Chương 15
Ngày thứ sáu đó , ngày mà Christmas bị bắt ở Mottstown, một thị trấn mà trong số cư dân của nó thì có một cặp vợ chồng già mang họ Hines. Họ già lắm. Họ sống trong một cái “bơn-ghơ-lô” nhỏ nằm trong khu phố da đen; họ sinh hoạt ra sao, bằng cái gì, thị trấn nói chung không biết gì cả, bởi vì họ có vẻ sống trong tình trạng nghèo khổ gớm ghiếc và hoàn toàn ăn không ngồi rồi. Trong chừng mực mà thị trấn biết, lão Hines đã không làm việc, hay nói đúng hơn, không làm việc một cách đều đặn, từ hai mươi lăm năm nay.
Họ đến Mottstown cách đây ba mươi năm. Một ngày nọ, thị trấn bỗng thấy ra người đàn bà đã dọn vào ở căn nhà nhỏ đó, nơi mà họ đã sống từ ngày đó đến nay. Trong năm năm đầu tiên, Hines chỉ có mặt ở nhà một lần mỗi tháng, vào cuối tuần. Ít lâu sau, người ta biết là lão có một thứ chức vụ gì đó ở Memphis. Chính xác là cái gì, chẳng ai biết, vì ngay cả lúc đó lão đã là một con người cực kỳ kín đáo, đã có thể ở tuổi hoặc ba mươi lăm hay năm mươi. Và trong ánh nhìn của lão thì có cái gì đó cuồng tín một cách lạnh lùng, mãnh liệt, và hơi điên, khiến các câu hỏi và sự tò mò bị ngăn chặn lại. Thị trấn xem họ, cả hai người, như gàn gàn - cô độc, buồn bã, và so với phần lớn những đàn ông và đàn bà khác thì họ nhỏ con hơn một chút, như thể hai người họ thuộc về một chủng tộc khác, một giống loài khác. Tuy vậy, trong vòng năm hay sáu năm sau khi người đàn ông đó dường như trở lại định cư hẳn ở Mottstown, trong căn nhà nhỏ mà vợ lão sống, người ta vẫn thuê lão để làm các việc lặt vặt này nọ mà họ cho là không quá sức đối với lão. Nhưng rồi tới lúc lão cũng thôi làm hẳn. Thị trấn tự hỏi trong một lát, giờ đây họ sẽ sống ra sao, rồi không nghĩ tới nữa, giống như sau đó khi thị trấn biết ra là Hines đi bộ khắp trong quận tổ chức những buổi gặp gỡ nhằm gây dựng lại lòng mộ đạo trong các ngôi nhà thờ da đen, và thỉnh thoảng người ta thấy những người đàn bà da đen tay mang các thứ rõ ràng là các dĩa đồ ăn đi vào từ phía sau căn nhà nhỏ đó, nơi vợ chồng Hines sống, rồi đi ra tay không, thị trấn tỏ ra ngạc nhiên một lúc rồi cũng không nghĩ tới nữa. Bởi vì Hines thì già và vô hại, thị trấn cuối cùng thì quên đi, hay bỏ qua, nếu là một người trẻ thì nó hẳn không tha cho đâu. Thị trấn chỉ nói: “Họ khùng rồi, khùng về chuyện người da đen. Có lẽ họ là dân Yankee ,” và chấm dứt ở đó, không bàn thêm nữa. Hay có lẽ điều mà thị trấn tha thứ không phải là sự tận tâm cứu vớt linh hồn người da đen của Hines, mà là sự vô tri công cộng về cái sự việc là lão nhận sự bố thí từ tay người da đen, bởi vì một trong những khả năng tài tình của tâm trí là nó có thể vứt bỏ điều mà lương tâm từ chối đồng hóa.
Vậy là trong hai mươi lăm năm, cặp vợ chồng này đã không có phương tiện sinh sống rõ ràng, và thị trấn thì nhắm lại con mắt tập thể trước những người đàn bà da đen và những cái dĩa và những cái xoong được đậy kín, nhất là nhiều dĩa và xoong này chắc là đến còn nguyên từ nhà bếp của người da trắng mà những người đàn bà này nấu ăn. Có lẽ đây là một phần của những gì mà tâm trí vứt bỏ. Dù sao, thị trấn không săm soi, và từ hai mươi lăm năm nay hai người này đã sống khuất nẻo, trong sự cô lập đơn độc, như thể họ là hai con bò xạ đi lạc từ vùng Bắc Cực, hay là hai con thú chậm trễ và không có chỗ ở, từ trước cả thời kỳ sông băng.
Người ta hiếm khi thấy người đàn bà, nhưng người đàn ông - được mọi người gọi là Bác Doc - thì hầu như hiện diện thường xuyên ở quảng trường thị trấn: một ông già nhỏ con, bẩn thỉu với một bộ mặt, ngày xưa đã từng là hoặc can đảm hoặc hung bạo, bộ mặt hoặc của một người nhìn xa trông rộng, hoặc của một tên ích kỷ tột cùng. Lão không có mặc cổ cồn, áo quần bằng vải bông dệt chéo màu xanh trên người lão thì lúc nào cũng dơ dáy, và tay luôn luôn cầm một cây gậy trụi bóng bằng gỗ hồ đào Mỹ, mòn ở chỗ cầm, đen như gỗ óc chó và láng như gương. Ban đầu, khi còn có chức vụ gì đó ở Memphis, vào mỗi chuyến về nhà hàng tháng đó, lão có nói chút ít về mình, bằng sự tự tin của một người đàn ông tự do và độc lập, nhưng cũng bằng cái gì đó hơn thế nữa, như thể vào một giai đoạn trong đời lão, giai đoạn không xa đây lắm, lão đã là tốt hơn cả độc lập. Lão không có vẻ gì sợ sệt của một con chó từng bị đánh. Đúng hơn, lão mang vẻ tự tin của một người quen kiểm soát những người thua kém mình, và đã tự nguyện thay đổi đời mình vì một lý do mà lão tin rằng không ai có thể hỏi hay hiểu được. Nhưng những gì lão kể về mình và nghề nghiệp hiện tại của lão thì không có ý nghĩa gì cả, cho dù có vẻ mạch lạc. Vậy là họ tin là lão hơi bị khùng, ngay từ hồi đó rồi. Không phải là lão tìm cách giấu giếm một điều gì bằng cách nói ra một điều khác. Nhưng bởi vì những lời lẽ, những câu chuyện thuật lại của lão lại không ăn khớp với những gì mà các người nghe tin là (và phải là) ở trong khả năng của một cá nhân riêng lẻ. Đôi khi họ cả quyết lão đã từng là mục sư. Rồi lão nói về Memphis, về thành phố đó, theo một cách mơ hồ nhưng tuyệt vời, như thể lão đã trải qua cả đời mình giữ một chức vụ quan trọng tuy không tên trong một cơ quan của thành phố. “Hẳn vậy rồi,” bọn đàn ông ở Mottstown nói sau lưng lão; “lão là thanh tra của hãng xe lửa trên đó chớ bộ giỡn sao, ngày nào cũng đứng ở ngã tư có đường bộ cắt ngang để phất lên phất xuống cái cờ đỏ mỗi khi có xe lửa chạy qua,” hay “Lão là một nhà báo lớn chớ ít sao, chuyên đi nhặt nhạnh mấy tờ báo nằm dưới ghế đá công viên đó mà.” Họ không nói các điều này thẳng vào mặt lão, ngay cả những tên bạo mồm bạo miệng nhất, ngay cả những tên mang cái tiếng tăm được giữ gìn một cách bấp bênh là có đầu óc hóm hỉnh.
Rồi lão mất cái công việc đó ở Memphis, hay lão bỏ việc. Vào một cuối tuần, lão về nhà, và khi ngày thứ hai đến, lão vẫn không đi đâu cả. Và kể từ lúc đó, người ta thấy lão suốt ngày có mặt trong trung tâm thị trấn, ở quảng trường, mặt mũi u ám, áo quần dơ bẩn, và cặp mắt mang vẻ giận dữ, thù nghịch, mà người ta cho đó là sự điên khùng: cái vẻ của bạo lực cùng kiệt đó, nó giống như một mùi thơm hay như một cái mùi thường; sự cuồng tín đó, nó giống như than hồng đang lụi tàn, gần như tắt hẳn, một thứ truyền bá Phúc âm mang hai mặt khác nhau, một phần tư là niềm tin mãnh liệt và ba phần tư là sự gan dạ thô bạo. Vì vậy họ không tỏ ra ngạc nhiên lắm khi biết lão đi ngược, đi xuôi cả quận, thường là cuốc bộ, giảng đạo trong các nhà thờ da đen; và người ta cũng không thấy ngạc nhiên một năm sau khi họ biết được cái đề tài rao giảng của lão. Bởi vì cái tên da trắng này, mà sự sống còn thì tùy thuộc hầu như hoàn toàn vào lòng rộng rãi và sự bố thí của dân da đen, lại một thân, một mình đi vào những ngôi nhà thờ da đen xa xôi, hẻo lánh. Và ở đó, lão chặn ngang buổi lễ để bước lên bục giảng, và với cái giọng khàn đục, không âm vang, đôi khi bằng những lời lẽ cực kỳ tục tĩu, lão rao giảng cho người da đen đức khiêm tốn, nhún nhường trước tất cả con người có màu da sáng hơn da họ, rao giảng tính thượng đẳng của chủng tộc da trắng, tự đưa mình ra làm một vật chứng hạng A, bất chấp cái nghịch lý cuồng tín và vô ý thức đó. Những người da đen nghĩ rằng lão điên, rằng bàn tay của Chúa đã chạm đến lão hay chính lão có một lần đã chạm tới Chúa. Họ chắc là không nghe hay không thể hiểu gì nhiều những điều lão nói. Có lẽ họ coi lão như hiện thân của Chúa, bởi vì đối với họ, Chúa cũng là một người da trắng và những chuyện Ngài làm thì bao giờ cũng ít nhiều không thể giải thích được.
Chiều hôm đó lão đang ở dưới trung tâm thị trấn thì cái tên Christmas, lần đầu tiên, bay từ đầu đến cuối con phố chính. Ngay lập tức, con nít, người lớn - các người buôn bán, các nhân viên bàn giấy, rồi bọn ăn không ngồi rồi và những kẻ tò mò, và trội hơn hẳn là những nông dân với bộ quần yếm lao động trên người - bắt đầu chạy. Hines cũng chạy nữa. Nhưng lão không thể chạy nhanh, và khi lão đến thực sự, lão lại không đủ cao để nhìn qua vai người khác đang chen chúc nhau. Tuy nhiên, lão ra sức mở một lối đi giữa đám người đang tụ tập ồn ào, cũng tỏ ra thô bạo và nóng vội như bất cứ ai khác, như thể tính khí hung dữ cũ đã từng ghi dấu trên bộ mặt lão giờ đây bỗng dưng trỗi dậy. Lão bám lưng những người đứng trước và cuối cùng thì đánh họ với cây gậy cho tới khi những người đàn ông quay người, nhận ra lão và giữ chặt lão lại. Lão vùng vẫy chống cự, miệng la hét, tay đánh họ với cây gậy nặng. “Christmas?” lão hét to. “Người ta nói là Christmas, phải không?”
“Christmas!” một trong những người đang giữ lão lại hét to trả lời, vẻ mặt căng thẳng, mắt trừng giận dữ. “Christmas! Cái thằng mọi đen da trắng giết người ở Jefferson tuần trước đó!”
Lão Hines trừng mắt nhìn lại hắn, cái miệng không còn răng của lão hơi sùi bọt. Rồi lão vùng vẫy trở lại một cách dữ dội, chửi thề liên tục: yếu đuối, xương cốt mỏng mảnh và nhẹ như trẻ con, cái ông già nhỏ con này đang tìm cách tự giải thoát bằng cây gậy, tìm cách mở một lối đi bằng những cú đánh cho tới ngay giữa một nhóm người mà tên bị bắt đang đứng, mặt chảy máu. “Thôi đi, bác Doc!” họ nói, vẫn giữ lão lại; “Thôi đi, bác Doc ơi. Người ta đã tóm được y rồi. Y sẽ không chạy thoát được đâu. Thôi đi, thôi đi chớ!”
Nhưng lão vẫn vùng vẫy chống cự, cứ chửi thề, giọng quá khàn, nghe yếu ớt, miệng chảy nước dãi, trong khi những người nắm giữ lão lại cũng ra sức không kém, giống như những người cố giữ cái vòi nước nhỏ văng lên rớt xuống vì áp lực bên trong ống nước quá mạnh đối với kích cỡ của nó. Trong cả bọn, chỉ có tên bị bắt là tỏ ra bình tĩnh. Họ giữ chặt Hines, miệng lão vẫn chửi thề. Xương cốt già nua và yếu ớt, cơ bắp thì mỏng mảnh như sợi dây đàn của lão, tất cả cứ cử động, như bị thúc đẩy bởi một sự giận dữ mềm và trơn của một con chồn. Lão thoát ra được, nhảy vọt về phía trước, xô đẩy mọi người, và đến ngay trước mặt tên bị bắt. Lúc đó, lão tạm ngừng một khoảnh khắc, mắt nhìn trừng trừng khuôn mặt tên bị bắt giữ. Đó là một sự tạm ngừng trọn vẹn, nhưng trước khi họ có thể túm lấy lão lần nữa thì lão đã giơ chiếc gậy lên và đánh tên bị bắt được một lần và khi lão đang cố đánh y lần nữa thì họ cuối cùng chụp được lão. Tức điên người, nước dãi nhẹ, mỏng, ứa ra hai bên mép, lão đành bất lực để họ kềm kẹp. Nhưng cái miệng lão thì vẫn còn tự do. “Giết thằng con hoang đó đi!” lão gào lên. “Giết nó. Giết nó đi!”
Ba mươi phút sau, hai người đàn ông đưa lão Hines về nhà trên chiếc xe hơi. Một người cầm lái, trong khi người kia giữ lão ngồi yên ở phía sau. Bây giờ mặt lão thì xanh xao, dưới bộ râu cạo qua loa và các vết bẩn, và đôi mắt thì nhắm lại. Họ nhấc cả người lão ra khỏi xe, khiêng lão qua cổng nhà và lên lối đi bằng xi-măng và gạch đã bể, đến tận bậc tam cấp ở hàng hiên. Đôi mắt lão, bây giờ mở ra, thì trống không, tròng mắt đảo lộn đến nỗi chỉ còn thấy cái tròng trắng đục và xanh nhạt. Nhưng lão vẫn còn mềm rũ cả người và không tự đi đứng được. Ngay trước khi họ đến được hàng hiên thì cửa trước mở, bà vợ lão bước ra, đóng cánh cửa lại sau lưng và đứng đó nhìn họ. Họ biết bà là vợ lão vì bà từ trong nhà đi ra, cái nhà mà họ biết là lão sống ở đó. Một trong hai người đàn ông, tuy là cư dân của thành phố, đã không hề thấy bà trước đây. “Có chuyện gì vậy?” bà nói.
“Ổng không có sao cả,” tên đàn ông thứ nhất nói. “Chỉ có chuyện là dưới phố vừa mới có sự náo động lớn lắm, với trời nóng và tất cả mọi thứ khác, thì hơi quá sức đối với ổng.” Bà đứng trước cửa như thể ngăn chặn họ vào nhà - một mụ đàn bà nhỏ con, thấp và béo mập, với khuôn mặt tròn trĩnh như bột nhào dơ bẩn sẵn sàng để bỏ vào lò nướng, và những lọn tóc hiếm hoi còn lại được cột túm ra đằng sau. “Họ vừa tóm được thằng mọi đen Christmas, nó đã giết cái bà ở Jefferson tuần trước đó,” tên đàn ông nói. “Sự việc đã làm bác Doc hơi bị bối rối.”
Bà Hines đã quay người, như thể để mở cửa. Như tên đàn ông thứ nhất giải thích sau đó với bạn đồng hành của mình, bà ngừng lại nửa chừng trong khi quay người như thể bà bị ai đó ném trúng một viên sỏi, nhẹ thôi. “Tóm được ai?” bà nói.
“Christmas,” tên đàn ông nói. “Cái thằng mọi đen sát nhân đó. Christmas.”
Bà đứng trên bờ hàng hiên, nhìn xuống họ với bộ mặt tái xám và bất động. “Như thể bả đã biết tao định nói với bả điều gì,” tên đàn ông nói với bạn khi hai người quay lại xe. “Như thể bả muốn tao nói với bả cùng lúc là chính y đó và không phải y.”
“Mặt mũi y ra sao?” bà nói.
“Tôi đã không để ý lắm,” tên đàn ông nói. Người ta phải làm y đổ máu chút đỉnh mới bắt y được. Một tên trẻ lắm. Y trông đâu có vẻ mọi đen hơn tôi.” Người đàn bà nhìn họ, nhìn xuống họ. Hines bây giờ đứng được trên đôi chân của mình, giữa hai tên đàn ông, miệng lẩm bẩm cái gì không rõ, như thể ông đang tỉnh ngủ. “Bà muốn tụi tôi làm gì với bác Doc đây?” tên đàn ông nói.
Bà không trả lời gì cả. Như thể bà không nhận ra ngay cả chồng mình, như tên đàn ông nói với bạn sau đó. “Họ sẽ làm gì y?” bà nói.
“Y nào?” tên đàn ông nói. “Ồ, thằng mọi đen. Việc này thì do Jefferson quyết định. Y thuộc về họ ở trên đó mà.”
Bà nhìn xuống họ, vẫn với vẻ mặt xám ngắt, bất động, xa cách. “Họ có định chờ Jefferson không?”
“Họ nào?” tên đàn ông nói. “Ồ,” hắn nói. “Mottstown phải chờ chớ, nếu Jefferson không chậm trễ quá.” Hắn đổi cách nắm chặt cánh tay ông già Hines. “Bà muốn tụi tôi để ổng ở đâu?” Lúc đó, người đàn bà cử động. Bà bước xuống bậc tam cấp và đến gần. “Tụi tôi mang ổng vào nhà giúp bà nghe,” tên đàn ông nói.
“Tôi mang ổng được mà,” bà nói. Bà cao gần bằng Hines, nhưng bà mập hơn. Bà ôm lấy lão dưới hai vai. “Eupheus,” bà nói khe khẽ; “Eupheus.” Bà nói với hai người đàn ông, một cách điềm tĩnh: “Thả ổng ta. Tôi giữ ổng được mà.” Họ buông lão ra. Bây giờ, lão bước đi được chút ít. Họ nhìn bà dìu lão bước lên bậc tam cấp và đi qua cửa. Bà không nhìn ra sau lấy một lần.
“Bả thậm chí không nói lời cám ơn tụi mình,” tên đàn ông thứ hai nói. “Có lẽ tụi mình phải bắt ổng lại và tống ổng vào tù với thằng mọi đen, bởi vì ổng có vẻ biết y nhiều lắm mà.”
“Eupheus,” tên đàn ông thứ nhất nói. “Eupheus. Cả mười lăm năm nay tao cứ loay hoay tự hỏi không biết tên ổng là gì. Eupheus.”
“Đi nào, quay lại phố đi. Tao không muốn bị hụt bất cứ chuyện gì.”
Tên đàn ông đầu tiên nhìn căn nhà, nhìn cánh cửa đóng mà qua đó hai ông bà già đã biến mất. “Bả cũng biết y nữa đó.”
“Biết y nào?”
“Thằng mọi đen đó. Christmas.”
“Thôi đi.” Họ quay lại chiếc xe hơi. “Mày nghĩ gì về cái thằng trời đánh đó, ai đời y dám xách mặt đến giữa thị trấn này đây, cách chỗ y phạm tội có hai mươi dặm chớ mấy, đi lên đi xuống ở con phố chính cho tới khi ai đó nhận ra y. Giá mà chính tao nhận ra y thì hay biết mấy. Tao đã có thể xài một ngàn đô-la đó. Nhưng khổ cái là tao không bao giờ được may mắn!” Xe đi tiếp. Tên đàn ông thứ nhất vẫn còn ngoái nhìn cái cánh cửa đóng im ỉm mà qua đó hai người già đã biến mất.
Cặp vợ chồng già bây giờ đứng trong hành lang căn nhà nhỏ, hẹp, tối tăm, bốc mùi hang động. Lão già đang ở trong tình trạng kiệt sức, gần như hôn mê, và khi bà vợ dìu lão đến bên ghế bành và giúp lão ngồi xuống, thì dường như đó chỉ còn là việc độc nhất phải làm. Nhưng không cần thiết phải quay ra khóa cửa trước; thế mà bà đã làm vậy. Sau đó, bà đến đứng bên lão một lát. Thoạt đầu, bà có vẻ theo dõi tình trạng lão, lo lắng và ân cần. Rồi, nếu có một người thứ ba thì người này hẳn thấy là bà đang run cầm cập, là bà đỡ lão ngồi vào ghế bành hoặc vì sợ để lão ngã xuống đất, hoặc nhằm giữ lão như thằng tù cho đến khi bà có thể lên tiếng. Bà khom người phía trên lão: thấp và mập phì, da tái xám, bộ mặt trông giống người chết trôi. Giọng bà run rẩy khi nói, và bà cố gắng giữ bình tĩnh tuy người còn run, hai bàn tay bấu chặt cái tay dựa của chiếc ghế bành mà trong đó lão nửa nằm, nửa ngồi. Bà nói, giọng run run, kiềm chế: “Eupheus này, ông hãy nghe tôi. Ông phải nghe tôi đây này. Tôi đã không bao giờ quấy rầy ông cho tới nay. Trong ba mươi năm tôi đã không quấy rầy ông. Nhưng bây giờ tôi định làm phiền ông đó. Tôi muốn biết. Và ông phải nói cho tôi biết. Ông đã làm gì với đứa con sơ sinh của Milly?”
***
Trong cả buổi chiều dài lê thê, đám đông tụ tập ở quảng trường và trước nhà ngục - các nhân viên văn phòng, bọn ăn không ngồi rồi, những nông dân trong bộ quần yếm lao động. Và đủ thứ chuyện được kể ra. Chúng chạy hết đầu phố này đến đầu phố kia, chết đi, sống lại, như lửa, như gió, cho đến khi, dưới bóng chiều đổ dài, những người nông dân bắt đầu quay về làng trên các chiếc xe la hay các xe hơi đầy bụi và dân thị trấn bắt đầu quay về nhà ăn tối. Rồi các câu chuyện lại trỗi lên lần nữa, được khơi lại trong chốc lát cho các mụ đàn bà, cho các gia đình trong bữa tối, bên bàn ăn, trong các căn phòng thắp sáng bằng điện cũng như trong các căn lều thắp đèn dầu lửa nằm trong các ngọn đồi hẻo lánh. Và vào ngày hôm sau, tức ngày chủ nhật ở miền quê, chậm rãi, dễ chịu, với áo sơ-mi sạch sẽ, với dải đeo quần sặc sỡ, với tẩu thuốc an nhàn, trong khi họ ngồi xung quanh các nhà thờ đồng quê hay trong các sân nhà có bóng mát, nơi mà những cỗ xe la hay xe ngựa, những chiếc xe hơi đến thăm viếng, được buộc vào, hay đậu dọc theo, hàng rào và trong các nhà bếp, các bà, các cô xúm xít nấu ăn, họ lại kể những câu chuyện một lần nữa: “Y trông đâu có vẻ mọi đen hơn tôi. Nhưng chắc chắn là vì y có cái máu da đen trong người. Dường như y đã cố tình để cho bị tóm, giống như một tên đàn ông cố tình đi lấy vợ vậy. Cả một tuần người ta đã không thấy mặt mũi y đâu. Nếu y không châm lửa đốt cái nhà đó thì cả tháng sau chưa chắc họ đã tìm ra cái chuyện giết người. Và lúc đó họ đã không nghi y là can phạm nếu không có cái thằng cha tên là Brown, mà tên mọi đen thuê để bán rượu uýt-ki đó, trong khi y ra sức giả bộ mình là người da trắng và tìm cách đổ tội cho Brown, cả chuyện uýt-ki lẫn chuyện giết người, và Brown đã nói ra sự thật.
“Rồi sáng hôm qua y đến Mottstown, giữa thanh thiên bạch nhật đó nghe, lại nhằm ngày thứ bảy, ngày mà thị trấn luôn đầy người. Y đi đến tiệm cắt tóc da trắng, như một người da trắng, và vì y trông như người da trắng nên họ không hề nghi ngờ y. Ngay cả khi tên đánh giày thấy ra đôi giày xăng đá cũ mà y đang mang thì quá to đối với y, họ cũng không nghi ngờ gì cả. Họ cạo râu, cắt tóc cho y và y trả tiền rồi đi ra, đi thẳng tới tiệm áo quần mua cho mình một cái sơ-mi mới, một cà-vạt, một mũ rơm với chính tiền bạc mà y lấy trộm từ người đàn bà y đã sát hại trước đó. Và rồi y bắt đầu đi tản bộ trên các đường phố, ngay giữa ban ngày ban mặt đó, như thể thị trấn thuộc về y. Y đi ngược, đi xuôi, và người ta đi ngang qua y cả chục lần mà không nhận ra y, cho tới khi tên Halliday chợt thấy y, chạy đến y và vừa đưa tay chộp y vừa nói: ‘Tên mày là Christmas phải không?’ và thằng mọi đen nói đúng vậy. Y không hề tìm cách chối bỏ điều này. Y không tìm cách làm bất cứ chuyện gì. Y không hề xử sự như một thằng mọi đen hay như một người da trắng. Đúng vậy đó. Đó là điều làm cho người ta tức bể bụng. Nghĩ thử coi, một thằng sát nhân ăn mặc đẹp đi dạo phố, như muốn thách thức mọi người đụng đến y, trong khi đáng lẽ y phải trốn chui, trốn nhủi trong bụi rậm, trong rừng cây, chạy sốt vó từ nơi này sang nơi khác, người thì bẩn thỉu và đầy bùn chớ. Y đi dạo phố như thể y thậm chí không hề biết mình là tên giết người, chưa tính đến y cũng là mọi đen nữa.
“Và vậy là tên Halliday (hắn rất là phấn khích, nghĩ về một ngàn đô-la đó, hắn đã đấm vào mặt tên mọi đen vài cú, và tên mọi đen đó lần đầu tiên cư xử như một tên mọi đen bằng cách nhận lãnh những cú đánh mà không nói gì cả: buồn rầu, im lặng, cam lòng để chảy máu) - Trong khi Halliday vừa giữ y, vừa la hét, một lão già mà họ gọi là bác Doc Hines đến gần và bắt đầu vung gậy đánh tên mọi đen cho đến khi có hai tên đàn ông cuối cùng phải giữ chặt lão lại đưa lão về nhà bằng xe hơi. Không ai biết là lão thực sự biết tên mọi đen hay không. Bước thấp, bước cao, lão tự dẫn xác đến, miệng kêu ỏm tỏi, ‘Có phải tên nó là Christmas không? Các người đã gọi nó là Christmas phải không?’ và lão xô lấn mọi người, nhìn tên mọi đen một lần và rồi bắt đầu đánh y bằng cây gậy chống. Lão hành động như thể bị thôi miên hay cái gì tương tự như vậy. Họ phải giữ chặt lão lại, và cặp mắt lão đảo đến nỗi chỉ thấy cái tròng màu xanh, miệng thì chảy nước dãi và lão vung gậy đánh tới tấp lên những gì trong tầm tay cho tới khi lão phần nào nằm xoài ra một cách đột ngột. Rồi hai tên đàn ông mang lão về nhà bằng xe hơi và bà vợ lão ra ngoài và dìu lão vô nhà, và hai tên đàn ông đó quay lại phố. Họ không biết có gì không ổn nơi lão, tại sao lão lại tỏ ra quá kích động sau khi tên mọi đen bị bắt, nhưng dù sao đi nữa họ nghĩ là bây giờ thì lão bình thường lại rồi. Nhưng ai ngờ là chưa đầy nửa giờ sau lão lại xuất hiện ở trung tâm thị trấn. Lần này thì lão điên hết thuốc chữa rồi, đứng ở góc đường, la hét vào mặt người qua kẻ lại, chửi họ là đồ hèn nhát vì họ không muốn xách tên mọi đen ra khỏi ngục để treo cổ y ngay lập tức, không hơn, không kém, có Jefferson hay không Jefferson. Lão có bộ mặt của một tên điên, như một ai đó trốn khỏi nhà thương điên và biết mình không có nhiều thời gian trước khi bị bắt lại. Có những người nói rằng trước đây lão cũng là một người giảng đạo.
“Lão nói lão có quyền giết tên mọi đen mà. Lão không hề nói tại sao, và lão thì quá phấn khích, quá điên rồ để có thể nói cho đúng lẽ, ngay cả khi có người chịu khó dừng lại để hỏi lão. Giờ thì có một đám người khá đông tụ tập quanh lão, và lão gào lên là chính lão mới có quyền quyết định nếu tên mọi đen phải chết hay phải sống. Và trong khi người ta bắt đầu nghĩ rằng có lẽ chỗ của lão là trong nhà tù với tên mọi đen thì bà vợ lão đến.
“Có những người sống ở Mottstown từ ba mươi năm nay mà chưa bao giờ thấy bà. Họ chỉ biết bà là ai khi bà mở miệng nói chuyện với lão, bởi vì những người đã thấy bà trước đó, thì bà bao giờ cũng loanh quanh ở căn nhà nhỏ đó, trong Niggertown [101] , nơi những người này sinh sống, mặc chiếc áo đầm nhà quê [102] và đội một trong những cái mũ cũ rích của chồng. Nhưng lúc này thì bà ăn vận chỉnh tề. Bà mặc một cái áo đầm lụa màu tím, đội cái mũ có gắn lông và tay cầm dù, và bà đến gần đám đông, nơi lão đang la hét và gào thét, và bà nói, ‘Eupheus.’ Lão ngừng la hét rồi lão nhìn bà, cây gậy trong tay vẫn còn giơ cao thì run rẩy, miệng há hốc với nước dãi chảy ra. Bà nắm lấy cánh tay lão. Nhiều người sợ đến gần lão vì cây gậy đó, vì lão có vẻ sẵn sàng vung gậy đánh bất cứ ai, bất cứ lúc nào mà không tự nhận ra hay muốn làm vậy. Nhưng bà bước thẳng đến dưới cây gậy, nắm lấy cánh tay lão và dẫn lão tới tận một cái ghế có sẵn đó, trước một cửa tiệm, và bà đỡ lão ngồi xuống ghế và bà nói, ‘Ông ở yên đây cho đến khi tôi trở lại. Không đi đâu cả bây giờ. Và đừng la hét nữa.’
“Và lão làm theo. Y chang lời bà dặn. Lão ngồi yên đó, nơi bà đặt lão ngồi, và bà thì cũng không ngoái đầu nhìn lại. Mọi người đều nhận thấy điều đó. Có lẽ vì người ta không hề thấy bà, ngoại trừ ở nhà bà hay quanh nhà bà. Và vì người ta biết lão là một lão già hung dữ đến độ một người đàn ông phải dòm trước ngó sau mỗi khi đến gần lão. Dù sao, mọi người đều ngạc nhiên. Họ chưa hề nghĩ tới trước đây là lão có thể chấp nhận mệnh lệnh từ ai đó. Như thể bà biết những chuyện về lão, và lão không thể làm gì khác hơn là phải nghe theo lời bà. Vì lão ngồi xuống khi bà biểu, trên cái ghế đó, bây giờ không la hét hay ăn nói huênh hoang nữa, nhưng cái đầu gục xuống, hai bàn tay run rẩy trên chiếc gậy to đó, và một ít nước dãi vẫn còn chảy ra khỏi miệng, xuống áo sơ-mi của lão.
“Bà đi thẳng tới nhà tù. Có một đám đông rất lớn tụ tập trước cổng, bởi vì Jefferson đã cho biết là họ đang trên đường xuống Mottstown để nhận tên mọi đen. Bà đi xuyên thẳng qua đám đông và vào tận bên trong nhà tù và bà nói với tên Metcalf, ‘Tôi muốn thấy người đàn ông mà họ bắt.’
“‘Bà muốn thấy y để làm gì?’ Metcalf nói.
“‘Tôi sẽ không quấy rầy y đâu,’ bà nói. ‘Tôi chỉ muốn nhìn y thôi.’
“Metcalf trả lời rằng có nhiều người khác cũng muốn làm như bà, rằng hắn biết là bà không có ý định giúp tên mọi đen trốn đi, nhưng hắn chỉ là tên cai ngục và hắn không thể để cho bất cứ ai vào mà không có sự cho phép của ông cò. Và bà đứng đó, trong cái áo đầm tím đó và ngay cả cái lông chim trên mũ cũng không động đậy hay đu đưa, vì bà đứng bất động quá sức. ‘Ông cò ở đâu?’ bà nói.
“‘Ổng ở văn phòng ổng, có lẽ vậy,’ Metcalf nói. ‘Bà đi gặp ổng xin phép rồi tôi sẽ để bà thấy thằng mọi đen.’ Metcalf nghĩ là sự việc sẽ dừng ở đó. Vậy là y nhìn bà quay người đi ra, đi xuyên qua đám đông tụ tập trước nhà tù và đi lên con đường hướng về phía quảng trường. Cái lông chim bây giờ động đậy. Hắn thấy nó đu đưa phía trên hàng rào. Và rồi hắn thấy bà băng qua quảng trường và đi vào tòa thị sảnh. Người ta không biết bà đến đó làm gì, bởi vì Metcalf đã không có thì giờ kể cho họ nghe chuyện xảy ra trước đó trong nhà tù. Họ chỉ nhìn bà bước vào bên trong tòa thị sảnh, và rồi tên Russell kể là hắn đang làm việc ở văn phòng, tình cờ ngước mắt nhìn lên và thấy cái mũ đó, với cái lông chim ở trên, ngay sau cửa sổ, bên kia quầy. Hắn không biết bà đã đứng đó bao lâu, chờ hắn nhìn lên. Hắn nói bà cao vừa đủ để nhìn qua quầy để mà bà có vẻ không có thân hình bên dưới cái đầu. Như thể có ai đó lén lút chui vào và đặt lên sàn nhà một quả bóng làm bằng bao tử cừu mà trên đó có vẽ một mặt người với một cái mũ hề, giống như những đứa bé Katzenjammer [103] trong tờ báo hài hước. ‘Tôi muốn gặp ông cò,’ bà nói.
“‘Ổng không có đây,’ Russell nói. ‘Tôi là phụ tá của ổng. Tôi có thể giúp bà được gì?’
“Hắn nói bà không trả lời trong một lát, cứ đứng tại chỗ. Rồi bà nói, ‘Tôi có thể tìm ổng ở đâu?’
“‘Ổng có lẽ ở nhà ổng,’ Russell nói. ‘Ổng rất bận rộn cả tuần nay. Đôi khi thức khuya, để giúp mấy cha cảnh sát ở Jefferson. Có lẽ ổng ở nhà ngủ chợp một lát đó. Nhưng có lẽ tôi có thể -’ Nhưng hắn nói là bà đã đi rồi. Hắn nói hắn nhìn qua cửa sổ và thấy bà đang băng qua quảng trường, quẹo sang con đường mà ông cò cư ngụ. Hắn nói hắn vẫn đang ráng nhận dạng bà, ráng nghĩ cho ra bà là ai.
“Bà không hề tìm được ông cò. Vả lại, lúc đó là đã trễ rồi. Bởi vì ông cò đã có mặt trong nhà tù từ trước, chỉ phải cái là tên cai ngục Metcalf đã không nói với bà, và ngoài ra, bà vừa mới ra khỏi nhà tù thì những tên cảnh sát của Jefferson đến trên hai chiếc xe hơi và đi vào trong đó. Họ vội vã đến và vội vã đi vào, nhưng tiếng đồn đã nhanh chóng lan ra là họ có mặt ở nhà tù, và chắc là cũng có đến hai trăm đàn ông, đàn bà, con nít trước nhà tù khi hai ông cò xuất hiện trước cổng và ông cò của tụi mình mở miệng diễn thuyết, yêu cầu dân chúng tôn trọng luật pháp và chính ông và ông cò Jefferson, cả hai hứa là tên mọi đen sẽ được xét xử nhanh chóng và công bằng; và rồi ai đó trong đám đông nói, ‘Công bằng? Tụi tui đếch cần! Thằng mọi đen có công bằng với người đàn bà da trắng đó không chớ?’ Và mọi người bắt đầu vừa la hét, vừa chen lấn, như thể họ hét to điều này điều nọ cho người đàn bà đã chết chớ không phải cho hai ông cò. Nhưng ông cò Mottstown tiếp tục nói với họ một cách điềm tĩnh. Ông nói rằng ông đã cố gắng giữ lời hứa mà ông đã nói với họ vào cái ngày họ bầu chọn ông. ‘Tôi không có cảm tình với những thằng mọi đen sát nhân nhiều hơn bất cứ người da trắng nào ở đây,’ ông nói. ‘Nhưng tôi đã tuyên thệ, và có Chúa làm chứng, tôi có ý định giữ lời tuyên thệ đó. Tôi không muốn sinh chuyện rắc rối nhưng nếu cần thì tôi sẽ không lẩn tránh nó đâu. Các người nên suy nghĩ kỹ một lát đi.’ Và Halliday cũng ở đó nữa, với hai ông cò. Đó là người thành tâm ủng hộ lẽ phải và trật tự nhất. ‘Được rồi,’ ai đó trong đám đông hét lên; ‘tụi tôi nghĩ là ông không muốn nó bị thiêu sống hay treo cổ [104] . Nhưng đối với tụi tôi, nó đâu có đáng giá một ngàn đô-la; nó đâu đáng giá một ngàn que diêm đã cháy.’ Và ông cò nói nhanh: ‘Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Halliday không muốn nó bị giết hả? Bộ chúng ta không muốn cùng một thứ sao? Đây, một công dân địa phương sẽ lãnh tiền thưởng: số tiền này sẽ được tiêu xài ngay đây, tại Mottstown này. Hãy giả dụ là một người ở Jefferson lãnh được tiền thưởng này đi! Bộ không đúng sao, các bạn? Bộ không hợp lý sao?’ Giọng ông cò nghe nhỏ, như giọng con búp bê, thậm chí nghe như giọng một người to con khi ông ta nói, không phải trái với ý muốn của đám người nghe mà trái với những đầu óc mang sẵn những định kiến nửa vời.
“Dù sao, điều đó có vẻ thuyết phục được họ, dù là mọi người biết rõ rằng, nếu Halliday chính là người tiêu xài một ngàn đô-la đó thì Mottstown hay bất cứ nơi nào khác sẽ không hưởng sái đủ để nuôi một con bê cho mập. Nhưng điều đó đủ thuyết phục họ. Con người ta thật là kỳ cục. Họ chỉ gắn bó với một ý tưởng hay một hành động nếu họ tìm ra một lý do mới mẻ để lặp lại thường xuyên cái ý tưởng hay hành động đó. Và rồi khi họ thực sự tìm ra lý do mới này thì dù sao cũng có khả năng là họ thay đổi. Vì vậy mà họ không trở lại đúng như ý định ban đầu; giống như khi trước đám đông có vẻ di chuyển từ trong ra ngoài, bây giờ nó có vẻ di chuyển từ ngoài vào trong. Và hai ông cò biết điều này, giống như hai ông biết là sự yên ổn này có lẽ sẽ không kéo dài được lâu. Vì vậy hai ông hấp tấp vào lại trong nhà tù rồi lại đi ra ngay, hầu như trước khi có đủ thì giờ để quay người, với tên mọi đen kẹp giữa hai ông và năm hay sáu viên cảnh sát theo sau. Họ chắc là đã giữ tên mọi đen ở gần họ, ngay sau cánh cửa nhà tù trong suốt thời gian đó, bởi vì họ đi ra ngoài lại gần như tức khắc, với tên mọi đen đi giữa họ, mặt mày ủ rũ, tay bị còng với tay ông cò Jefferson; và đám đông xì ra một chút tiếng nói, ‘Ahhhhhhhhhhhhh.’
“Họ mở ra một thứ lối đi giữa đám đông ra tới đường, nơi chiếc xe hơi thứ nhất của Jefferson đang đợi, máy nổ sẵn, một người đàn ông ngồi sau tay lái; và không để mất đi một phút, hai ông cò tiến lại gần, khi người ta chợt thấy bà xuất hiện lại, người đàn bà đó, bà Hines đó. Bà đã xô lấn trong đám đông. Bà nhỏ con đến nỗi người ta chỉ thấy cái lông chim đong đưa rất chậm, giống như cái gì đó đã không thể di chuyển rất nhanh dù không có chướng ngại vật trên đường, nhưng không có gì có thể ngăn cản nó được, giống như cái máy kéo vậy. Bà chen lấn xuyên qua đám đông, lần hồi đến được cái lối đi mà đám đông mở ra, và bà bước ra ngay trước mặt hai ông cò đi kèm tên mọi đen khiến họ phải ngừng lại để khỏi giẫm lên bà. Bộ mặt bà trông như một cục mát-tít to tướng, và cái mũ thì bị lệch sang một bên khi xô đẩy nên cái lông chim giờ treo ngang trước mặt bà và bà phải đẩy nó lên để thấy. Nhưng bà không làm gì cả. Bà chỉ khiến họ đứng sững lại trong một phút trong khi bà đứng đó, nhìn tên mọi đen. Bà không nói một lời. Như thể đó là tất cả những gì bà muốn, như thể đó là lý do mà bà quấy rầy mọi người, như thể đó là mục đích mà bà đã ăn mặc tề chỉnh và bỏ công đi xuống phố: chỉ để nhìn tận mặt tên mọi đen, một lần. Thật vậy, bà quay lưng và len qua đám đông lần nữa, và khi các chiếc xe hơi ra đi với tên mọi đen và đám cảnh sát của Jefferson, khi người ta nhìn quanh, thì bà đã biến mất. Và mọi người quay lại quảng trường, bác Doc cũng đã biến khỏi cái ghế mà bà đã đặt lão ngồi và biểu lão chờ. Nhưng không phải tất cả mọi người đều quay lại quảng trường ngay tức khắc đâu. Nhiều người còn nán lại đây để nhìn vào nhà tù, như thể chỉ có cái bóng của tên mọi đen là đi ra thôi.
“Người ta nghĩ bà đã đưa bác Doc về nhà. Chuyện xảy ra đằng trước cửa tiệm của tên Dollar và Dollar kể là mình đã thấy bà trở lại trên con đường đó, đi trước đám đông. Hắn nói là bác Doc không có cử động, vẫn ngồi yên như thể bị thôi miên trên chiếc ghế mà bà đã đặt lão xuống, cho tới khi bà đến gần và đưa tay chạm vào vai lão. Rồi lão đứng dậy và hai người cùng nhau bỏ đi trong khi Dollar vẫn đưa mắt dõi theo lão. Và Dollar nói, nếu nhìn vẻ mặt vui vẻ của bác Doc lúc đó thì nhà lão đúng là nơi nên quay về.
“Chỉ tội cái là bà không hề đưa lão về nhà. Sau một lát, người ta thấy là bà không phải đưa lão đi đâu cả. Như thể cả hai người đều muốn làm cùng một chuyện. Cùng một chuyện nhưng với những lý do khác nhau, và mỗi người đều biết lý do của người kia thì khác mình, và bất cứ ai trong hai người làm được theo ý mình thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho người kia. Như thể cả hai người đều biết điều này mà không nói ra và người này theo dõi người kia, và cả hai người cũng biết là chính bà mới là người khởi sự công việc tốt nhất.
“Họ đi thẳng tới chỗ cho thuê xe hơi của tên Salmon. Chỉ mình bà nói chuyện. Bà nói vợ chồng bà muốn đi Jefferson. Có lẽ họ không hề tưởng tượng là Salmon có thể đòi họ trả hơn hai mươi lăm xen mỗi người, bởi vì khi hắn nói ba đô-la, bà bắt hắn lặp lại, như thể bà không thể tin nổi tai mình. ‘Ba đô-la,’ Salmon nói. ‘Tôi không thể lấy ít hơn.’ Và họ đứng đó, và lão Hines không nói gì. Lão có vẻ chờ, như thể cho mình không dính dáng gì, như thể lão biết mình không cần bận tâm: bà sẽ đưa hai người đến Jefferson, bằng cách này hay cách nọ.
“‘Tôi không thể trả được cái giá này,’ bà nói.
“‘Bà không thể tìm đâu ra rẻ hơn,’ Salmon nói. ‘Trừ phi đi xe lửa. Họ chỉ lấy năm mươi hai xen mỗi người thôi.’ Nhưng bà đã bỏ đi, bác Doc lật đật theo sau như con chó.
“Lúc đó là khoảng bốn giờ chiều. Cho đến sáu giờ, người ta thấy họ ngồi trên chiếc ghế dài trong sân tòa thị sảnh. Họ không nói chuyện với nhau, trông như người này thậm chí không hề biết người kia cũng có mặt tại đây. Họ chỉ ngồi bên cạnh nhau. Bà thì ăn mặc tề chỉnh trong trang phục dành cho ngày chủ nhật. Có lẽ bà hài lòng thấy mình ở trung tâm thành phố vào một buổi tối thứ bảy, trên người ăn mặc chỉnh tề. Đối với bà, điều này thì tương tự như đi du hí cả ngày ở Memphis đối với những người khác.
“Họ ngồi đó cho đến khi đồng hồ điểm sáu giờ. Rồi họ đứng dậy. Những người thấy cảnh này thì nói là bà không nói với lão một lời; là họ đứng dậy cùng lúc như hai con chim cùng vỗ cánh bay từ một cành cây mà người ta không thể nói con nào trong hai con đã ra hiệu. Khi họ đi, bác Doc đi sau bà một chút. Họ băng qua quảng trường như vậy và quẹo sang con đường dẫn đến nhà ga. Và người ta biết là không có chuyến tàu nào trước chín giờ tối và tự hỏi không biết hai người này thực sự có đi đến nơi nào đó bằng tàu lửa không. Nhưng người ta thấy ra ngay sau đó là họ sắp sửa làm một chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn. Họ đi đến một tiệm cà phê nhỏ gần nhà ga và họ ăn tối ở đó - họ, từ ngày đến Mottstown, đã không bao giờ thấy đi xuống phố cùng nhau, chưa nói đến chuyện ngồi cà phê với nhau. Nhưng đó là nơi bà đưa lão tới; có lẽ họ sợ trễ tàu nếu họ ăn tối dưới trung tâm thị trấn. Bây giờ thì chưa đến sáu giờ rưỡi và họ ngồi ăn trước quầy, trên hai trong những chiếc ghế đẩu, ăn những gì bà gọi mà không hỏi ý bác Doc chút nào. Bà hỏi tên chủ tiệm về giờ tàu đi Jefferson và y trả lời là có chuyến hai giờ sáng. ‘Jefferson đêm nay thì thiệt là náo nhiệt,’ y nói. ‘Bà có thể thuê xe hơi ở dưới trung tâm thị trấn và sẽ đến Jefferson trong vòng bốn mươi lăm phút. Bà đâu cần phải đợi tàu lửa tới hai giờ sáng.’ Có lẽ y nghĩ họ là những người xa lạ; y còn nói cho bà biết cách đi xuống phố nữa!
“Nhưng bà không nói gì và họ ăn xong, bà trả tiền cho y bằng các đồng tiền năm xen và mười xen mà bà rút ra từng đồng một từ miếng giẻ được cột túm lại, cất trong cái dù. Bác Doc vẫn ngồi yên đó, vẻ mặt lạc lõng như người mộng du. Rồi họ rời đi, và tên chủ tiệm cà phê nghĩ rằng họ sẽ nghe theo lời khuyên của y mà đi vào phố và thuê xe hơi nhưng khi y nhìn ra ngoài thì thấy họ đang băng qua chỗ bẻ ghi để đi về hướng nhà ga. Y có ý gọi họ nhưng thôi. ‘Mình cho là mình đã hiểu lầm bả,’ y kể lại là y đã nghĩ như vậy. ‘Có lẽ đó là chuyến tàu chín giờ tối mà họ muốn đi, chuyến tàu xuôi Nam đó.’
“Họ đang ngồi trên chiếc ghế dài trong phòng đợi khi có những người hành khách, những kẻ chào hàng, những tên vô công rồi nghề và đại loại như vậy, bắt đầu đến nhà ga và mua vé cho chuyến tàu chạy về phía Nam. Tên nhân viên nhà ga kể là lúc bảy giờ rưỡi, khi trở lại sau bữa ăn tối, y nhận ra là có vài người trong phòng đợi. Nhưng y chẳng thấy có gì đặc biệt cho tới khi bà đến trước cửa bán vé hỏi giờ tàu đi Jefferson. Y nói lúc đó y đang bận, y chỉ ngước mắt và nói, ‘Ngày mai,’ chớ không ngừng làm cái việc đang làm. Sau đó, y kể là một lát sau có cái gì đó khiến y nhìn lên, và cái mặt tròn đó vẫn còn đó, đang nhìn y và cái lông chim đó vẫn ở trước cửa bán vé, và bà nói,
‘Tôi muốn mua hai vé cho chuyến tàu đó.’
“‘Tàu đó tới hai giờ sáng mới chạy mà,’ tên nhân viên nói. Y cũng không nhận ra bà. ‘Nếu bà muốn tới Jefferson nhanh chóng thì tốt hơn bà nên xuống phố thuê xe hơi mà đi. Bà có biết đường đi xuống phố không?’ Nhưng y nói bà chỉ đứng đó, tay đếm các đồng năm và mười xen lôi ra từ miếng giẻ rách được cột túm lại đó, và y đưa cho bà hai tấm vé rồi y nhìn ra qua bà và thấy bác Doc và vậy là y biết bà là ai. Và y nói hai người vẫn ngồi đó, các hành khách cho chuyến tàu xuôi Nam vào nhà ga, con tàu đó đến rồi đi và họ vẫn còn ngồi đó. Y nói bác Doc vẫn có vẻ đang ngủ, hay bị ảnh hưởng thuốc mê hay đại loại như vậy. Rồi con tàu rời đi, nhưng có những người hành khách không quay về phố mà nán lại ở nhà ga, nhìn vào cửa bán vé, và thỉnh thoảng họ vào trong nhìn bác Doc và bà vợ ngồi trên ghế dài, cho đến khi tên nhân viên tắt đèn ở phòng đợi.
“Vài người còn nán lại, ngay cả sau lúc đó. Họ nhìn qua cửa sổ và thấy hai người vẫn ngồi đó, trong bóng tối. Có lẽ họ thấy cái lông chim, và cái đầu bạc của bác Doc. Và rồi bác Doc bắt đầu tỉnh giấc. Không phải vì lão tỏ ra ngạc nhiên thấy mình trong nơi chốn này, cũng không phải vì lão thấy mình ở chỗ mà lão không muốn. Lão chỉ thức dậy, như thể lão đã tắt máy xe mà lao xuống dốc rất lâu, giờ là lúc phải mở máy cho xe chạy lại. Họ nghe bà nói với ông ‘Shhhhhhh. Shhhhhhhhh,’ nhưng rồi giọng ông vang lên oang oang. Hai người còn ngồi đó khi tên nhân viên bật đèn lại và biểu họ là con tàu hai giờ sáng đang đến. Và bà nói, ‘Shhhhhhh. Shhhhhhhhh’ như nói với đứa bé sơ sinh, và bác Doc thì la hét, ‘Chó má và ghê tởm quá đi! Ghê tởm và chó má quá đi!’ ”