← Quay lại trang sách

Chương 16

Sau khi gõ cửa mà không thấy ai trả lời , Byron rời hàng hiên, đi vòng quanh nhà và bước vào trong cái sân sau được rào kín. Anh thấy ngay chiếc ghế dưới cây dâu tằm. Đó là một cái ghế võng bằng vải bạt được mạng vá nhiều chỗ, màu đã phai, bị chùng xuống theo tấm thân nặng nề của Hightower lâu đến nỗi khi không có ai nằm nó vẫn có vẻ lưu giữ trong vòng ôm ma quái cái béo phì không ra hình thù gì của người sở hữu nó; Byron nghĩ, khi đến gần, rằng cái ghế câm nín này, gợi lên sự bỏ đi, sự lười biếng, sự xa lánh thế gian tệ hại, bằng cách này hay cách khác là biểu tượng và cũng là hiện thực của chính người đàn ông đó. ‘Và mình còn định quấy rầy lần nữa,’ anh nghĩ, môi hơi vểnh lên chút xíu, trong khi nghĩ Lần nữa sao? Sự quấy rầy mà mình đã gây ra cho ông, ngay cả ông cũng sẽ biết là bây giờ sự quấy rầy đó chẳng thấm thía gì đâu. Và lại vào ngày chủ nhật nữa chớ. Nhưng rồi mình cho là, bởi vì ngày chủ nhật là do con người ta sáng chế ra thì ngày chủ nhật cũng muốn trả thù ông chớ sao không

Anh đến gần chiếc ghế từ phía sau và nhìn xuống bên trong nó. Hightower đang ngủ. Trên chỗ phình lên của bụng ông, nơi mà chiếc áo sơ-mi trắng (nó thì thơm tho, sạch sẽ ngày hôm nay) phồng ra khỏi cái quần đen cũ mòn, một cuốn sách mở nằm úp mặt. Hai bàn tay của Hightower đan nhau đặt trên sách, thanh thản, nhân từ, gần như ra vẻ trịnh trọng. Chiếc sơ-mi được may theo kiểu cũ, với ngực áo có nếp gấp nhưng chỉ được ủi qua loa và ông không mặc cổ cồn. Miệng mở nửa chừng, da thịt mềm nhão treo xung quanh cái lỗ tròn mà trong đó những cái răng hàm dưới lộ ra vàng khè, da thịt đó cũng treo xung quanh cái mũi còn thẳng đẹp, cái phần duy nhất của khuôn mặt mà tuổi tác, sự thất bại của những năm tháng đau buồn đã không thay đổi. Nhìn xuống bộ mặt chìm sâu trong vô thức, Byron có cảm tưởng là toàn bộ con người ông đang chạy trốn khỏi cái mũi này, cái mũi vẫn nắm giữ một cách bất khuất cái phần còn lại của niềm kiêu hãnh, của lòng can đảm, vẫn bật dậy trên sự yếu hèn của nỗi thất bại giống như lá cờ bị bỏ quên trên một pháo đài đổ nát. Một lần nữa, ánh sáng, ánh phản chiếu của bầu trời xuyên qua cành lá cây dâu tằm, lấp lánh và chói sáng trên cặp kính, và Byron không thể nói chính xác là Hightower mở mắt khi nào. Anh chỉ thấy cái miệng khép lại và đôi bàn tay đan nhau bắt đầu cử động khi Hightower ngồi dậy. “Được,” ông nói; “Ủa? Ai đây? - Ồ, Byron.”

Byron nhìn xuống ông, vẻ mặt nghiêm trọng. Nhưng giờ thì không còn thương cảm nữa. Không còn với cái gì nữa: chỉ là vẻ điềm tĩnh và quả quyết. Anh nói, không lên hay xuống giọng chút nào: “Họ đã bắt được y hôm qua. Tôi không nghĩ là ông biết chuyện này nhiều hơn ông biết chuyện giết người.”

“Bắt được y nào?”

“Christmas. Ở Mottstown. Y vào trong thị trấn, và theo lời người ta kể, y đi loanh quanh trên các đường phố cho đến khi có người nhận ra y.”

“Bắt được y.” Hightower bây giờ đã ngồi hẳn trên ghế. “Và bạn đến đây để kể với tôi là y bị... là người ta đã...”

“Không phải vậy. Người ta chưa làm gì y cả. Y chưa chết. Y đang ở trong nhà tù. Y được yên ổn trong đó.”

“Yên ổn ư? Bạn nói là y yên ổn. Úi chà, anh Byron đây nói là y yên ổn - anh Byron Bunch đã ra tay giúp tên nhân tình của người đàn bà đó bán đứng bạn mình để lãnh một ngàn đô-la, và anh Byron nói là yên ổn. Anh Byron đã giấu biệt người đàn bà, không cho cha của đứa con nàng biết, trong khi... tôi nói được không, tên nhân tình khác, là anh Byron đây? Tôi nói điều đó được không? Tôi sẽ không nói ra sự thật được không, bởi vì anh Byron Bunch che giấu nó?”

“Nếu tin đồn trong dân chúng làm ra sự thật, vậy thì tôi nghĩ đó là sự thật. Nhất là khi họ biết ra là chính tôi đã đưa hai tên đó vào tù.”

“Cả hai tên?”

“Cả Brown nữa đó. Mặc dù tôi nghĩ rằng phần lớn người ta cuối cùng thì cũng hiểu là khả năng giết người hay phụ giúp giết người của Brown thì không hơn khả năng của hắn bắt giữ tên sát nhân hay tên tòng phạm. Nhưng mọi người có thể nói là Byron Bunch, bây giờ, đã làm cho hắn bị giam chặt trong tù.”

“Ồ, vậy à.” Giọng Hightower hơi run run, cao và lanh lảnh. “Byron Bunch, người gìn giữ công ích và đạo đức. Người thắng cuộc, người thừa kế các tiền thưởng, vì bây giờ tiền thưởng sẽ thuộc về người vợ không môn đăng hộ đối của - tôi cũng nói điều đó được không? Tôi cũng đoán đó là Byron ở chỗ này được không?” Rồi ông bắt đầu khóc, cao lớn và mềm nhão trong chiếc ghế bị sụt xuống. “Tôi không có ý nói vậy. Bạn biết mà. Nhưng đến đây để làm phiền tôi, để làm tôi bứt rứt như vậy thì không đúng đâu, nhất là khi tôi đã - tôi đã tự dạy cho mình làm sao ở lại - khi họ dạy tôi làm sao ở lại - Ôi, chuyện đó cứ xảy ra với tôi đi, chiếm cứ con người tôi đi, bây giờ tôi già rồi và hòa giải với cái điều mà họ coi là - ” Đã có lần Byron thấy ông ngồi với mồ hôi chảy trên mặt ông như nước mắt; giờ đây anh thấy chính nước mắt chảy trên hai má mềm nhão như mồ hôi.

“Tôi biết. Điều đó chẳng có gì quan trọng. Điều chẳng quan trọng gì mà vẫn mang đến đây để làm ông bứt rứt. Tôi đã không biết. Tôi đã không biết khi xen vào chuyện này, lúc đầu. Không có chuyện này, tôi hẳn đã... Nhưng ông là tu sĩ mà. Ông không thể lẩn tránh chuyện này.”

“Tôi không phải tu sĩ. Không phải vì tôi không muốn làm. Bạn hãy nhớ lấy điều đó nghe. Đó không phải vì tôi muốn mà tôi không còn là tu sĩ nữa. Đó là do ý muốn, hơn vậy nữa, đó là do mệnh lệnh của tất cả mọi người như bạn, như cổ, như hắn đang ở trong tù đằng kia và như tất cả những người đã bỏ tù hắn để thỏa mãn ý muốn của họ trên hắn, như họ đã thỏa mãn trên tôi, bằng sự nhục mạ và bạo lực, để thỏa mãn ý muốn của họ trên những con người giống họ, được tạo ra từ cùng một Chúa, mà họ thúc đẩy để làm những chuyện mà bây giờ họ lấy đó để chối bỏ và giày vò những con người đó. Không phải tôi đã muốn như vậy. Bạn đừng quên điều đó nghe.”

“Tôi biết điều đó. Bởi vì những lựa chọn đưa ra cho con người thì không nhiều. Ông đã lựa chọn trước khi điều đó xảy ra rồi mà.” Hightower nhìn anh. “Người ta đã cho ông lựa chọn trước khi tôi sinh ra, và ông đã lựa chọn trước khi tôi hay cổ hay chính hắn sinh ra. Chính ông đã lựa chọn mà. Tôi cho là những người xấu đau khổ vì chuyện này bao nhiêu thì những người tốt chắc là cũng đau khổ bấy nhiêu; như cổ, như hắn, như tôi. Như những người khác, và người đàn bà khác này.”

“Người đàn bà khác này? Một người đàn bà khác? Vậy thì cuộc đời tôi sau năm mươi năm phải bị xâm phạm và sự yên bình của tôi phải bị phá bỏ bởi hai người đàn bà lầm đường lạc lối, phải vậy không Byron?”

“Người đàn bà khác đó giờ đây không còn lầm đường lạc lối. Bà đã lầm đường lạc lối trong ba mươi năm. Nhưng bây giờ bà đã quay về. Bà là bà ngoại của y.”

“Bà ngoại của ai?”

“Của Christmas,” Byron nói.

Từ cửa sổ tối tăm của phòng làm việc, Hightower chờ đợi, theo dõi động tĩnh dưới đường và trước cổng nhà, và ông nghe được tiếng nhạc từ một nơi xa xôi nào đó khi nó bắt đầu. Ông không biết là mình trông đợi nó, là vào mỗi tối thứ tư và chủ nhật, ngồi ở cửa sổ tối tăm, ông chờ nó bắt đầu. Ông biết, hầu như chính xác đến cả giây, khi nào mình nên bắt đầu nghe nó mà không cần đến đồng hồ đeo tay hay đồng hồ quả lắc. Ông không dùng cái này lẫn cái kia, không cần chúng trong hai mươi lăm năm nay. Ông sống tách biệt với thời gian đo đếm. Tuy nhiên, và vì lý do này, ông bao giờ cũng có ý thức về thời gian. Dường như từ tiềm thức ông có thể tạo ra, dù không cố ý, một vài sự kết tinh của những khoảnh khắc đã định mà trên thế gian này, một ngày nọ chúng đã chi phối và định đoạt cuộc đời đã chết của ông. Ông không cần đồng hồ quả lắc để biết ngay tức khắc, chỉ bằng nghĩ tới thôi, là ông ở đâu, vào cái giờ đó, trong cuộc đời cũ của mình, là ông đang làm gì giữa hai thời điểm cố định đánh dấu sự bắt đầu và sự chấm dứt của buổi lễ sáng chủ nhật, buổi lễ chiều chủ nhật và lễ cầu kinh tối thứ tư; là chính xác khi nào ông đi vào nhà thờ, chính xác khi nào ông chấm dứt, có tính toán, buổi cầu kinh hay bài thuyết giáo. Vậy là, trước khi bóng hoàng hôn hoàn toàn biến mất, ông nói với chính mình Giờ thì họ đang tụ tập, tiến đến gần trên các nẻo đường một cách chậm rãi và đi vào, chào hỏi lẫn nhau: các nhóm, các cặp đôi, các người riêng lẻ. Họ nói chuyện thân mật chút ít trong chính ngôi nhà thờ, giọng nhỏ nhẹ, các bà cứ quạt không ngừng tay, thầm thì với nhau, gật đầu chào các bạn hữu mới vào và đi dọc theo lối đi giữa các dãy ghế. Cô Carruthers (cô là người đánh đàn ống cho ông và đã qua đời gần hai mươi năm trước) thì ở giữa họ; chút xíu nữa thì cô sẽ đứng dậy và đi vào phòng đặt đàn ống Buổi lễ cầu kinh tối chủ nhật. Ông luôn có cảm tưởng là chính vào giờ đó mà con người đến gần với Chúa nhất, gần hơn bất cứ giờ nào khác trong tất cả bảy ngày. Rồi chỉ trong buổi lễ này thôi, giữa tất cả những buổi lễ của nhà thờ, mà người ta cảm thấy cái gì đó của niềm an lạc này, nó là điều hứa hẹn và cứu cánh của giáo hội. Lúc đó, tâm và trí được thanh lọc, nếu có bao giờ phải làm vậy; đó là ngày chủ nhật, là tuần lễ chấm dứt cùng với bất cứ tai họa nào trong tuần mà nó đã có thể mang lại. Tất cả đều chấm dứt, được cộng lại, được chuộc tội bởi cơn cuồng nộ nghiêm khắc và trang trọng của buổi lễ sáng; tuần lễ tiếp theo và bất cứ tai họa nào chưa xảy ra của nó, con tim bây giờ cũng được nguôi ngoai trong vài khoảnh khắc dưới làn gió dịu dàng, tươi mát của lòng tin và hy vọng.

Ngồi ở cửa sổ tối tăm, ông dường như thấy họ Bây giờ họ đang tụ họp lại, đang vào cửa. Họ gần như có mặt tất cả, bây giờ Rồi ông bắt đầu nói, “Bây giờ! Bây giờ!,” hơi khom người ra trước; rồi như thể đã chờ ông ra hiệu, tiếng nhạc bắt đầu. Những làn sóng nhạc từ đàn ống nổi lên, dạt dào và âm vang trong đêm hè. Trong sự hòa quyện của âm thanh kêu vang của nó thì vẫn có cái gì đó vừa hèn hạ, vừa cao cả, như thể chính những tiếng nói được giải phóng mang lấy cái hình dạng và tư thế của những sự đóng đinh vào giá chữ thập, mê ly, trang nghiêm và sâu đậm theo nhịp điệu mạnh dần. Tuy vậy, dù cái âm nhạc đó, giống như toàn bộ âm nhạc Tin lành, luôn giữ một cái gì đó nghiêm khắc, quả quyết và không khoan nhượng. Những làn sóng âm thanh, với sự đam mê ít sâu sắc hơn lòng hy sinh, yêu cầu, khẩn nài sự chối bỏ tình yêu, sự chối bỏ cuộc sống, cấm đoán người khác được yêu, được sống, đòi hỏi cái chết, như thể cái chết là một ân huệ không bằng. Như thể những người, vì bị cho vào khuôn phép bởi những điều trên, những điều mà cái âm nhạc đó khen ngợi và tượng trưng, chấp nhận cái âm nhạc đó, ca tụng nó, sử dụng chính sự ca tụng này để trả thù những gì đã tạo ra con người họ như thế này. Trong khi nghe, ông có vẻ nhận ra trong cái âm nhạc đó một sự suy tôn của lịch sử chính ông, của chính xứ sở ông, của chính dòng máu ông luân lưu trong huyết quản: những người mà ông xuất thân và giữa họ ông sống, và họ không bao giờ có thể nếm mùi lạc thú hay chịu đựng tai họa, mà cũng không thể trốn khỏi cái này hay cái kia nếu không muốn cãi lộn ầm ĩ về nó. Lạc thú, trạng thái mê ly, họ có vẻ không thể chịu đựng nó: để thoát khỏi nó, họ chỉ biết con đường bạo lực, rượu chè be bét, các cuộc đánh lộn và những lời nguyện cầu; đối với tai họa thì cũng vậy, vẫn là sự bạo lực giống hệt nhau và chắc là không có lối thoát Và trong những điều kiện như vậy, tại sao đạo giáo của họ lại không thúc đẩy họ tự đóng đinh mình hay đóng đinh lẫn nhau vào thập giá? ông nghĩ. Ông có cảm tưởng mình nghe được bên trong cái âm nhạc đó lời tuyên bố và sự hiến dâng của cái hành động này mà họ biết mình buộc phải làm ngày mai. Ông có cảm tưởng là cái tuần lễ đang chấm dứt này thì đã bỏ trốn như dòng nước chảy xiết; và cái tuần lễ tiếp theo, cái tuần sẽ bắt đầu vào ngày mai đó, là vực thẳm, và bây giờ, bên bờ thác, dòng nước lại kêu lên một tiếng được hòa lẫn thành tiếng duy nhất, rền vang và nghiêm khắc, không phải để biện minh nhưng để kêu lên lời chào từ biệt cuối cùng trước khi tự nó lao mình xuống, lời chào không phải trước một vị thần nào mà trước người đàn ông bị sa địa ngục, bị giam hãm sau song sắt xà lim, lời chào gần đến mức ông có thể nghe được, không những từ ngôi nhà thờ này mà còn từ hai nhà thờ khác, cũng sẵn sàng dựng lên cây thập giá để đóng đinh ông. ‘Và họ sẽ làm chuyện này một cách vui sướng, hả hê,’ ông nói, vẫn ngồi bên cái cửa sổ tối tăm. Ông cảm thấy các cơ miệng, cơ hàm của ông co giật dưới cái gì đó giống như sự linh cảm, cái gì đó còn kinh khiếp hơn cái cười. ‘Họ sẽ làm chuyện này một cách vui sướng, hả hê, bởi vì tỏ ra thương xót hắn là thừa nhận có sự hoài nghi chính mình, là còn hy vọng ở lòng thương xót, là còn cần lòng thương xót cho chính mình. Vậy là họ sẽ vui sướng, hả hê. Và chính vì vậy mà điều này thì kinh khiếp, kinh khiếp, kinh khiếp quá.’ Rồi khom người ra trước, ông thấy ba người đến gần và rẽ vào cổng nhà, bóng của họ bây giờ nổi rõ dưới ánh đèn đường, giữa các mảng bóng tối. Ông đã nhận ra Byron và ông nhìn đến hai người đi sau anh. Ông thấy rõ đó là một người đàn ông và một người đàn bà, mặc dù, trừ ra cái váy mà một người mặc, họ hầu như có thể thay đổi lẫn nhau: chiều cao và bề ngang của họ khiến họ trông như to gấp đôi một người đàn ông hay đàn bà bình thường, giống như hai con gấu. Ông cười trước khi có thì giờ ngừng lại. ‘A, Byron chỉ còn thiếu cái khăn tay trên đầu và một đôi bông tai,’ ông vừa nghĩ, vừa cười, cười mà không ra tiếng, vì ông cố kiềm chế để đi ra cửa mà Byron sắp gõ.

***

Byron dẫn họ vào phòng làm việc - người đàn bà béo lùn trong cái áo đầm tím và cái lông chim, tay cầm dù, với bộ mặt hoàn toàn bất động, và người đàn ông bẩn thỉu không thể tin được và có vẻ già không thể tin được, với bộ râu cằm vấy bẩn thuốc lá và cặp mắt điên dại. Họ đi vào, không rụt rè chút nào, nhưng hơi giống những con rối được chuyển động bằng những lò xo làm vụng. Người đàn bà có vẻ tự tin hơn, hay ít nhất có ý thức hơn, trong hai người. Như thể, mặc dù có sự trì trệ lạnh cứng được xoay chuyển một cách máy móc này, bà đến với một mục đích rõ ràng hay ít ra, với một hy vọng mơ hồ. Nhưng ông thấy ra tức khắc là người đàn ông đang ở trong tình trạng gần như hôn mê, như thể không nhớ tới hay hoàn toàn lãnh đạm với những gì xung quanh mình. Tuy vậy, người ta cảm thấy ông ta có cái gì đó ngấm ngầm và dễ bùng nổ, mê mải và tỉnh táo cùng lúc: cả một nghịch lý đó.

“Bả đó,” Byron nói nhẹ nhàng. “Đây là bà Hines.”

Họ đứng đó, cả hai người, bất động: người đàn bà có vẻ như đã đến nơi sau một chuyến đi dài, và bây giờ giữa những khuôn mặt và những nơi chốn xa lạ, đang chờ đợi trong im lặng, mặt lạnh giá như một tượng đá được sơn phết; và lão già bẩn thỉu, điềm tĩnh, mải mê nhưng mang đầy bên trong một sự giận dữ ngấm ngầm. Người này cũng như người kia dường như không nhìn Hightower, với sự tò mò hay không. Ông đưa tay chỉ các chiếc ghế. Byron đưa người đàn bà tới ghế và bà ngồi xuống một cách thận trọng, tay vẫn giữ chặt cái dù. Người đàn ông ngồi ngay xuống. Hightower chọn cái ghế sau bàn giấy. “Bà ấy muốn nói với tôi chuyện gì đây?” ông nói.

Người đàn bà không cử động. Chắc là bà không nghe. Bà giống như ai đó đã hoàn thành một chuyến đi khó nhọc vì cậy vào một lời hứa và bây giờ buông xuôi hoàn toàn và chờ đợi. “Ổng đó,” Byron nói. “Đây là mục sư Hightower. Nói với ổng đi. Nói những gì mà ông bà muốn ổng biết.” Bà nhìn Byron khi anh nói, mặt bà ngây ra. Nếu có một điều không được diễn đạt bằng lời nói sau bộ mặt này thì đó là một điều không được diễn đạt bằng lời nói bị vô hiệu bởi sự bất động trên chính bộ mặt đó; nếu có một hy vọng nào đó, một ham muốn nào đó thì hy vọng này, ham muốn này không hiện ra. “Nói với ổng đi,” Byron nói. “Nói với ổng tại sao ông bà đến đây. Nói với ổng ông bà đến Jefferson để làm gì.”

“Đó là vì - ” bà nói. Giọng bà thì đột ngột và trầm, gần như khàn khàn, tuy không to. Bà hình như ngạc nhiên thấy mình gây ra ồn ào đến vậy khi nói; bà ngừng nói, tỏ ra ngạc nhiên thực sự như thể tiếng động từ giọng nói bà đã chặn bà lại, và bà nhìn mặt người này đến mặt người kia.

“Nói tôi nghe,” Hightower nói. “Cố gắng nói tôi nghe đi.”

“Đó là vì tôi...” Giọng nói lại ngừng lần nữa, chết đứng, khàn khàn nhưng không được đưa lên cao, chết đứng vì chính sự ngạc nhiên của nó. Như thể bốn từ đó tạo ra một chướng ngại vật tự động mà giọng nói của bà không thể vượt qua; họ hầu như có thể thấy bà sắp xếp các ý nghĩ để vượt qua cái đó. “Từ khi nó biết đi, tôi đã không bao giờ thấy nó,” bà nói. “Trong ba mươi năm tôi đã không bao giờ thấy nó. Không bao giờ thấy nó một lần bước đi trên đôi chân riêng của nó và dùng tên riêng của chính nó - ”

“Chó má và ghê tởm quá đi!” người đàn ông đột ngột nói. Giọng lão thì cao, lanh lảnh và mạnh mẽ. “Chó má và ghê tởm quá đi!” Rồi lão im. Lão chỉ ra khỏi trạng thái mộng du để hét lên những từ này với sự đột ngột mang tính thóa mạ và tiên tri, và tất cả chỉ có vậy. Hightower nhìn lão, rồi nhìn Byron. Byron nói nhỏ nhẹ:

“Y là đứa con của con gái họ. Ông này -” anh chỉ lão Hines bằng cái hất đầu nhẹ. Lão bây giờ đang nhìn Hghtower với ánh mắt sáng rỡ, điên dại - “ổng lấy nó đi ngay sau khi nó sanh ra, mang nó đi đâu mất tiêu. Bà đây không biết ổng làm gì với nó. Bả thậm chí chẳng hề biết nó còn sống hay không cho tới khi -”

Lão già lại xen vô giữa chừng, với cùng sự đột ngột gây sửng sốt. Nhưng lần này lão không hét to: giọng lão bây giờ thì điềm tĩnh và hợp lẽ như Byron. Lão nói rõ ràng, tuy có chút nhát gừng: “Đúng vậy. Lão Doc Hines đã lấy nó đi. Chúa cho lão Doc Hines cơ hội tốt nhất để hành động và như vậy lão Doc Hines cũng cho Chúa cơ hội để hành động. Và từ miệng trẻ con, Chúa đã biểu lộ ý muốn của Ngài. Trước sự hiện diện của Chúa và của người đời, những đứa trẻ con la hét thẳng vào mặt nó Đồ mọi đen! Đồ mọi đen! Đó là một cách bày tỏ ý Chúa. Và lão Doc nói với Chúa, ‘Nhưng thế vẫn chưa đủ. Những đứa bé còn gọi nhau bằng những tiếng tệ hại hơn mọi đen nhiều,’ và Chúa nói, ‘Hãy chờ rồi con sẽ thấy, bởi vì Ta không có thì giờ để phí với tất cả những thứ bẩn thỉu và chó má của thế gian. Ta đã đánh dấu nó và bây giờ Ta sẽ giúp nó hiểu biết. Và Ta đặt con ở đó để mà con theo dõi nó, để mà con giữ gìn ý Ta. Đó là bổn phận của con trông nom việc này và quan sát.’ ” Tiếng lão ngừng lại. Lão không hạ giọng chút nào. Tiếng lão chỉ ngừng lại, y chang như cây kim của cái máy hát đang chạy bị nhấc lên bởi một bàn tay của ai đó không lắng nghe dĩa hát. Hightower đưa mắt từ lão sang Byron, ánh nhìn thì cũng gần như điên.

“Chuyện gì đây? Chuyện gì đây?” ông nói.

“Tôi đã tính đưa bả tới đây một mình nói chuyện với ông, không có lão đi theo,” Byron nói. “Nhưng không có chỗ nào để lão ở lại cả. Bả nói bả phải theo dõi lão. Hôm qua, ở dưới Mottstown, lão đã ra sức kích động đám đông để họ hành hình y theo kiểu lin-chơ, mà lão thậm chí không nhận ra việc lão đã làm.”

“Hành hình y theo kiểu lin-chơ sao?” Hightower nói. “Hành hình theo kiểu lin-chơ đứa cháu ngoại của lão sao?”

“Bả nói vậy đó,” Byron nói, giọng đều đều. “Bả nói vì chuyện đó mà lão đến đây. Và để ngăn cản lão làm chuyện đó mà bả đi cùng lão đến đây.”

Người đàn bà bắt đầu nói lại. Có lẽ bà đã và đang nghe. Nhưng bộ mặt bà bây giờ cũng không biểu cảm hơn lúc bà vào nhà; mặt trơ như gỗ, bà lên tiếng bằng cái giọng đục, hầu như cũng đột ngột như chồng bà. “Cả năm mươi năm nay ổng cứ như vậy. Hơn năm mươi năm đó chớ, nhưng tôi chỉ đau khổ từ năm mươi năm nay. Ngay cả trước khi tụi tôi lấy nhau, ổng lúc nào cũng gây gổ, cũng đánh nhau rồi. Ngay cái đêm mà Milly sinh ra, ổng bị giam trong tù vì đánh lộn. Đó là điều tôi đã và đang chịu đựng, đã và đang đau khổ. Ổng nói ổng phải đánh nhau bởi vì ổng nhỏ con hơn phần lớn đàn ông khác nên người ta cứ ăn hiếp ổng. Đó là tính kiêu căng và lòng tự hào của ổng. Nhưng tôi nói với ổng là ổng bị quỷ ám. Và một ngày kia quỷ sứ sẽ đến gặp ổng nhưng ổng không biết cho tới khi đã quá trễ, và quỷ sứ sẽ nói với ổng, ‘Này Eupheus Hines, tao đến đòi nợ đây.’ Đó là điều tôi nói với ổng, vào cái ngày tiếp theo ngày Milly sinh ra và tôi thì còn quá yếu để ngẩng đầu dậy, và ổng thì vừa mới ra khỏi tù lần nữa. Tôi đã nói với ổng như vậy. Tôi giải thích cho ổng nghe là Chúa đã báo điềm, đã cảnh báo ổng: sự việc ổng bị giam trong tù đúng vào cái giờ, vào cái phút con gái ổng sinh ra là dấu hiệu riêng của Chúa để nói ra rằng trời cao đất dày đã không bao giờ nghĩ là ổng xứng đáng để nuôi dạy một đứa con gái. Một dấu hiệu của Chúa trên trời là sống ở thành phố (ổng hồi đó làm nghề gác phanh xe lửa) thì chỉ có thể làm hại ổng thôi. Và chính ổng cũng nhận ra như vậy, bởi vì đó là một dấu hiệu, và tụi tôi dọn đi ra khỏi các thành phố và sau một thời gian thì ổng tìm được một chỗ làm cai thợ trong một xưởng cưa. Ổng làm việc tốt lúc đó vì ổng chưa bắt đầu đem Chúa ra chứng giám mà thề thốt lung tung một cách hãnh diện vô ích để biện minh và dung thứ cho cái thằng quỷ sứ nó ở bên trong ổng. Vậy là vào cái đêm mà chiếc xe la của ông hàng xóm Lem Bush từ rạp xiếc đi qua nhà tụi tôi mà không ngừng lại để Milly xuống, khi Eupheus, sau khi về đến nhà, bắt đầu lục lọi các ngăn kéo để tìm cho ra khẩu súng lục, tôi nói, ‘Eupheus, đó là quỷ sứ đó nghe. Đâu có phải sự an toàn của Milly làm ông bồn chồn bây giờ,’ và ổng nói, ‘Quỷ sứ hay không quỷ sứ. Quỷ sứ hay không quỷ sứ,’ và ổng đánh tôi bằng bàn tay và tôi té xuống giường và nhìn ổng -” Bà ngừng. Giọng bà bất ngờ hạ xuống như dĩa hát đang chạy trên máy bỗng tắt nửa chừng. Một lần nữa, Hightower nhìn từ bà sang Byron, mặt rõ ràng lộ vẻ ngạc nhiên.

“Tôi cũng nghe người ta kể lại như vậy,” Byron nói. “Thoạt đầu, thật cũng khó cho tôi để biết được cho đúng. Họ ở trong một xưởng cưa, nơi ổng làm cai thợ đó, dưới Arkansas. Cô gái thì mười tám tuổi lúc đó. Một đêm có gánh xiếc đi qua xưởng cưa, trên đường vào thành phố. Khi đó là tháng mười hai và trời cứ mưa hoài, một trong những chiếc xe la khi đi qua cầu gần xưởng cưa thì bị gãy cái gì đó và những người đàn ông đến nhà họ mượn cái pa-lăng để trục xe lên -”

“Đó là sự ghê tởm của Chúa đối với da thịt đàn bà!” lão già đột ngột la lên. Rồi giọng lão hạ xuống và ngừng hẳn, như thể lão chỉ muốn gây chú ý. Rồi lão bắt đầu nói lại, nhanh, giọng nghe tự nhiên, mơ hồ, cuồng tín, nói về mình bằng ngôi thứ ba. “Lão biết. Lão Doc Hines biết. Lão đã thấy dấu hiệu của sự ghê tởm của Chúa trên thân xác của mọi con đàn bà. Lão đã thấy nó trên da thịt đứa con gái, dưới lớp áo quần. Vậy là khi lão trở lại, sau khi đi ra mặc áo mưa và thắp cái đèn xách, nó đã đứng ở cửa, cũng đã mặc áo mưa, và lão nói, ‘Mày trở về giường ngủ lại đi,’ và nó nói, ‘Con cũng muốn đi nữa,’ và lão nói, ‘Mày trở lại trong phòng đó đi,’ và nó vào lại phòng và lão đi xuống lấy cái pa-lăng ở xưởng cưa và kéo chiếc xe ra. Lão đã làm cho tới khi trời rạng sáng, tin là nó đã tuân lệnh người cha mà Chúa đã ban cho nó. Nhưng đáng lẽ lão phải biết. Đáng lẽ lão phải biết sự ghê tởm của Chúa đối với da thịt đàn bà; đáng lẽ lão phải nhận ra cái hình dạng di động của sự chó má và sự ghê tởm đã bốc mùa hôi hám trước mặt Chúa. Ai dám nói thẳng với lão Doc Hines, một người chẳng ngu si gì, rằng thằng đó là người Mễ, trong khi lão Doc Hines có thể thấy trên mặt thằng đó lời nguyền rủa đen đúa của Chúa toàn năng. Nói với lão -”

“Cái gì?” Hightower nói. Ông nói to, như thể ông đã đoán là ông phải làm át tiếng nói của người kia bằng cách đơn giản là tăng âm lượng. “Tất cả chuyện này là sao?”

“Đó là một tên làm việc trong gánh xiếc,” Byron nói. Cổ nói với lão tên đàn ông đó là một người Mễ. Con gái lão nói vậy với lão khi lão bắt được cổ. Có lẽ đó là lời của tên đó nói với cô gái. Nhưng lão” - anh lại chỉ lão già - “biết bằng cách này hay cách nọ là tên đó có máu mọi đen trong người. Có lẽ những người trong gánh xiếc nói lại với lão. Tôi không biết. Lão không hề thố lộ lão biết ra điều đó khi nào, làm như cái chi tiết này không quan trọng. Và tôi cho là đúng như vậy, sau đêm tiếp theo.”

“Đêm tiếp theo?”

“Tôi cho là cổ lẻn ra khỏi nhà đêm đó khi gánh xiếc bị kẹt trên cầu. Ít ra đó là lời lão nói. Dù gì đi nữa, lão xử sự như thể có thật như vậy và chuyện mà lão làm thì đã không thể xảy ra nếu lão không biết và nếu cổ không lẻn ra khỏi nhà. Bởi vì ngày hôm sau cổ đi coi xiếc với vài người hàng xóm. Lão để cho cổ đi, bởi vì lúc đó lão không biết là cổ đã lẻn ra khỏi nhà vào đêm trước. Lão không nghi ngờ gì, ngay cả khi cổ ra khỏi nhà để leo lên chiếc xe la của người hàng xóm, ăn mặc đẹp như cho ngày chủ nhật. Nhưng đêm đó, lão chờ chiếc xe la trở về. Lão nghe nó đến gần trên con lộ và đi ngang qua nhà như thể nó không sắp sửa ngừng lại để cho cổ xuống. Và lão chạy ra ngoài, lão gọi to và người hàng xóm cho xe dừng lại và cô gái không có trong xe. Người hàng xóm nói cổ đã chia tay họ ở rạp xiếc để qua đêm với một cô gái khác ở cách đó sáu dặm, và người hàng xóm tỏ vẻ ngạc nhiên là Hines không biết gì cả, bởi vì y nói rằng cô gái có mang theo một cái túi du lịch khi leo lên chiếc xe la. Hines đã không thấy cái túi đó. Và bả -” lần này anh chỉ người đàn bà mặt bất động như đá; bà có lẽ nghe hay có lẽ không nghe lời anh nói - “bả nói là quỷ sứ dẫn dắt lão. Bả nói là lão cũng như bả, không thể biết cô gái ở đâu vào lúc đó; ấy vậy mà lão quay vào nhà, lấy ra khẩu súng lục và đánh bả té xuống giường khi bả ra sức ngăn chặn lão và thắng yên con ngựa và cưỡi đi. Và bả nói lão đã đi con đường tắt duy nhất cho phép lão bắt kịp họ. Lão đã chọn nó trong bóng tối, giữa nửa tá con đường tắt như vậy. Nhưng mà lão đâu có cách nào để biết họ đã đi theo con đường nào. Nhưng lạ thay, lão biết. Lão tìm ra họ, như thể lúc nào lão cũng biết chính xác họ ở đâu, như thể lão và tên đàn ông mà cô gái nói là người Mễ đó đã hẹn nhau gặp ở đó. Người ta hẳn sẽ nói là lão biết. Trời thì tối như mực, và ngay cả khi bắt kịp chiếc xe độc mã, lão cũng không có cách nào để biết đó có phải là chiếc xe lão đang tìm không. Nhưng lão cho ngựa phi nhanh đến ngay sau nó, chiếc xe độc mã đầu tiên lão thấy trong đêm đó. Lão tiến lên bên phía tay mặt và lão khom người, vẫn trong bóng tối dày đặc, và không mở miệng nói ra một lời, không dừng ngựa, lão chộp lấy tên đàn ông; y hẳn có thể là một người xa lạ hay người hàng xóm, vì rằng tất cả những gì lão đã có thể biết thì chỉ nhờ vào mắt và tai mình. Một tay chộp y, một tay gí súng vào người y, lão bắn y chết và đưa con gái trở về nhà trên ngựa, ngồi sau lưng. Lão bỏ cả chiếc xe độc mã lẫn xác chết ở lại đó, trên con lộ. Trời cũng bắt đầu mưa lại.”

Anh ngừng. Ngay lập tức, người đàn bà bắt đầu nói, làm như bà đã nóng ruột đợi cho Byron ngừng nói. Bà nói cùng với cái giọng đục, đều đều: hai cái giọng trong khúc đầu [105] và khúc hồi [106] đơn điệu: hai cái giọng không thân thể kể lại, như trong cơn mơ, một sự kiện được hoàn thành trong một xứ sở không kích thước, bởi những con người không máu huyết: “Tôi nằm ngang giường và tôi nghe ổng đi ra khỏi nhà rồi tôi nghe con ngựa ra khỏi chuồng và chưa gì đã phi nước đại qua nhà. Và tôi cứ nằm đó, không cởi áo quần, cứ nhìn ngọn đèn. Dầu trong đèn cạn dần, sau một lát tôi đứng dậy và tôi mang đèn vào bếp để đổ thêm dầu và chùi sạch cái bấc rồi tôi cởi áo quần và nằm xuống với ngọn đèn đang sáng. Trời vẫn còn mưa và cũng lạnh nữa và sau một lát tôi nghe con ngựa trở lại trong sân, ngừng ở hàng hiên, và tôi đứng dậy, quàng cái khăn san lên người và tôi nghe họ đi vào nhà. Tôi có thể nghe tiếng chân của Eupheus rồi tiếng chân của Milly, họ đi theo hành lang đến cửa, và Milly đứng đó, tóc tai mặt mũi đẫm nước mưa và chiếc áo đầm mới thì lấm bùn khắp nơi, cặp mắt thì nhắm ghiền, rồi thì Eupheus đánh nó và nó té xuống sàn nhà, nằm đó, và vẻ mặt nó trông cũng giống như khi nó đứng. Và Eupheus đứng ở cửa, người cũng đẫm nước mưa và bùn, và ổng nói, ‘Bà đã nói tôi làm cái công việc của quỷ sứ. Vậy thì tôi mang trở lại cho bà vụ mùa mà quỷ sứ đã dành sẵn. Bà hãy hỏi nó đang mang cái gì trong bụng. Hỏi nó đi.’ Và tôi thì quá mệt, và trời thì lạnh, và tôi nói, ‘Xảy ra chuyện gì vậy?’ và ổng nói, ‘Đi xuống dưới đó và nhìn xuống đám bùn và bà sẽ thấy. Hắn đã có thể đánh lừa nó là hắn người Mễ. Nhưng hắn không bao giờ đánh lừa được tôi. Hắn cũng không bao giờ đánh lừa nó. Hắn không bao giờ cần phải làm vậy. Vì có một lần bà nói là một ngày kia quỷ sứ sẽ đến tìm tôi để đòi nợ. Vậy thì tôi nói: quỷ sứ đã đến rồi đó. Bà vợ quý của tôi đã đẻ cho tôi một con điếm. Nhưng ít nhất quỷ sứ đã làm hết sức mình khi thời điểm trả nợ đến. Quỷ sứ đã chỉ đúng đường cho tôi, và giữ cho khẩu súng lục được vững khi bắn.’

“Và như vậy, đôi khi tôi tình cờ nghĩ đến chuyện quỷ sứ thắng được Chúa. Bởi vì tụi tôi phát hiện ra là Milly sắp có con và Eupheus bắt đầu đi tìm bác sĩ để lo chuyện sinh nở. Tôi tin là ổng sẽ tìm ra một bác sĩ, và đôi khi tôi nghĩ như vậy thì tốt hơn, nếu đàn ông và đàn bà, như con người, phải sống trên thế gian này. Và đôi khi tôi hy vọng ổng sẽ tìm ra, bởi vì tôi đã quá mệt mỏi sau khi vụ xét xử chấm dứt, ông chủ gánh xiếc trở lại và nói với tụi tôi là tên đàn ông đó thực sự có máu mọi đen, chớ y không phải người Mễ. Và điều này, thì Eupheus luôn miệng nói ra như vậy, làm như quỷ sứ đã nói với Eupheus y là mọi đen. Và Eupheus lại xách theo khẩu súng và nói ổng sẽ tìm ra một bác sĩ hay giết quách một ông, ổng ra đi và ổng đôi khi vắng mặt cả đến một tuần lễ, và rồi mọi người đều biết chuyện này, và tôi tìm cách thuyết phục Eupheus dọn đi khỏi vùng này bởi vì đó chỉ là một tên chủ gánh xiếc nói y là mọi đen và có lẽ ông ta cũng không chắc chắn lắm về điều này, và hơn nữa ông ta cũng đã bỏ đi và rất có thể là tụi tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông ta. Nhưng Eupheus không chấp nhận dọn đi chỗ khác, và Milly sắp sinh đến nơi rồi và Eupheus với khẩu súng lục đó đang cố gắng tìm bác sĩ cho việc đỡ đẻ. Rồi sau đó tôi biết ra là ổng lại bị tù lần nữa; tôi biết ra là ổng đi vào trong các nhà thờ, trong buổi lễ cầu nguyện ở các địa điểm khác nhau, nơi mà ổng cố gắng tìm một bác sĩ, rồi vào một buổi tối ổng đứng lên trong khi người ta đang cầu nguyện, ổng leo lên bục giảng và chính ổng bắt đầu giảng đạo, la hét chống bọn mọi đen, kêu gọi dân da trắng nổi dậy để giết chúng, không chừa một ai, và các đạo hữu đã làm ổng câm miệng lại, kéo ổng xuống khỏi bục giảng và ổng lại rút súng ra đe dọa họ, ngay trong nhà thờ, cho tới khi cảnh sát đến bắt giữ ổng, và trong một lúc ổng cứ như là thằng điên. Và khi họ phát hiện ra là ở một thành phố khác, ổng đã nện cho ông bác sĩ nào đó một trận rồi bỏ chạy trước khi họ kịp tóm ổng. Vậy là khi ổng ra khỏi nhà tù và quay về nhà thì Milly sắp sanh rồi. Và vào lúc đó tôi nghĩ là ổng đã chịu thua, cuối cùng thì ổng cũng đã thấy ý Chúa, bởi vì ổng ở yên trong nhà, và một hôm ổng thấy ra các quần áo tã lót mà tôi và Milly đã sửa soạn sẵn và giấu ổng, và ổng không nói gì hết, ngoại trừ hỏi thăm khi nào thì Milly đẻ. Ổng hỏi thăm mỗi ngày, và tụi tôi nghĩ là ổng đã chịu thua, là việc đi nhà thờ và đi tù lần nữa đã hòa giải con người ổng như vào cái đêm mà Milly ra đời. Và vậy là thời hạn sinh nở đến và một đêm Milly đánh thức tôi dậy, nói là đã bắt đầu chuyển bụng và tôi mặc đồ và biểu Eupheus đi gọi bác sĩ và ổng mặc đồ rồi ra khỏi nhà. Và tôi đã sửa soạn mọi thứ và tụi tôi chờ, rồi cái giờ mà đáng lẽ Eupheus và ông bác sĩ phải quay về nhà đến rồi đi, và Eupheus vẫn không trở lại, và tôi vừa đợi, vừa nghĩ là ông bác sĩ chẳng bao lâu nữa sẽ đến thôi rồi tôi đi ra cái hiên trước để ngóng và tôi thấy Eupheus đang ngồi trên bậc tam cấp cao nhất, với khẩu súng ngắn đặt trên đùi, và ổng nói, ‘Vào trong cái nhà đó đi, mẹ con điếm!’, và tôi nói, ‘Eupheus,’ và ổng đưa súng lên và nói, ‘Vào trong cái nhà đó đi. Để cho quỷ sứ gặt hái vụ mùa của ổng đi: chính ổng đã gieo giống đó mà.” Và tôi thử đi ra ngoài bằng cửa sau nhưng ổng nghe tôi và chạy vòng ra sau nhà, tay cầm súng, và ổng đánh tôi bằng cái nòng súng, tôi quay lại với Milly và ổng đứng bên ngoài cánh cửa hành lang, từ chỗ đó ổng có thể thấy Milly cho tới khi nó chết. Và rồi ổng đến gần giường, nhìn đứa bé mới sinh rồi đưa tay cầm nó, đưa nó lên, cao hơn ngọn đèn, làm như ổng đang chờ xem ai sẽ thắng, quỷ sứ hay Chúa. Nhưng tôi thì mệt quá sức, ngồi bên cạnh giường, nhìn cái bóng ổng trên tường và cái bóng của hai cánh tay ổng và của cái gói nhỏ ở trên cao trên tường. Và lúc đó tôi nghĩ là Chúa đã thắng. Nhưng bây giờ thì tôi không biết nữa. Bởi vì ổng đặt lại đứa bé xuống giường, bên cạnh Milly rồi ổng bỏ đi. Tôi nghe ổng ra khỏi nhà bằng cửa ra vào, và tôi đứng dậy, tôi bật lửa bếp và tôi hâm sữa cho nóng.” Bà ngừng; cái giọng khàn khàn, vo vo của bà lụi tàn. Từ bên kia bàn giấy Hightower nhìn bà: người đàn bà với khuôn mặt bất động như đá, trong cái áo đầm tím, đã không hề cử động từ khi vô phòng. Rồi bà bắt đầu nói lại, vẫn bất động, môi hầu như không mấp máy, như một con rối với giọng nói của một người nói tiếng bụng ở phòng bên cạnh.

“Và Eupheus biến mất tiêu. Ông chủ xưởng cưa cũng không biết ổng đi đâu. Và ông ta nhận một cai thợ mới vào làm nhưng vẫn để tôi ở cái nhà đó thêm một thời gian nữa, bởi vì ông ta và tôi không biết Eupheus ở đâu, và mùa đông đang đến gần và tôi phải nuôi đứa bé mới sinh. Và tôi chẳng biết gì hơn ông Gillman về chuyện Eupheus ở đâu, cho tới khi có một lá thư đến nhà. Nó đến từ Memphis, bên trong là một tờ séc bưu chính, và không gì khác. Vậy là tôi vẫn không biết gì hơn. Rồi vào tháng mười một, một tấm séc khác đến nhưng không có thư hay gì khác. Và tôi thì quá mệt mỏi, rồi hai ngày trước lễ Giáng sinh tôi ra ngoài sân sau bổ củi, và khi tôi vào lại trong nhà thì em bé đã biến mất. Tôi đã ở ngoài sân chưa đầy một tiếng đồng hồ, lẽ ra tôi phải thấy ổng đi vào và đi ra khỏi nhà. Nhưng tôi đã không thấy. Tôi chỉ thấy ra lá thư ở chỗ Eupheus đã để lại, trên cái gối mà tôi đặt giữa mép giường và em bé để nó khỏi bị rớt xuống giường, và tôi thì quá mệt mỏi. Và tôi chờ đợi, và sau Giáng sinh thì Eupheus về lại nhà, ổng không chịu nói ra với tôi. Ổng chỉ nói là tụi tôi sắp sửa dọn nhà, và tôi nghĩ ổng đã đưa em bé tới đó và bây giờ ổng quay về để đưa tôi tới đó. Ổng không nói ra với tôi chỗ nào tụi tôi sẽ tới ở nhưng chỉ nói là sẽ dọn nhà sớm thôi, và tôi thì lo lắng đến phát điên khi nghĩ đến em bé sống làm sao cho đến khi tụi tôi tới đó, ổng vẫn không chịu nói ra với tôi và tôi tin là tụi tôi sẽ không bao giờ tới đó cả. Rồi cuối cùng tụi tôi tới đó, và em bé không có đó, tôi nói, ‘Ông hãy nói cho tôi biết ông đã làm gì với thằng Joey. Ông phải nói cho tôi biết,’ và ổng nhìn tôi giống như ổng nhìn Milly vào cái đêm đó, khi nó nằm trên giường và chết, ổng nói, ‘Đó là sự ghê tởm của Chúa Trời và tôi là công cụ của ý Ngài.’ Và ổng bỏ đi vào ngày hôm sau, tôi không biết ổng đi đâu, và một tấm séc khác lại đến, rồi tháng sau đó Eupheus quay về nhà và nói ổng làm việc ở Memphis. Và tôi biết ổng giấu Joey đâu đó ở Memphis và tôi nghĩ rằng đó cũng là cái gì rồi bởi vì ổng có thể ở đó mà chăm lo cho Joey, dù tôi không ở đó. Tôi biết là tôi phải chờ theo ý muốn tùy tiện của Eupheus để biết, và mỗi lần như vậy tôi nghĩ là có lẽ lần tới ổng sẽ dẫn mình đi Memphis với ổng. Và vậy là tôi chờ đợi. Tôi cắt, tôi may các bộ quần áo cho Joey, và tôi đã may xong, sẵn sàng khi Eupheus về nhà và tôi tìm cách làm cho ổng nói các bộ quần áo đó có vừa với Joey không và nó có được khỏe mạnh không và Eupheus không trả lời tôi. Ổng ngồi, đọc rõ to cuốn Kinh thánh nhưng không có ai ở đó mà nghe trừ tôi ra, vừa đọc vừa đoán các ý tưởng trong Kinh thánh và ổng la hét ầm ĩ, như thể ông tin là tôi không tin những gì Kinh thánh nói. Nhưng ổng không chịu nói ra với tôi cả năm năm và tôi không bao giờ biết được ổng có đưa cho Joey các bộ đồ tôi may không. Và tôi không dám hỏi ổng vì sợ làm ổng khó chịu, bởi vì đó cũng là cái gì rồi, tức là việc ổng ở chỗ mà Joey ở, dù tôi không ở đó. Và rồi sau năm năm, ổng về nhà một ngày nọ và ổng nói, ‘Bà sửa soạn dọn nhà với tôi đi!’ và tôi nghĩ bây giờ là đã đến lúc rồi, là cuối cùng tôi sắp sửa gặp lại Joey; nếu đó quả là một tội lỗi thì tôi cho là giờ này tụi tôi đã đền tội xong xuôi rồi, và tôi thậm chí tha thứ cho Eupheus. Bởi vì tôi nghĩ rằng lần này tụi tôi rốt cuộc đi Memphis. Nhưng không phải Memphis, mà là Mottstown, chỗ tụi tôi đến. Tụi tôi đã phải đi ngang qua Memphis, và tôi van nài ổng. Đó là lần đầu tiên tôi mở miệng van nài ổng. Nhưng lần này tôi làm vậy, chỉ một phút, một giây; tôi van nài ổng, không phải để cho tôi được vuốt ve Joey, không phải để được nói chuyện với Joey, không gì cả. Nhưng Eupheus không chịu. Tụi tôi thậm chí không ra khỏi nhà ga. Tụi tôi xuống tàu ở Memphis và ngồi đợi đổi tàu đến bảy tiếng đồng hồ mà không rời nhà ga, và tụi tôi đi đến Mottstown. Và Eupheus không bao giờ trở lại làm việc ở Memphis nữa, và sau một thời gian, tôi nói, ‘Eupheus,’ và ổng nhìn tôi và tôi nói, ‘Tôi đã tỏ ra kiên nhẫn suốt năm năm nay và tôi đã không bao giờ làm phiền ông. Vậy ông có thể nói cho tôi nghe, chỉ một lần một thôi, nó đã chết hay còn sống?’ và ổng nói, ‘Nó chết rồi,’ và tôi nói, ‘Chết rồi đối với thế giới người sống hay đối với riêng tôi thôi? Nếu nó chỉ chết rồi đối với tôi, thì ông hãy nói ra cho tôi nghe. Ít nhất, hãy nói ra điều đó với tôi, bởi vì tôi đã không làm phiền ông từ năm năm nay,’ và ổng nói, ‘Nó đã chết đối với bà, và đối với tôi, và đối với Chúa, và đối với nước Chúa, mãi mãi và mãi mãi.’ ”

Bà ngừng lại lần nữa. Từ bên kia bàn giấy, Hightower nhìn bà với nỗi ngạc nhiên thầm lặng và tuyệt vọng. Byron cũng bất động, đầu hơi cúi xuống. Cả ba người thì giống như ba tảng đá ngang mực nước, ở trên một bãi biển khi thủy triều xuống, trừ lão Doc ra. Lão giờ nghe gần như một cách chăm chú bằng cái khả năng đặc biệt của lão là chuyển được tức thời từ sự chú ý cao độ mà có vẻ như không nghe, sang trạng thái sửng sốt giống như hôn mê mà trong đó ánh nhìn trừng trừng của đôi mắt theo bề ngoài thì đảo ngược của lão, thì cũng khó chịu như khi thấy lão cầm đôi mắt đó trong tay. Bất thình lình lão la to lên với cái giọng khàn, vang và điên; lão nói, trông già không tin được, dơ dáy không tin được. “Đó là Chúa Trời. Chính Ngài , đích thân Ngài . Lão Doc Hines cũng cho Chúa một cơ hội duy nhất. Chúa Trời biểu lão Doc Hines phải làm gì và lão Doc Hines đã làm theo. Rồi Chúa Trời nói với lão Doc Hines, ‘Con hãy nhìn cho kỹ, bây giờ. Và con sẽ thấy ý Ta được thực hiện.’ Và lão Doc Hines đã nhìn, đã nghe từ miệng trẻ con, từ những đứa bé, mồ côi cha lẫn mẹ, riêng của Chúa mà Ngài đã đặt vào miệng chúng những lời của Ngài, sự hiểu biết của Ngài, ngay cả khi chúng không thể biết việc đó bởi vì chúng còn trong sạch, chưa có tội lỗi, cả đến những đứa bé gái chưa tội lỗi, chưa chó má: Mọi đen! Mọi đen! từ những cái miệng trong trắng của trẻ con. ‘Ta đã nói cái gì với con?’ Chúa nói với lão Doc Hines. ‘Và bây giờ Ta để cho ý Ta được thực hiện, và bây giờ Ta đi đây. Ở đây thì không có đủ tội lỗi để làm Ta bận rộn bởi vì có hề chi đối với ta những tội gian dâm của một con đàn bà bẩn thỉu; những tội này cũng là một phần của mục đích của Ta,’ và lão Doc Hines nói, ‘Làm sao mà những tội gian dâm của một con đàn bà bẩn thỉu cũng là một phần của mục đích của Ngài được?’ và Chúa nói, ‘Con hãy chờ xem. Bộ con tin rằng đó chỉ là sự tình cờ mà Ta đã chọn tên bác sĩ trẻ đó để làm người tìm thấy sự ghê tởm của Ta được bao bọc trong tấm mền đó đặt trên bậc tam cấp đó vào đêm Giáng sinh đó hay sao? Bộ con cũng tin đó chỉ là sự tình cờ mà bà giám đốc lại vắng mặt vào đêm đó và để cho những con đàn bà bẩn thỉu trẻ tuổi có cơ hội đặt tên cho nó là Christmas, cái tên này là một sự xúc phạm nặng nề đối với Con Ta [107] , hay sao? Vậy bây giờ Ta đi đây, bởi vì Ta đã để cho ý Ta được thực hiện và Ta có thể để con ở lại đây để theo dõi việc này.’ Vậy là lão Doc Hines theo dõi và chờ đợi. Từ căn phòng đặt máy sưởi bằng nước nóng của riêng Chúa, lão theo dõi các đứa con nít và cái hạt giống di động của quỷ sứ giữa chúng mà mọi người không biết, nó làm ô nhiễm mặt đất bởi tác động của cái từ ngữ đó mà người ta ném vào mặt nó. Bởi vì bây giờ nó không còn chơi với những đứa trẻ khác. Nó đứng một mình, đứng yên một chỗ, và rồi lão Doc Hines biết là nó nghe từ bên trong nó lời cảnh báo kín đáo về sự trừng phạt của Chúa, và lão Doc Hines nói với nó, ‘Tại sao mày không ra chơi với những đứa khác như trước kia?’ và nó không mở miệng trả lời và lão Doc Hines nói, ‘Có phải vì tụi nó gọi mày là mọi đen không?’ và nó vẫn không trả lời và lão Doc Hines nói, ‘Mày có tin mày là mọi đen bởi vì Chúa đã đánh dấu trên mặt mày không?’ và nó mở miệng nói, ‘Chúa cũng là mọi đen phải không?’ và lão Doc Hines nói, ‘Ngài là Chúa Trời của những đạo quân phẫn nộ [108] . Ý muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Không phải ý muốn của mày, cũng không phải của tao, bởi vì mày và tao, cả hai tụi mình là một phần của mục đích của Ngài, một phần của sự trả thù của Ngài.’ Rồi nó bỏ đi, lão Doc Hines nhìn nó nghe và lắng nghe ý muốn trả thù của Chúa, cho tới khi lão Doc Hines phát hiện ra là nó đang nhìn thằng mọi đen làm việc ở trong sân chơi, là nó cứ đi theo hắn quanh sân trong khi hắn làm việc, cho đến khi tên mọi đen cuối cùng lên tiếng, ‘Này nhỏ, mày cứ nhìn tao để chi vậy?’ Và nó nói, ‘Làm sao mà chú là mọi đen?’ và thằng mọi đen nói, ‘Ai nói với mày tao là mọi đen, đồ ranh con da trắng rác rưởi!’ và nó nói, ‘Cháu không phải mọi đen,’ và thằng mọi đen nói, ‘Mày còn tệ hơn mọi đen nữa. Mày không biết mày là ai. Và còn tệ hại hơn, đó là mày sẽ không bao giờ biết. Mày sẽ sống, mày sẽ chết và mày sẽ không bao giờ biết,’ và nó nói, ‘Chúa đâu phải mọi đen,’ và thằng mọi đen nói, ‘Theo tao thì mày phải biết Chúa là gì, bởi vì không ai khác ngoài Chúa ra biết mày là ai.’ Nhưng Chúa không có đó để lên tiếng, bởi vì sau khi để cho ý Ngài được thực hiện, Ngài đã để lão Doc Hines ở lại đây để theo dõi việc này. Ngay từ đêm đầu tiên đó, sau khi đã chọn ngày sinh nhật thiêng liêng của Con của chính Ngài để khởi động sự thực hiện ý Ngài, Ngài đã chọn lão Doc Hines để theo dõi. Đêm đó trời lạnh lắm, và lão Doc Hines thì đứng trong bóng tối ngay sau góc nhà, từ đó lão có thể thấy bậc tam cấp và ý Chúa thành sự thực, lão thấy tên bác sĩ trẻ đến gần với tâm trạng sa đọa và gian dâm. Y ngừng bước, cúi người xuống, và y đưa tay bưng lên sự ghê tởm của Chúa và mang vào trong nhà. Và lão Doc Hines đi theo, lão thấy và nghe. Lão thấy những con đàn bà trẻ tuổi bẩn thỉu, trong khi bà giám đốc vắng mặt thì chúng làm ô uế ngày sinh nhật thiêng liêng của Chúa bằng món sữa đánh trứng pha rượu [109] và rượu uýt-ki. Chúng mở tấm mền ra. Và chính con nhỏ đó, cái con đĩ ngựa trơ tráo của tên bác sĩ, nó là công cụ của Chúa đó, nó nói, ‘Chúng ta hãy đặt tên cho nó là Christmas đi!’ và một con nhỏ khác nói, ‘Cái gì Christmas? Christmas cái gì?’ và Chúa nói với lão Doc Hines, ‘Con hãy nói với chúng đi,’ và tất cả các con nhỏ với mùi sa đọa nồng nặc bốc ra trên người đưa mắt nhìn lão Doc Hines và la lên, ‘Ủa, bác Doc đây mà. Bác Doc nhìn này, đây là quà ông già Nô-en đã mang tới cho chúng tôi và để ở bậc tam cấp,’ và lão Doc Hines nói, ‘Tên nó là Joseph,’ và cả bọn ngừng cười, nhìn lão Doc Hines, và con đĩ ngựa đó nói, ‘Làm sao ông biết?’ lão Doc Hines nói, ‘Chúa Trời biểu vậy,’ và rồi chúng lại cười to, la lên, ‘Trong Kinh thánh có viết rõ ràng như vậy: Christmas, con trai của Joe. Joe, con trai của Joe. Joe Christmas,’ chúng nói, ‘Chúc sức khỏe Joe Christmas,’ và chúng cố ép lão Doc Hines uống rượu nữa chớ, để chúc sức khỏe cho sự ghê tởm của Chúa, nhưng lão gạt ly rượu qua một bên. Và lão chỉ có việc theo dõi và chờ đợi, và lão đã làm như vậy theo sự vui thích của Chúa, cho đến khi cái ác đi ra từ cái ác. Và cái con đĩ ngựa của tên bác sĩ tất tả chạy đến từ cái giường tà dâm của nó, còn bốc mùi tội lỗi và sợ hãi. ‘Nó nấp sau cái giường,’ con nhỏ nói, và lão Doc Hines nói, ‘Cái xà bông thơm làm cô thèm làm chuyện đồi trụy đó, cô đã dùng nó cho sự ghê tởm và sự sỉ nhục của Chúa. Giờ thì cô hãy chịu đựng hậu quả,’ và con nhỏ nói, ‘Ông có thể nói chuyện với nó. Tôi đã thấy ông. Có lẽ ông có thể thuyết phục được nó,’ lão Doc Hines nói, ‘Tôi không để ý đến mấy chuyện gian dâm của cô nhiều hơn Chúa để ý đâu,’ và con nhỏ nói, ‘Nó sẽ khai ra và tôi sẽ bị đuổi việc. Tôi sẽ bị nhục nhã.’ Đứng gần lão Doc Hines lúc đó, con nhỏ bốc mùi thèm khát và tà dâm. Và ý Chúa thì được thực hiện trên con nhỏ vào giây phút đó, trên con nhỏ đã xúc phạm đến ngôi nhà mà Chúa cho những đứa con không mẹ không cha của Ngài vào ở. ‘Cô chẳng là gì cả,’ lão Doc Hines nói. ‘Cô và tất cả bọn đàn bà bẩn thỉu đó. Cô chỉ là một công cụ cho sự trả thù của Chúa mà không có Ngài thì ngay cả một con chim sẻ cũng không thể rơi xuống đất. Cô là công cụ của Chúa, giống như Joe Christmas, giống như lão Doc Hines này.’ Và con nhỏ bỏ đi và lão Doc Hines chờ đợi, quan sát và chẳng mấy chốc con nhỏ quay lại, mang bộ mặt giống như bộ mặt những con thú đói đi kiếm mồi ở sa mạc. ‘Tôi đã trừng trị nó rồi,’ con nhỏ nói, và lão Doc Hines nói, ‘Trừng trị cách nào?’, bởi vì lão Doc Hines cái gì lại không biết, bởi vì Chúa Trời không giấu giếm mục đích của Ngài với công cụ mà Ngài đã chọn, và lão Doc Hines nói, ‘Cô đã thực hiện ý muốn đã định trước của Chúa. Bây giờ cô có thể đi rồi đó, và cứ căm ghét Ngài một cách thoải mái cho tới Ngày phán xét cuối cùng,’ và bộ mặt con nhỏ trông như những con thú đói đi kiếm mồi ở sa mạc, và từ cặp môi ô nhiễm với màu đỏ bẩn thỉu của nó, con nhỏ bật cười khanh khách trước mặt Chúa. Và sau đó họ đến và đưa thằng bé đi chỗ khác. Lão Doc Hines thấy nó ra đi trên một chiếc xe độc mã, lão quay vào để chờ Chúa và Chúa đến và Ngài nói với lão Doc Hines, ‘Con cũng có thể đi nữa, bây giờ. Con đã làm công việc của Ta. Ở đây thì không còn tội lỗi nào khác ngoài các tội lỗi của đàn bà và chúng không đáng để cho công cụ mà Ta đã chọn ở lại để theo dõi chúng.’ Và lão Doc Hines đã ra đi khi Chúa biểu lão đi. Nhưng lão giữ liên hệ với Chúa và vào ban đêm lão nói, ‘Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa?’ và Chúa nói, ‘Nó vẫn còn đang đi trên mặt đất của Ta,’ và lão Doc Hines giữ liên hệ với Chúa, vào ban đêm lão nói, ‘Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa?’ và Chúa nói, ‘Nó vẫn còn đang đi trên mặt đất của Ta,’ và lão Doc Hines giữ liên hệ với Chúa và vào một đêm kia lão giãy giụa, lão chống chọi và lão hét to lên, ‘Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa? Con cảm thấy! Con cảm thấy các cái răng, các cái răng nanh của cái ác!’ và Chúa nói, ‘Đó là thằng con hoang này. Công việc của con chưa làm xong. Nó là sự ô nhiễm và sự ghê tởm trên mặt đất của Ta.’ ”

***

Tiếng nhạc từ một ngôi nhà thờ xa xôi đã chấm dứt từ lâu. Qua cái cửa sổ mở, bây giờ chỉ còn vô số âm thanh yên bình của đêm hè tràn vào. Hightower ngồi sau bàn giấy; hơn bao giờ hết, ông trông vụng về như một con thú bị người ta lừa gạt, đùa nghịch trong nhu cầu trốn chạy của nó, bây giờ bị dồn vào đường cùng bởi chính những người đã đùa nghịch, đã lừa gạt nó. Ba người kia ngồi đối diện ông, trông như một hội thẩm đoàn. Hai người thì cũng bất động: người đàn bà với bộ mặt đông cứng, kiên nhẫn như một tảng đá biết đợi chờ; và lão già với cái gì đó sức tàn lực tận, như cái bấc cháy xém của một cây nến mà ngọn lửa đã bị thổi tắt một cách quá mạnh. Chỉ có mình Byron trông có sinh khí. Đầu cúi xuống, anh có vẻ ngắm nhìn một trong hai bàn tay đặt trên đùi, ngón cái và ngón trỏ cùng xoa xoa lẫn nhau, chậm rãi, như thể nắn bóp cho nhau trong khi anh có vẻ vừa nhìn mải mê, vừa đắm chìm trong suy tư. Khi Hightower nói, Byron biết là ông ta không ngỏ lời với mình, không ngỏ lời với ai cả trong căn phòng. “Họ muốn tôi làm cái gì đây?” ông nói. “Họ nghĩ, họ hy vọng, họ tin cái gì mà tôi có thể làm được đây?”

Không có tiếng nói nào trả lời; dường như cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều không nghe. Byron không trông đợi người đàn ông nghe. ‘Lão không cần giúp đỡ,’ anh nghĩ. ‘Nhưng lão cần người ta ngăn chặn lão lại.’ Anh suy nghĩ, anh nhớ lại trạng thái hôn mê xảy ra sau khi sự xuất thần, gần như điên dại, bị ngưng lại, và lão đã di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, ít nhiều sau lưng người đàn bà, trong trạng thái hôn mê này từ khi anh gặp họ cách đây mười hai giờ. ‘Lão cần người ta ngăn chặn lão lại. Mình cho là đó là một điều tốt cho nhiều người hơn là chỉ riêng bả nếu lão trở nên gần như không thể tự lực được nữa.’ Lão đang nhìn người đàn bà. Lão nói một cách nhỏ nhẹ, hầu như dịu dàng: “Bà ơi, hãy nói cho ổng biết bà muốn gì. Ổng muốn biết bà muốn ổng làm gì. Bà nói ra đi!”

“Tôi có nghĩ có lẽ -” bà nói. Bà nói, nhưng không cử động. Giọng bà thì ít rụt rè hơn là khàn khàn, như thể bà buộc phải nói ra một điều gì đó nằm ngoài phạm vi của những điều mà người ta nói oang oang, một điều gì đó mà người ta chỉ có thể cảm nhận và hiểu biết. “Ông Bunch có nói là có lẽ -”

“Cái gì?” Hightower nói. Ông nói một cách gay gắt, nôn nóng, hơi lên giọng; ông cũng không cử động, ngồi ngả người trên ghế, hai bàn tay đặt trên chỗ dựa tay. “Cái gì? Cái gì gì đây?”

“Tôi có nghĩ...” Giọng nói lại tắt lịm. Tiếng côn trùng rì rào liên tục nghe qua cửa sổ.