đến khi thấy rõ hơn. Rồi, một cách kiên nhẫn, y quệt xà bông lên mặt đầy râu với nước suối lạnh ngắt. Bàn tay y run rẩy; tuy rất vội, y vẫn cảm thấy chán nản và y phải tự ép mình cố gắng. Lưỡi dao cạo thì cùn; y tìm cách mài nó cho sắc trên da giày nhưng da giày thì cứng như sắt và ướt sương. Y cạo một cách tàm tạm. Bàn tay y run rẩy; việc cạo râu không được làm tốt cho lắm và y cắt da mặt đến ba hay bốn lần, và y cầm máu bằng nước suối lạnh ngắt cho đến khi máu ngừng rỉ ra. Y cất các đồ cạo râu lại và bắt đầu bước đi. Y cứ nhắm trước mắt mà đi thẳng, bỏ qua những lối nhỏ dễ đi hơn. Nhưng sau một quãng ngắn, y ra đến một con lộ và ngồi xuống bên cạnh nó. Đó là một con đường im ắng, kéo dài và biến mất một cách lặng lẽ. Bụi đường lờ mờ chỉ được nhận ra nhờ các dấu vết để lại của những bánh xe hẹp và hiếm khi đi qua, của những móng guốc các con ngựa và các con la, và ở đôi chỗ, của chân người. Y ngồi ven đường, không có áo khoác. Chiếc áo sơ-mi của y, ngày trước thì trắng tinh, và cái quần, ngày trước thì được ủi thẳng thớm, giờ thì bẩn thỉu và lấm bùn. Khuôn mặt hốc hác của y thì lởm chởm râu cạo không đều và vấy máu khô. Mặt trời lên và sưởi ấm y, nhưng y cứ rùng mình vì mệt và lạnh. Sau một lát, hai đứa bé da đen xuất hiện ở chỗ quẹo, và đến gần. Chúng không thấy y cho đến khi y lên tiếng; chúng ngừng bước, đờ người ra, và nhìn y với lòng mắt trắng dã. “Hôm nay thứ mấy vậy?” y lặp lại. Chúng không nói gì cả, cứ nhìn y chằm bằm. Y ngửng cằm lên. “Đi tiếp đi,” y nói. Chúng bước tiếp. Y không nhìn hai đứa nó nữa. Y vẫn ngồi, có lẽ suy nghĩ về cái chỗ mà chúng đã đứng lại, như thể đối với y, chúng từ hai vỏ sò bước ra khi đi tiếp. Y không thấy là hai đứa bé đã bắt đầu chạy.
Vậy là, ngồi ở ven đường, được mặt trời chầm chậm sưởi ấm, y ngủ mà không biết mình ngủ, bởi vì điều đầu tiên mà y biết ra một cách có ý thức là tiếng cọt kẹt và lạch cạch kinh khủng của gỗ và kim loại và tiếng móng guốc lóc cóc. Y mở mắt vừa kịp thấy chiếc xe la quành sang một bên và biến mất ở khúc quẹo. Những người ngồi trên xe còn ngoái cổ nhìn lại y, và tên đánh xe vung lên quật xuống cái roi. ‘Họ cũng nhận ra mình mà,’ y nghĩ. ‘Họ và người đàn bà da trắng đó. Và những người da đen mà mình ăn ở nhà họ ngày hôm đó. Bất cứ ai trong bọn họ đã có thể bắt mình, nếu họ muốn vậy. Bởi vì đó là điều tất cả bọn họ đều muốn: mình bị bắt. Nhưng họ lại bỏ chạy đầu tiên. Tất cả bọn họ đều muốn mình bị bắt, vậy mà khi mình đến, sẵn sàng nói: tôi đây này Thật đó, có lẽ mình sẽ nói Tôi đây này tôi chán tôi chán chạy lắm rồi chán phải mang cuộc đời tôi như thể nó là một giỏ trứng họ lại bỏ chạy tuốt. Như thể có một quy tắc để tóm cổ mình, và nếu bắt giữ mình theo cách đó thì sẽ không đúng với quy tắc này.’
Vậy là y trốn lại trong các bụi rậm. Lần này, y tỏ ra cảnh giác và y nghe tiếng xe la trước khi nó xuất hiện. Y không ló đầu ra cho đến khi nó đến trước mặt y. Lúc đó, y bước tới và nói, “Này, này!” Chiếc xe lắc mạnh rồi ngừng lại và cái đầu tên đánh xe da đen cũng lúc lắc theo. Trên mặt hắn hiện ra vẻ ngạc nhiên, rồi sự nhận biết và sự kinh hãi. “Hôm nay thứ mấy vậy?” Christmas nói.
Tên da đen nhìn y trừng trừng, miệng há hốc. “Ôn... Ông nói cái gì?”
“Hôm nay là thứ mấy trong tuần vậy? Thứ năm? Thứ sáu? Thứ mấy vậy? Tao không đánh đập mày đâu mà sợ.”
“Hôm nay thứ sáu,” tên da đen nói. “Lạy Chúa tôi, hôm nay thứ sáu mà.”
“Thứ sáu,” Christmas nói. Y lắc đầu một lần nữa. “Đi tiếp đi.” Roi đánh xuống và hai con la rùng mình cất bước. Chiếc xe la này cũng ra khỏi tầm mắt ở chỗ quẹo, cái roi vung lên quất xuống. Nhưng Christmas đã quay người đi vào khu rừng cây.
Một lần nữa, y cứ nhắm trước mắt mà đi thẳng như cái thước băng của người đo đạc, bất chấp các ngọn đồi, các thung lũng, các bãi lầy. Thế nhưng, y không tỏ ra vội vã. Y đi như một người biết mình đang ở đâu và nơi nào mình muốn đi đến và cần bao nhiêu thời gian, tính đến từng phút, để tới đó. Như thể y ham muốn nhìn lại, lần đầu tiên hay lần cuối cùng, quê hương bản thổ của mình qua tất cả các thời kỳ của nó. Chính ở vùng đất này mà y lớn lên thành người lớn, nơi mà, như một tên thủy thủ không biết bơi, hình dạng cơ thể và sự suy nghĩ của y đã được định hình do những sức mạnh khác nhau của chính vùng đất này mà y không bao giờ biết được cái hình dạng thực sự và những cảm giác thực sự. Cả một tuần nay y rình rập và bò ngang, bò dọc giữa những địa điểm bí mật của nó, vậy mà y vẫn thấy mình xa lạ trước những quy luật bất biến mà quả đất phải tuân theo. Trong một thời gian dài đi không ngừng, y nghĩ rằng đúng là việc này, tức là việc nhìn và thấy đó, cho y sự bình an này, sự chậm rãi này, sự trầm lặng này, cho đến khi câu trả lời thực sự hiện ra trong đầu y. Y cảm thấy khát khô cổ và nhẹ nhõm cả người. ‘Mình không phải bận tâm về chuyện phải ăn nữa,’ y nghĩ. ‘Đúng là điều này đó.’
Đến trưa thì y đã đi được tám dặm. Y đến một con lộ trải sỏi rộng rãi, một quốc lộ. Lần này chiếc xe la dừng lại bình thường khi y giơ tay ra dấu. Bộ mặt người thanh niên da đen đánh xe không tỏ ra ngạc nhiên hay nhận biết. “Con lộ này chạy đi đâu?” Christmas nói.
“Mottstown. Tui đang đi tới đó.”
“Mottstown. Mày cũng đi tới Jefferson chớ?”
Tên thanh niên gãi đầu. “Tui chẳng biết nó ở đâu. Tui chỉ đi tới Mottstown thôi.”
“Ồ,” Christmas nói. “Tao hiểu rồi. Mày đâu sống ở miệt này, phải không?”
“Thưa ông phải. Tui sống đằng kia, cách xa đây tới hai quận lận. Tui đánh xe cả ba ngày đường rồi. Tui đi Mottstown để nhận con bê mà cha tui mua. Ông muốn đi tới Mottstown không?”
“Ừ, đi,” Christmas nói. Y leo lên ngồi bên cạnh tên thanh niên. Chiếc xe la tiếp tục lăn bánh. ‘Mottstown,’ y nghĩ. Jefferson cách đó chỉ hai mươi dặm. ‘Giờ thì mình có thể dừng chân một lát. Cả bảy ngày qua mình có nghỉ ngơi chút nào đâu, vậy thì bây giờ mình có thể nghỉ ngơi được rồi đó.’ Y nghĩ có lẽ là lúc này ngồi đây, lại được đu đưa bởi chiếc xe la di chuyển chậm chạp, y sẽ chợp mắt được. Nhưng y không ngủ. Y không thấy buồn ngủ, không thấy đói, thậm chí không thấy mệt. Y ở đâu đó giữa hai nhu cầu hay nửa cái này, nửa cái kia, y như bị treo lên, thân thể đu đưa theo sự chuyển động của chiếc xe la. Y không nghĩ gì nữa, không cảm thấy gì nữa. Y đã mất đi khái niệm về thời gian và khoảng cách: y ở trên xe được một tiếng đồng hồ hay có lẽ ba tiếng. Tên thanh niên nói:
“Mottstown. Tới rồi đó.”
Y nhìn. Y thấy khói bay thấp, phất phơ, bên kia một góc trời không dễ gì nhận ra; y lại đi vào nó một lần nữa, vào con đường phố chạy dài đến ba mươi năm đó. Con đường đã được lát đá trước đây, một trong những con đường người ta có thể đi nhanh. Nó đã làm thành một cái vòng tròn mà y vẫn còn ở trong đó. Mặc dù trong bảy ngày vừa qua y đã không thấy con đường lát đá nào, vậy mà y đã đi xa hơn là trong tất cả ba mươi năm qua. Và vậy mà y vẫn còn ở trong cái vòng tròn đó. ‘Vậy mà mình đã đi xa trong bảy ngày này hơn là trong tất cả ba mươi năm,’ y nghĩ. ‘Nhưng mình đã không bao giờ ra khỏi cái vòng tròn đó. Mình đã không bao giờ bẻ gãy cái vòng tròn của những gì mình đã làm và không bao giờ mình có thể xóa bỏ chúng,’ y lặng lẽ suy nghĩ, trong khi đang ngồi trên ghế chiếc xe la, và trước mặt y, trên cái chắn bùn, y thấy đôi giày của mình, đôi giày đen mang mùi người da đen: cái dấu này trên mắt cá chân y, cái máy đo chuẩn xác và không thể phá hủy được đó của thủy triều đen đang trườn lên đôi chân y, đang dâng từ hai bàn chân lên phía đầu, như cách cái chết di chuyển.