Chương 17
Đó là vào đêm chủ nhật. Đứa con của Lena sinh ra vào sáng hôm sau. Trời mới hừng đông khi Byron cho con la đang phi nước đại dừng lại trước ngôi nhà mà anh đã rời đi chưa đầy sáu tiếng đồng hồ trước đó. Anh vừa nhảy xuống đất là ba chân bốn cẳng chạy lên cái lối đi hẹp dẫn đến hàng hiên tối tăm. Dù vội vã, anh vẫn có vẻ bàng quan tự nhìn mình suy nghĩ mà không thấy ngạc nhiên khó chịu: ‘Byron Bunch cho ra đời một đứa bé. Nếu mình có thể thấy mình trong vai trò đó cách đây hai tuần, mình đã không tin vào chính mắt mình. Mình hẳn đã bảo họ là họ nói láo.’
Cửa sổ bây giờ thì tối. Sáu giờ trước đó, chính đằng sau cái cửa sổ này, anh đã chia tay với ông mục sư. Vừa chạy, anh vừa thấy lại trong đầu cái đầu hói, hai bàn tay nắm lại, cái thân hình mềm nhão nằm dài trên bàn giấy. ‘Nhưng mình cho là ổng thiếu ngủ,’ anh nghĩ. ‘Dù ổng không làm - làm - ’. Anh không thể tìm ra cái từ bà mụ mà anh biết là Hightower sẽ dùng. ‘Mình cho là mình không cần tìm nó chi cho mệt óc,’ anh nghĩ. ‘Như một anh chàng chạy về phía mũi súng đang chĩa ra trước mặt hay chạy tránh xa nó thì đâu có thì giờ để bận tâm về cái từ chỉ hành động của y là can đảm hay hèn nhát.’
Cửa ra vào thì không khóa. Hình như anh đã biết là nó không khóa. Anh dò dẫm bước vào trong hành lang, gây ra tiếng động mà anh không cố tránh gây ra. Anh chưa hề đi vào trong nhà xa hơn căn phòng nơi anh đã thấy ông chủ nhà nằm ườn ra trên bàn, ngay dưới ánh sáng chiếu xuống của ngọn đèn. Vậy mà anh hầu như đi thẳng tới đúng cái cửa, làm như anh biết nó, hay có thể thấy nó, hay được ai dẫn dắt. ‘Ổng sẽ cho là như vậy đó,’ anh nghĩ, mò mẫm hấp tấp trong bóng tối. ‘Và cổ cũng sẽ cho là như vậy.’ Anh muốn nói tới Lena, đang nằm trong căn lều ngoài kia, đã bắt đầu đau đẻ. ‘Chỉ phải cái là cả hai người lại dùng hai cái tên khác nhau để chỉ người dẫn dắt.’ Anh bây giờ có thể nghe Hightower ngáy, trước khi anh vào căn phòng. ‘Rốt cuộc ổng coi bộ không bị lo phiền cho lắm,’ anh nghĩ. Rồi ngay tức khắc anh lại nghĩ: ‘Không. Điều đó thì không đúng đâu. Không công bằng đâu. Bởi vì mình không tin điều đó. Mình biết là, nếu ổng ngủ, và nếu mình không ngủ, đó là vì ổng già rồi và sức chịu đựng của ổng thì yếu hơn mình.’
Anh đến gần giường. Người nằm ở đó, vẫn chưa thể thấy được, thì đang ngáy say sưa. Trong tiếng ngáy này thì có cái gì đó thăm thẳm và buông xuôi hoàn toàn. Không phải sự kiệt sức đâu, mà là sự buông xuôi, như thể ông đã từ bỏ, đã mất đi hẳn thế chủ động trên cái hỗn hợp của lòng kiêu hãnh, niềm hy vọng, tính kiêu căng và nỗi sợ hãi, và trên cái sức mạnh để gắn bó hoặc với sự thất bại, hoặc với sự thắng lợi, mà từ các yếu tố này cái Tôi-Là [110] được cấu thành; và sự từ bỏ các yếu tố này thì thường thường là cái chết. Đứng bên cạnh giường, Byron lại nghĩ lần nữa Một chuyện rất buồn. Một chuyện rất buồn Anh bây giờ có cảm tưởng rằng đánh thức người đàn ông đó từ giấc ngủ này là một sự tổn thương nặng nề nhất mà anh đã gây ra cho ông từ trước đến nay. ‘Nhưng mình không phải là người đang đợi,’ anh nghĩ. ‘Chúa biết điều đó. Bởi vì mình tin là Ngài mới gần đây cũng theo dõi mình cũng như mọi người khác, để xem mình sẽ làm cái gì tiếp theo.’
Anh đưa tay chạm người đang ngủ, không thô bạo nhưng cương quyết. Tiếng ngáy ngưng lại nửa chừng dưới bàn tay Byron. Hightower, béo phì, bất ngờ ngồi bật dậy. “Sao?” ông nói. “Cái gì đây? Ai vậy? Ai đứng đó?”
“Tôi đây mà,” Byron nói. “Byron lại đến đây. Ông tỉnh ngủ bây giờ chưa?”
“Rồi. Cái gì -?”
“Dạ, bả nói sắp đến lúc rồi. Sắp đẻ tới nơi rồi.”
“Bà nào?”
“Chỉ tôi cái đèn nằm chỗ nào... Bà Hines đó... Bả ở ngoài kia. Tôi đi tiếp tìm ông bác sĩ đây. Nhưng phải mất thời gian. Vì vậy ông có thể lấy con la tôi mà đi. Tôi nghĩ từ đây đến đó thì không quá xa đối với ông. Ông vẫn mang theo cuốn sách của ông chớ?”
Chiếc giường kêu cọt kẹt khi Hightower cử động. “Cuốn sách nào cà? Cuốn sách của tôi à?”
“Cuốn sách mà ông đã dùng khi đứa bé mọi đen sinh ra đó. Tôi chỉ muốn nhắc lại ông trong trường hợp ông cần mang nó theo. Trong trường hợp tôi không về lại kịp với ông bác sĩ đó mà. Con la đang ở ngoài cổng. Nó thì biết đường rồi. Tôi sẽ đi bộ vào phố tìm ông bác sĩ. Tôi sẽ về lại ngoài đó ngay khi có thể.” Anh quay người, đi ngang qua căn phòng lần nữa. Anh có thể nghe, cảm thấy người kia ngồi ở giường. Anh ngừng ngay giữa phòng, chỉ vừa đủ thời gian cần thiết để tìm thấy ngọn đèn được treo từ trần xuống và đưa tay bật nó. Khi ánh sáng đến thì anh đã bước ra phía cửa. Anh không ngoái cổ nhìn lại. Anh nghe tiếng nói của Hightower sau lưng mình:
“Byron! Byron!” Anh không dừng lại, không trả lời.
Trời rạng dần. Anh bước nhanh trên con đường vắng, dưới những ngọn đèn đường đặt cách nhau đang mờ dần nhưng các con sâu bọ vẫn còn quay lộn, va chạm nhau. Nhưng ngày đang lên; khi anh đến quảng trường thì các mặt tiền nhà ở phía đông nổi bật lên trên nền trời. Anh đang suy nghĩ nhanh. Anh đã không thu xếp gì hết với một bác sĩ nào. Vừa đi, anh vừa tự sỉ vả mình, anh bị giày vò bởi sự khiếp sợ pha lẫn giận dữ mà một người cha trẻ cảm thấy trước cái điều mà bây giờ anh tin là một sự cẩu thả ngu xuẩn và tội ác. Tuy vậy, đó không phải chính xác là mối quan tâm của một người sắp sửa làm cha. Đằng sau tình cảm này thì có cái gì khác mà anh chỉ nhận ra được sau này mà thôi. Như thể trong trí óc của anh còn bị làm cho u tối bởi sự cần thiết phải vội vã, có cái gì đó sắp sửa lao vào người anh, tất cả móng vuốt đều giương ra. Nhưng điều mà anh đang nghĩ là, ‘Mình phải quyết định ngay tức khắc. Ổng đã đỡ đẻ tốt cho con mụ da đen đó, người ta đồn vậy. Nhưng lần này thì khác. Lẽ ra mình phải làm chuyện này từ tuần trước chớ, phải hỏi han về bác sĩ chớ, thay vì cứ đợi, bây giờ thì phải giải thích lên, giải thích xuống vào phút chót, phải đi gõ cửa hết nhà này đến nhà nọ cho tới khi tìm được một bác sĩ chịu đi đến đỡ đẻ, chịu tin những lời láo khoét mà mình sẽ phải nói ra. Trời ơi, sao dạo này mình có vẻ nói láo quá trời luôn, nói nhiều đến nỗi bây giờ mình chắc có thể phịa ra những chuyện mà ai cũng tin, đàn ông cũng như đàn bà. Nhưng có vẻ như là mình không thể làm vậy. Mình cho là vì tính nết mình nên mình không thể sáng chế ra một lời nói láo hay ho và nói ra một cách hay ho.’ Anh đi nhanh, các bước chân nghe rỗng rang, cô độc trên con đường vắng lặng; anh không tự mình nhận ra là anh đã quyết định. Anh thấy không có gì nghịch lý hay khôi hài chút nào về cái quyết định này. Nó đã vào trong đầu óc anh quá nhanh và trụ lại trong đó một cách vững chắc khi anh ý thức về nó. Nó điều khiển các bước chân anh; và các bước chân này dẫn anh tới nhà của cùng một ông bác sĩ đã đến quá trễ khi đứa bé da đen sinh ra mà Hightower đã đỡ đẻ mẹ nó bằng cái dao cạo và cuốn sách đó.
Viên bác sĩ cũng đến quá trễ lần này nữa. Byron đã phải chờ ông mặc quần áo. Ông giờ đã hơi già, hay nhắng nhít và tỏ vẻ cáu kỉnh vì bị đánh thức vào giờ này. Rồi ông phải đi tìm chiếc chìa khóa xe hơi mà ông để trong một két sắt nhỏ, và đến phiên nó, cái chìa khóa của cái két sắt này thì ông không thể tìm ra ngay! Ông cũng không cho phép Byron phá ổ khóa. Vậy là khi hai người cuối cùng đến được căn lều thì bầu trời ở phía đông đã có màu vàng nhạt của hoa anh thảo, và người ta đã cảm thấy được mặt trời mùa hè lên nhanh. Và một lần nữa, hai người đàn ông, giờ đã già hơn trước, gặp lại nhau ở cửa căn lều một phòng, người chuyên nghiệp lại thua người nghiệp dư lần nữa, vì khi bước qua cửa, ông bác sĩ nghe tiếng khóc của trẻ mới sinh. Ông nháy mắt với ông mục sư một cách bực bội. “Này, bác sĩ,” ông nói, “Phải chi Byron nói cho tôi biết là đã mời ông tới đây thì tôi hẳn còn nằm trong giường.” Ông đẩy ông mục sư ra để đi vào trong. “Ông có vẻ may mắn lần này hơn là lần trước khi chúng ta hội ý. Chỉ phải cái là ông trông như ông cần một bác sĩ cho chính ông. Hay có lẽ ông cần một tách cà phê.” Hightower nói cái gì đó, nhưng viên bác sĩ đã đi tiếp, không dừng bước để nghe. Ông đi vào căn phòng, nơi một người đàn bà trẻ mà ông chưa hề gặp trước đó đang nằm, tái xanh, kiệt sức, trên một cái giường hẹp, và một bà già mặc áo đầm tím mà ông cũng chưa hề gặp trước đó, đang giữ đứa bé trên đùi. Trong bóng tối, một ông già đang ngủ trên một cái giường nhỏ khác. Khi chợt thấy lão, viên bác sĩ tự nhủ là lão ta trông như đã chết, chính là vì lão ngủ rất say và yên bình. Nhưng viên bác sĩ thoạt đầu không thấy ra lão ngay. Ông đến gần bà già đang giữ đứa bé. “À há, à há,” ông nói. “Cái anh Byron này chắc là phấn khích dữ lắm. Không thèm nói với tôi là tất cả mọi người trong gia đình đều có mặt ở đây, kể cả ông ngoại và bà ngoại.” Bà già ngước mắt nhìn lên ông. Ông nghĩ, ‘Bà này thì đang ngồi thật đấy, nhưng bả cũng có vẻ chết rồi như lão kia. Bả lại còn có vẻ quá lẩm cẩm để nhận ra đứa bé cũng là con cháu bả, chưa nói đến chuyện bả là bà ngoại nó.’
“Dạ,” người đàn bà nói. Bà nhìn lên ông, người cúi trên đứa bé. Lúc đó ông mới thấy ra là bộ mặt bà thì không ngu đần, không trống rỗng chút nào. Ông thấy nó vừa thanh thản, vừa khủng khiếp cùng lúc, làm như sự thanh thản và sự khủng khiếp, cả hai đã chết từ lâu, giờ đây sống lại cùng lúc. Nhưng tức khắc ông nhận ra trước nhất cái tư thế của bà, một tư thế như tảng đá và như con thú ẩn mình. Bà hất cằm về phía lão già; lần đầu tiên, viên bác sĩ nhìn lão một cách trọn vẹn, trên cái giường kia lão đang ngủ. Bà nói, trong tiếng thầm thì tinh ranh và căng thẳng với sự khủng khiếp còn lại: “Tôi đã đánh lừa ổng. Tôi đã nói với ổng là lần này ông sẽ vào từ phía sau. Tôi đã đánh lừa ổng. Nhưng bây giờ ông ở đây rồi. Ông bây giờ có thể chăm sóc cho Milly. Tôi sẽ lo cho Joey.” Rồi mọi thứ biến mất dần dần. Trong khi ông nhìn, sự sống, sự sinh động, biến dần rồi bất ngờ thoát khỏi một khuôn mặt có vẻ quá nín lặng, quá buồn tẻ để bao giờ có thể có đến cả cái ánh phản chiếu của sự sống đó; bây giờ bà dò hỏi ông bằng cái nhìn chằm chằm, câm lặng, không thành tiếng, hoang mang trong khi bà cúi người trên đứa bé, như thể sợ ông muốn giựt nó ra khỏi tay bà. Các cử động của bà có lẽ đã đánh thức đứa bé, nó kêu khóc một lần. Rồi sự hoang mang đến lượt nó cũng biến đi. Nó biến đi một cách dịu dàng như một cái bóng; bà nhìn xuống đứa bé, trầm ngâm, mặt như hóa đá, buồn cười. “Joey đây mà,” bà nói. “Ôi, thằng con bé nhỏ của Milly yêu quý của mình đây mà.”
Và Byron, đứng ngoài cửa, nơi mà anh đã dừng lại khi viên bác sĩ đi vào trong, nghe tiếng khóc đó và rồi có cái gì đó kinh khiếp xảy ra với anh. Trước đó, khi anh đang ở trong lều cắm trại của mình thì nghe tiếng bà Hines gọi anh; và có cái gì đó trong giọng bà khiến anh gần như vừa xỏ quần vừa chạy. Ở cửa ra vào căn lều, anh đi ngang qua bà Hines, bà chưa kịp thay quần áo, và anh vào trong. Rồi anh thấy nàng, và anh đứng khựng lại, người như hóa đá. Bà Hines đến bên anh, nói chuyện với anh; có lẽ anh có trả lời, anh có nói lại. Dù gì đi nữa, anh đã thắng yên cho con la trước đó và giờ thì anh đã chạy nước đại xuống phố, và anh vẫn còn có vẻ đang nhìn nàng, nhìn gương mặt nàng trong khi nàng nửa nằm, nửa ngồi trên cái giường nhỏ, chống người trên hai cánh tay, nhìn xuống thân thể mình dưới tấm ra trải giường với sự khủng khiếp rên rỉ và vô vọng. Hình ảnh đó luôn hiện ra trước mắt anh trong khi anh đánh thức Hightower, trong khi anh thuyết phục viên bác sĩ ra đi, trong khi đâu đó bên trong con người anh một cái có móng vuốt đang lẩn quất và chờ đợi. Nhưng ý nghĩ thì đi quá nhanh để mà anh có thì giờ suy nghĩ. Đúng là như vậy đó. Ý nghĩ thì quá nhanh để anh có thì giờ suy nghĩ. Điều này kéo dài cho tới khi anh và viên bác sĩ về đến căn lều. Rồi thì ngay bên ngoài cánh cửa, nơi anh đã dừng lại, anh nghe tiếng đứa bé kêu khóc một lần và cái gì đó kinh khiếp xảy ra với anh.
Giờ thì anh biết cái có móng vuốt đó có vẻ đang lẩn quất và chờ đợi là cái gì rồi trong khi anh băng qua cái quảng trường trống vắng tìm gặp viên bác sĩ mà anh đã sao lãng hẹn trước. Bây giờ anh biết tại sao anh đã sao lãng hẹn trước với một bác sĩ để đỡ đẻ. Chính vì anh, cho tới khi bà Hines gọi anh khi anh ở trong lều riêng của mình, đã không tin là anh (hay nàng) sẽ cần một bác sĩ, sẽ có nhu cầu đó. Như thể từ một tuần nay cặp mắt anh đã chấp nhận hình dạng của cái bụng nàng mà tâm trí anh lại không tin. ‘Tuy vậy, mình thực sự biết, thực sự tin,’ anh nghĩ. ‘Chắc là mình đã biết nên mới làm những gì mình đã làm: chạy, nói láo, quấy rầy người ta.’ Nhưng bây giờ anh thấy là anh đã thực sự không tin cho tới khi anh đi ngang qua bà Hines và nhìn vào trong căn lều. Lần đầu tiên khi tiếng gọi của bà Hines đến trong giấc ngủ, anh biết đó là cái gì, biết điều gì xảy ra; anh đứng dậy và hấp tấp mặc những áo quần cần thiết như người ta mặc vội mặc vàng cái quần yếm lao động. Và anh biết tại sao, biết là mình đã trông đợi điều này từ năm đêm nay. Vậy mà anh vẫn còn không tin. Bây giờ anh biết là khi chạy đến căn lều và nhìn vào bên trong, anh đã trông đợi thấy nàng ngồi dậy; hay có lẽ thấy nàng đứng ở cửa đón anh, bình thản, không thay đổi, ở bên ngoài thời gian. Nhưng ngay cả khi đặt tay lên cửa, anh nghe thấy cái gì đó mà anh chưa hề nghe thấy trước đây. Đó là tiếng rên rỉ ai oán, rõ to, với cái gì đó vừa say sưa vừa hèn hạ cùng lúc, một tiếng rên rỉ dường như đang nói một cách rõ ràng với cái gì đó trong một thứ ngôn ngữ mà anh biết không phải là ngôn ngữ của anh và cũng không phải của bất cứ con người nào. Rồi anh đi ngang qua bà Hines ở cửa ra vào, và anh thấy nàng nằm trên cái giường nhỏ. Anh chưa từng thấy nàng nằm trong giường trước đó và anh đã tin là khi, hoặc nếu có bao giờ, anh thấy như vậy, nàng sẽ tỏ ra bồn chồn, lanh lợi, có lẽ hơi mỉm cười, và hoàn toàn ý thức về sự hiện diện của anh. Nhưng khi anh đi vào, nàng thậm chí không nhìn anh. Nàng thậm chí có vẻ như không biết là cửa ra vào đã mở, là bây giờ có người hay cái gì đó trong căn phòng ngoài nàng và cái gì đó ra, cái mà nàng đã nói chuyện bằng tiếng rên rỉ trong một ngôn ngữ chưa ai từng biết. Nàng đắp chăn kéo lên tận cằm, nhưng nửa thân trên của nàng thì chống lên trên hai cánh tay và đầu nàng thì cúi xuống. Tóc nàng buông xõa, cặp mắt trông như hai cái lỗ và miệng bây giờ thì nhợt nhạt như cái gối sau đầu nàng. Và trong tư thế lo sợ và ngạc nhiên đó, trong khi nàng có vẻ ngắm nhìn cái hình dạng của thân thể mình dưới cái mền bằng một sự hoài nghi bị xúc phạm, nàng lại bật lên một tiếng kêu rên rỉ lần nữa, nghe rõ to và thấp hèn. Bà Hines bây giờ khom người trên nàng. Bà quay đầu, khuôn mặt cứng đờ trên đôi vai màu tím. “Chạy đi,” bà nói. “Chạy tìm bác sĩ tới đây. Đã đến lúc rồi đó.”
Anh không nhớ mình đã đi tới chuồng la chút nào. Vậy mà anh ở đó, dắt ra con la của mình, kéo cái yên ra và đặt mạnh lên lưng con la. Anh làm một cách nhanh tay lẹ mắt nhưng sự suy nghĩ thì diễn biến chậm chạp. Bây giờ anh biết tại sao. Anh biết, bây giờ, là sự suy nghĩ diễn biến chậm chạp và trôi chảy, với sự tính toán, giống như dầu được đổ chậm rãi lên trên bề mặt của một cơn bão đang kéo đến. ‘Giá mà mình biết lúc đó,’ anh nghĩ. ‘Giá mà mình biết lúc đó. Giá mà mình hiểu ra lúc đó.’ Anh nghĩ điều này một cách thầm lặng, với một niềm tuyệt vọng, một nỗi hối tiếc kinh hãi. ‘Đúng vậy. Mình hẳn đã quay lưng và bỏ chạy về phía ngược lại. Vượt quá sự hiểu biết, vượt quá trí nhớ của con người, mình cho là mình hẳn đã bỏ chạy mãi mãi.’ Nhưng anh không làm vậy. Anh chạy nhanh qua trước căn lều, sự suy nghĩ của anh tiếp tục, trôi chảy, đều đều, mà anh chưa biết tại sao. ‘Trông cho mình có thể chạy qua và ra khỏi tầm nghe trước khi cổ la hét lần nữa,’ anh nghĩ. ‘Trông cho mình có thể chạy qua trước khi mình phải nghe cổ lần nữa.’ Điều này kéo anh đi được một lát, ra tận con lộ. Giờ thì con la nhỏ này, với những cơ bắp cứng khỏe, đang chạy nhanh. Anh nghĩ, như dầu lan ra êm ả, đều đều: ‘Mình sẽ tới tìm Hightower trước tiên. Mình sẽ để con la cho ổng sử dụng. Mình phải nhớ nhắc ổng mang theo cuốn sách y học. Mình không được quên chuyện này,’ dòng dầu lan đó vừa nói, vừa đưa anh tới tận nhà ông mục sư, và anh đi vào, sau khi nhảy xuống từ con la còn đang chạy. Rồi một ý nghĩ khác hiện ra trong đầu anh. ‘Vậy là bây giờ xong một chuyện,’ trong khi anh nghĩ Dù cho mình không thể mời được một bác sĩ chính qui Điều này đưa anh tới quảng trường, rồi phản bội anh; anh có thể cảm thấy nó, tức cái có móng vuốt, đang lẩn quất đâu đó, trong khi anh nghĩ Dù cho mình không mời được một bác sĩ chính qui. Bởi vì mình đã không bao giờ tin là mình sẽ cần bác sĩ. Mình đã không tin mà Ý nghĩ này, nó phi nước đại trong đầu anh, vội vàng bị buộc cặp một cách nghịch lý với sự cần thiết phải khẩn trương trong khi anh giúp ông bác sĩ già tìm chìa khóa của cái két sắt để lấy ra chiếc chìa khóa xe hơi. Hai người cuối cùng tìm ra nó, và trong một thời gian sự cần thiết phải khẩn trương lại đi tay trong tay với sự di chuyển, tốc độ, trên con đường vắng lặng, trong buổi rạng đông trống trải. Đúng là như vậy, trừ phi là anh đã từ bỏ toàn bộ thực tại, tất cả sự kinh hãi và lo sợ, và đặt chúng vào tay viên bác sĩ bên cạnh anh, như người ta thường làm. Dù sao đi nữa, điều này đưa anh tới căn lều, và hai người xuống xe hơi và đi về phía cửa, ngọn đèn vẫn còn cháy sáng bên trong: vào khoảnh khắc đó, anh chạy trong chỗ đứt quãng cuối cùng của sự yên bình trước khi cú đòn giáng xuống và cái có móng vuốt đến bấu chặt anh từ phía sau. Ngay lúc đó anh nghe tiếng đứa bé khóc. Ngay lúc đó anh hiểu ra. Trời đang sáng nhanh. Anh đứng đó, trầm lặng, trong sự yên bình giá lạnh, trong sự tỉnh thức lặng lẽ - nhỏ nhoi, khó tả, anh, một người mà không ai, bất kể đàn ông hay đàn bà và bất kể ở đâu, quay đầu lại hai lần để nhìn. Bây giờ anh biết là bao giờ cũng có cái gì đó đã bảo vệ anh chống lại sự cần thiết phải tin, và cũng đã bảo vệ anh bằng cách làm anh tin. Với sự ngạc nhiên khô khan và cứng nhắc, anh nghĩ Như thể không phải cho tới khi bà Hines gọi mình và mình nghe tiếng cổ và thấy mặt cổ và biết ra rằng Byorn Bunch chẳng là gì cả trên thế gian này đối với cổ ngay lúc đó, rằng mình nhận ra là cổ chẳng còn trinh Và anh nghĩ chuyện này thật là kinh khủng, nhưng chưa hết đâu. Còn có chuyện khác nữa. Đầu vẫn giữ thẳng, anh đứng bất động trong buổi rạng đông đang lớn dần, và anh nghĩ một cách bình thản Và chuyện đó cũng dành cho mình nữa như ông mục sư Hightower nói. Giờ thì mình sẽ phải nói ra với ổng. Mình sẽ phải nói ra với Lucas Burch Ý nghĩ này, bây giờ, không còn hiện ra trong đầu anh như cái gì tự nhiên nữa, nhưng đúng hơn, nó như là nỗi tuyệt vọng não nề và không thể cứu chữa được của thời thanh niên mới lớn Sao! Nhưng tới tận bây giờ mình thậm chí không hề tin rằng hắn là như vậy. Mình có cảm tưởng rằng mình, cổ, và tất cả những người khác mà mình đã phải lôi kéo vào chuyện này, chỉ là một đống từ ngữ không hề có nghĩa lý gì hết, rằng chúng ta thậm chí không phải là chúng ta, trong khi cái là chúng ta thì nó luôn sống tiếp và sống tiếp mà không thấy tiếc là đã không có chữ nghĩa để chỉ định chúng ta. Đúng vậy, chỉ bây giờ mình mới tin hắn là Lucas Burch. Thật buồn là có thật một tên Lucas Burch
“May mắn,” Hightower nói; “May mắn. Tôi không biết tôi có nó hay không.” Nhưng viên bác sĩ đã đi vào trong căn lều. Hightower còn ngoái đầu nhìn thêm một lát nữa, nhìn mấy người đang ở gần giường, và ông vẫn nghe giọng nói vui vẻ của viên bác sĩ. Người đàn bà già giờ đây ngồi yên, vậy mà trong khi nhìn lại bà ông có cảm tưởng là chỉ mới vài khoảnh khắc trước đó thôi ông đã giành giựt với bà để lấy lại đứa bé vì sợ rằng bà buông rơi nó trong nỗi kinh hãi vừa ngu ngốc, vừa giận dữ của bà. Sự ngu ngốc đó không làm giảm đi sự giận dữ sau khi đứa bé gần như bị lôi ra khỏi người mẹ nó, bà vừa cầm nó giơ lên rất cao, cả thân hình nặng nề của bà như thu mình lấy đà nhảy vọt lên khiến bà trông giống như con gấu, vừa nhìn trừng trừng lão già đang nằm ngủ trên giường. Lão đã ngủ như vậy khi Hightower đến. Lão dường như không thở chút nào, và bên cạnh giường lão, bà già ngồi gọn trong chiếc ghế khi ông đi vào. Bà trông giống y chang một tảng đá nằm cheo leo bên bờ vực, và trong một khoảnh khắc Hightower nghĩ Bả đã giết lão rồi. Bả đã phòng ngừa từ rất sớm, lần này Rồi sau đó thì ông có quá nhiều việc phải làm; bà thì ở bên cạnh ông mà ông không để ý, cho đến khi bà chộp lấy đứa bé chưa có thở rồi giơ nó lên cao, mắt nhìn trừng trừng lão già đang ngủ trên cái giường kia với bộ mặt của một con cọp cái. Rồi đứa bé thở, kêu khóc, và bà có vẻ trả lời nó cũng bằng một thứ tiếng không ai biết, hoang dã và đắc thắng. Bà hầu như phát cuồng khi Hightower dùng sức giành giựt với bà và lấy được đứa bé từ tay bà trước khi bà làm rớt nó xuống đất. “Bà thấy đó,” ông nói. “Nhìn kìa! Lão nằm yên đó mà. Lần này lão sẽ không bắt nó đem đi nữa đâu.” Tuy nhiên, bà cứ chằm chằm nhìn ông, với sự ngu độn thú vật, như thể bà không hiểu tiếng Anh. Nhưng sự giận dữ, vẻ đắc thắng đã biến khỏi mặt bà: bà kêu lên một tiếng khàn khàn, rên rỉ, và tìm cách lấy lại đứa bé từ tay ông. “Cẩn thận đó nghe,” ông nói. “Xin bà cẩn thận một chút!” Bà vừa rên rỉ, vừa gật đầu, đưa tay nhẹ nhàng sờ soạng đứa bé. Nhưng hai bàn tay bà thì không run nữa và ông để bà tiếp tục. Và giờ thì bà ngồi ôm nó vào lòng. Viên bác sĩ đã đến quá trễ thì giờ đây đứng bên cạnh giường, nói chuyện với cái giọng vui vẻ, nhưng hay gắt của ông trong khi hai tay ông bận rộn. Hightower quay người lại và đi ra ngoài. Ông cẩn thận bước xuống cái bậc tam cấp đã bị bể, đặt chân xuống đất như một người già, như thể trong cái bụng nhẽo nhèo của ông có cái gì đó chết người, căng thẳng hết sức, cái gì đó giống như thuốc nổ vậy. Rạng đông đã trốn chạy; giờ là buổi sáng: mặt trời đã lên. Ông dừng bước, đưa mắt nhìn xung quanh. Ông gọi: “Byron ơi.” Không có trả lời. Rồi ông thấy là con la mà ông đã buộc vào một cái cột hàng rào gần đó giờ cũng đã biến mất. Ông thở dài. ‘Thôi được,’ ông nghĩ. ‘Vậy là mình đã đạt đến đỉnh điểm của sự sỉ nhục mà mình phải chịu đựng dưới bàn tay của tên Byron, là phải lội bộ hai dặm đường để về nhà. Điều này thì không xứng đáng với Byron, không xứng đáng với lòng căm ghét. Nhưng chuyện xảy ra rất thường là những hành động của chúng ta thì lại không xứng đáng với chúng ta. Và chúng ta thì cũng không xứng đáng với chúng.’
Ông chậm rãi đi bộ về phố - một con người hốc hác, bụng to, với cái mũ rơm rộng vành lấm bẩn và cái đuôi áo sơ-mi bằng vải bông thô được nhét tàm tạm vào trong cái quần tây màu đen. ‘May mà mình chịu khó bỏ thì giờ ra mang giày,’ ông nghĩ. ‘Mình thấm mệt rồi,’ ông nghĩ một cách bực dọc. ‘Mình thấm mệt rồi, và sẽ không tài nào ngủ được.’ Ông vừa bước đi, vừa suy nghĩ một cách bực dọc và rã rời cho tới khi ông rẽ vào cổng nhà. Mặt trời giờ đã lên cao, thành phố đã thức dậy; ông ngửi thấy mùi khói đây đó của bữa ăn sáng mà người ta đang nấu. ‘Bởi vì anh ta đã không muốn để lại con la cho mình sử dụng,’ ông nghĩ, ‘thì lẽ ra anh ta có thể chạy đến nhà mình trước và bật lửa lò bếp sẵn cho mình. Đó là điều tối thiểu mà anh ta có thể làm. Bởi vì anh ta cho rằng mình sẽ ăn ngon miệng hơn nếu mình lội bộ đi dạo hai dặm trước khi ăn.’
Ông vào bếp và bật lửa ở lò, chậm chạp và vụng về; cũng vụng về như ngày đầu tiên, hai mươi lăm năm trước đây, khi ông thử làm. Ông đặt bình cà phê lên lò. ‘Sau đó mình sẽ leo lên giường lại,’ ông nghĩ. ‘Nhưng mình biết sẽ không ngủ được.’ Nhưng ông nhận ra là các ý nghĩ của ông có cái gì đó ảo não, giống như những lời rên rỉ thầm lặng của một người đàn bà ưa than vãn không lắng nghe ngay cả lời mình nói; rồi ông thấy mình đang sửa soạn bữa ăn sáng thịnh soạn như thường lệ, và ông ngừng lại hẳn, tặc lưỡi như thể ông đang tức giận. ‘Mình phải cảm thấy khó chịu hơn nữa chớ,’ ông nghĩ. Nhưng ông phải thừa nhận là ông đã không cảm thấy khó chịu. Và trong khi ông đứng đó, cao lớn, không ra hình thù gì, cô đơn trong căn bếp trống vắng và không được giữ gìn sạch sẽ, ngăn nắp, tay cầm cái chảo rán bằng sắt mà trong đó mỡ chiên ngày hôm qua đã vón cục thảm thê, ông cảm thấy đi xuyên qua người một cảm giác ấm áp, một làn sóng, một sự trào dâng, một thứ nhiệt, gần như một cảm tưởng đắc thắng. ‘Mình đã chỉ bảo họ!’ ông nghĩ. ‘Cuộc đời còn hồi sinh trong ông già này khi họ đến quá trễ. Họ đến để tìm những cái còn thừa của ông ta, như Byron hẳn sẽ nói.’ Nhưng ý tưởng này chỉ là sự kiêu căng, và sự tự hào trống rỗng. Vậy mà cái cảm giác ấm áp, chậm rãi và đang mất dần, thì bất chấp nó và trơ trơ trước những lời quở trách. Ông nghĩ, ‘Rồi sao nữa đây? Nếu mình thực sự cảm thấy điều đó thì sao? Khi nào đó sẽ là một ý thức đắc thắng và tự hào? Rồi sao nữa đây?’ Nhưng sự ấm áp, cái cảm giác ấm áp đó, rõ ràng là không để ý đến mà cũng không cần sự hỗ trợ. Nó cũng chẳng bị làm nguội lạnh bởi một trái cam, những quả trứng và bánh mì nướng phết bơ và mứt. Và ông nhìn xuống những cái dĩa trống dính bẩn ở trên bàn và ông nói, thật to bây giờ: “Trời ơi, mình thậm chí không định rửa bát dĩa bây giờ mà.” Ông cũng không đi vào phòng để tìm cách dỗ giấc ngủ. Ông vừa đi tới tận cửa, nhìn vào phòng ngủ, vẫn với cảm giác ấm áp tự hào, có mục đích rõ ràng, trong người, vừa nghĩ, ‘Giá như mình là đàn bà, lúc này. Đây là điều có thể một người đàn bà sẽ làm: trở vào giường để nghỉ ngơi.’ Ông đi vào phòng làm việc. Với tướng bộ của một người có mục đích để tiến tới. Từ hai mươi lăm năm nay, ông là người đã không bao giờ làm gì hết giữa lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ lại. Và bây giờ, Tennyson không phải là cuốn sách ông chọn. Lần này ông cũng chọn thực phẩm nuôi dưỡng con người. Đó là cuốn Henry Đệ tứ [111] , và ông đi ra sân sau nhà, ngã lưng xuống chiếc ghế võng đã bị chùng đặt dưới cây dâu tằm. Ông buông tấm thân nặng nề nghe cái phịch xuống ghế. ‘Nhưng mình không thể ngủ được,’ ông nghĩ, ‘bởi vì Byron sẽ tới đây sớm để đánh thức mình dậy. Nhưng nội cái việc để biết anh ta còn có thể nghĩ ra trò gì nữa đây để yêu cầu mình làm thì mình tiếc gì mà không thức dậy chớ.’
Ông ngủ nhanh, gần như tức khắc, và bắt đầu ngáy. Ai đó có đi ngang và dừng chân nhìn xuống cái ghế thì hẳn sẽ thấy, dưới ánh phản chiếu song đôi của bầu trời trên cặp kính, một khuôn mặt ngây thơ, yên bình và tự tin. Nhưng không ai đến. Tuy nhiên, khi thức dậy gần sáu tiếng đồng hồ sau đó, ông có cảm tưởng là có người nào đó đã gọi ông. Ông ngồi dậy đột ngột, chiếc ghế kêu cọt kẹt dưới người ông. “Vâng?” ông nói. “Vâng? Có chuyện gì vậy?” Nhưng không có ai ở đây cả, tuy ông nhìn quanh thêm một vài giây nữa. Ông hình như đang nghe, chờ đợi, với cái vẻ tự tin và mạnh mẽ. Và cái cảm giác ấm áp đó vẫn chưa rời ông. ‘Tuy mình đã hy vọng là nó sẽ tiêu tan đi khi ngủ,’ ông nghĩ. Và ngay tức khắc sau đó, ông nghĩ, ‘Không. Mình không có ý nói là mình đã hy vọng . Thực ra, trong ý nghĩ của mình, đó là mình đã sợ . Vậy là mình cũng đã đầu hàng rồi đó,’ ông nghĩ, thầm lặng, trầm tĩnh. Ông bắt đầu xoa hai bàn tay với nhau, lúc đầu dịu dàng, rồi có vẻ hơi xấu hổ. ‘Mình cũng đã đầu hàng. Và mình sẽ tự cho phép... Đúng đó. Có lẽ điều này cũng dành riêng cho mình đây. Và như vậy mình sẽ tự cho phép...’ Rồi thì ông nói ra điều đó, ông nghĩ điều đó Đứa bé đó, mà mình giúp sinh ra đời. Không ai mang họ của mình cả. Nhưng mình đã biết những đứa bé được các mẹ chúng, để tỏ lòng biết ơn, đã cho chúng mang những tên người bác sĩ đã đỡ đẻ cho họ. Nhưng như vậy thì lại có Byron. Dĩ nhiên, Byron sẽ đi trước mình. Vậy thì nàng phải có những đứa khác, nàng phải có nhiều hơn ông nhớ lại cái thân thể trẻ trung, mạnh khỏe, dù đau đẻ, vẫn để lộ ra cái gì đó trầm tĩnh và can đảm. Những đứa khác, nhiều đứa hơn nữa. Cuộc đời nàng là như vậy. Số phận nàng là như vậy. Cái chủng tộc tốt đẹp đó cư ngụ trên quả đất lành này, trong sự phục tùng thầm lặng trước nó; mẹ, con gái, theo nhau ra đời không hấp tấp hay vội vàng, từ những cửa mình mạnh khỏe đó. Nhưng lần tới là do Byron sinh ra. Tội nghiệp anh chàng. Dù anh ta đã để mình lội bộ về nhà
Ông đi vào nhà. Ông cạo râu, cởi chiếc áo ngủ rồi mặc cái áo sơ-mi mà ông đã mặc hôm qua, và cổ cồn, đeo cái cà vạt bằng vải lanh và đội cái mũ rơm rộng vành. Thời gian ông từ nhà đi ra chỗ căn lều thì ít hơn từ đó về nhà, dù bây giờ ông đi xuyên qua các khu rừng cây mà các lối mòn thì khó đi hơn. ‘Mình phải đi bộ thường hơn nữa,’ ông nghĩ, dưới ánh mặt trời khi có, khi không. Và ông cảm thấy hơi nóng, cảm thấy cái mùi hoang dã và màu mỡ của đất, rừng cây, sự im lặng bao trùm. ‘Đáng lẽ mình không nên đánh mất thêm cái thói quen này. Nhưng có lẽ cả hai sẽ trở lại với mình, dù thói quen thứ hai này thì khác sự cầu kinh.’
Ông ra khỏi khu rừng cây, ở tận đầu kia của cánh đồng cỏ, đằng sau căn lều. Xa hơn căn lều, ông thấy khóm cây mà ở đó ngôi nhà đã được dựng lên và đã cháy rụi. Tuy nhiên, từ chỗ ông đứng thì ông không thể thấy đám tro than câm nín của những thứ trước kia là cột kèo và gỗ sàn nhà. ‘Tội nghiệp bà ấy,’ ông nghĩ. ‘Tội nghiệp bà ấy không con cái gì cả! Đã không được sống thêm một tuần nữa để thấy sự may mắn trở lại nơi chốn này. Để thấy sự may mắn và cuộc sống trở lại trên mảnh đất cằn cỗi và đổ nát này.’ Ông có cảm tưởng là xung quanh mình, ông thấy, cảm thấy những bóng ma của các cánh đồng màu mỡ, cuộc sống sung túc và phong phú của người da đen ở đồn điền, những tiếng kêu dịu dàng, sự hiện diện của những người đàn bà mắn đẻ, đám con nít đông đảo, ở truồng, chơi đùa trong đám bụi mù trước cửa nhà; và ngôi nhà to lớn đó, ồn ào, vang dội những tiếng la hét của ba thế hệ. Ông đến trước căn lều. Ông không gõ cửa, nhưng ông đã đưa tay tự mở cửa rồi gọi to với giọng vui vẻ, gần như oang oang: “Bác sĩ có thể vào được chớ?”
Không có ai trong căn lều, ngoại trừ người mẹ và em bé. Nàng ngồi dựa trên giường và đang cho con bú. Khi Hightower đi vào, nàng vội kéo tấm ra lên che bộ ngực trần, mắt nhìn ra cửa, không lo ngại nhưng cảnh giác, mặt lộ vẻ thanh thản và niềm nở, làm như nàng sắp sửa mỉm cười. Ông thấy tất cả điều này biến dần đi. “Tôi tưởng -” nàng nói.
“Ai mà cô tưởng đó?” ông nói oang oang. Ông đến bên giường và nhìn xuống nàng, xuống khuôn mặt bé xíu nhăn nheo màu đất nung của đứa bé, nó có vẻ bị treo, không thấy thân hình, vào vú mẹ và còn ngủ. Một lần nữa, nàng kéo tấm ra lên cao hơn, nhu mì và bình thản, trong khi phía trên nàng, người đàn ông hốc hác, hói đầu, bụng phệ đứng nhìn nàng với vẻ mặt dịu dàng, rạng rỡ và đắc thắng. Nàng đang nhìn xuống đứa bé.
“Có vẻ như nó không quen được sao đó. Tôi tưởng nó ngủ lại nên để nó xuống giường, ai dè nó lại khóc thét lên và tôi phải bồng nó lại.”
“Cô không nên ở đây một mình,” ông nói. Ông nhìn quanh căn phòng. “Nơi mà...”
“Bả cũng đi rồi. Xuống phố đó. Bả không nói, nhưng đúng là bả đi xuống đó. Lão lẻn đi mất, và khi bả thức dậy thì hỏi tôi lão đâu và tôi nói lão đi ra ngoài, và bả đi theo lão.”
“Xuống phố à? Lẻn đi sao?” Rồi ông nói “Ồ” một cách nhỏ nhẹ. Mặt ông giờ lộ vẻ đăm đăm.
“Bả theo dõi lão suốt ngày. Và lão cũng theo dõi bả nữa. Tôi thấy lão rõ mà. Lão giả đò ngủ thôi. Nhưng bả tưởng lão ngủ. Và như vậy sau bữa ăn tối bả chẳng còn hơi sức đâu nữa. Bả đã không nghỉ ngơi chút nào đêm qua, và sau khi ăn tối bả ngồi xuống ghế rồi ngủ gà ngủ gật. Và lão cứ lén nhìn bả, và lão thận trọng đứng dậy từ chiếc giường kia, nhăn mặt và nháy mắt với tôi. Lão đi ra cửa, vẫn ngoái đầu nhăn mặt và nháy mắt với tôi, đi nhón chân ra ngoài. Và tôi không tìm cách chặn lão lại hay đánh thức bả.” Nàng nhìn Hightower, mắt mở to, nghiêm trọng. “Tôi lại sợ nữa. Lão nói chuyện thì mắc cười quá. Và lão nhìn tôi thấy kỳ kỳ sao đó! Như thể lão nhăn mặt, lão nháy mắt là không phải biểu tôi đừng đánh thức bả, mà là để cảnh báo tôi nên liệu hồn nếu tôi đánh thức bả. Và tôi cũng thấy sợ nữa. Và như vậy tôi nằm yên với em bé đây và chẳng mấy chốc bả giựt mình thức dậy. Và lúc đó tôi biết là bả đã không hề muốn ngủ. Làm như bả vừa thức dậy vừa chạy về phía cái giường nơi lão đã nằm trước đó. Bả rờ rẫm nó làm như bả không thể tin là lão đã đi rồi. Bả cứ đứng đó, bên cái giường, tay sờ soạng cái mền như thể bả tin là, có lẽ vậy, lão còn ở đâu đó, nấp trốn dưới cái mền. Rồi thì bả liếc mắt nhìn tôi, một lần. Bả không nhăn mặt, không nháy mắt, nhưng tôi gần như ước gì bả làm vậy. Và bả hỏi tôi, tôi nói và bả lấy mũ đội lên đầu rồi đi ra ngoài.” Nàng nhìn Hightower. “Bả đi khỏi đây làm tôi mừng húm. Có lẽ tôi không nên nói vậy, sau tất cả những việc bả đã làm cho tôi. Nhưng...”
Hightower vẫn đứng bên giường. Ông có vẻ không thấy nàng. Vẻ mặt ông thì rất nghiêm trọng; như thể ông đã già đi hơn mười tuổi trong khi đứng đó. Hay là bộ mặt ông bây giờ là bộ mặt thật của ông chứ không phải bộ mặt xa lạ với chính nó như khi ông đi vào căn phòng. “Xuống phố,” ông nói. Rồi cặp mắt ông thức tỉnh, thấy lại. “Đành vậy. Chúng ta đâu làm gì được nữa bây giờ,” ông nói. “Hơn nữa, những người trong phố, những người biết phải trái... sẽ có vài người như vậy... Tại sao cô lại mừng khi họ đi khỏi đây?”
Nàng hạ ánh mắt xuống. Một bàn tay nàng xoa xoa phía trên đầu em bé nhưng không chạm đến nó: một cử chỉ theo bản năng, không cần thiết và hình như vô ý thức. “Bả tử tế lắm. Hơn cả tử tế nữa. Ẵm con cho tôi nghỉ ngơi. Bả muốn ẵm bồng nó suốt, ngồi ở cái ghế đó - Xin ông thứ lỗi cho, tôi đã quên mời ông ngồi.” Nàng nhìn ông kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống. “... Ngồi ở đó thì bả có thể theo dõi ổng ở trên giường kia, nơi ông giả bộ ngủ.” Nàng nhìn Hightower; đôi mắt nàng lộ vẻ lo lắng, dò hỏi. “Bả cứ gọi em bé là Joey trong khi nó đâu có mang cái tên đó. Và bả cứ...” Nàng nhìn Hightower với đôi mắt giờ đây bối rối, chất vấn, nghi ngờ. “Bả cứ nói về - bả bị lúng túng, rối trí hay sao đó. Và tôi đôi khi cũng bị rối trí theo, vì nghe bả, vì phải nghe bả...” Đôi mắt nàng, chữ nghĩa nàng, dò dẫm, lóng ngóng.
“Rối trí sao?”
“Bả cứ nói hoài về em bé như thể cha nó là... cái người đang ở tù, cái ông Christmas đó. Bà cứ nói đi nói lại suốt khiến tôi cũng bị nhập tâm luôn; đôi khi tôi không thể - tôi cũng bị rối trí quá trời luôn và tôi cũng nghĩ cha nó là ông - ông Christmas đó nữa -” Nàng nhìn ông; như thể nàng đang cố gắng ghê gớm lắm để nói tiếp. “Nhưng tôi biết là không phải vậy. Tôi biết đó là ngu ngốc. Nhưng vì bả cứ lặp đi lặp lại mãi chuyện đó, và có lẽ tôi chưa đủ mạnh mẽ nên rốt cuộc tôi cũng bị rối trí luôn. Nhưng tôi sợ...”
“Sợ cái gì?” Hightower hỏi.
“Tôi không muốn bị lúng túng, bị rối trí. Và tôi sợ bả có thể làm cho tôi rối trí hẳn, như người ta nói, một khi mình giả bộ làm mắt mình lé đi thì sau đó mắt mình không thể trở lại bình thường được nữa...” Nàng ngừng nhìn ông. Nàng không cử động. Nàng cảm thấy ông đang nhìn nàng.
“Cô nói tên em bé không phải là Joey. Vậy nó tên gì?”
Nàng không nhìn Hightower trong vài khoảnh khắc nữa. Rồi nàng ngước mắt lên. Nàng nói, một cách quá đột ngột, quá dễ dãi: “Tôi chưa đặt tên cho con.”
Và ông biết tại sao. Ông có cảm tưởng ông thấy nàng lần đầu tiên từ khi ông bước vào trong phòng. Ông nhận ra, lần đầu tiên, nàng vừa mới chải tóc và nàng cũng đã rửa mặt cho tươi tỉnh, và ông thấy, nửa như giấu dưới tấm ra như thể nàng đã vội vàng ném xuống, một cái lược và một mảnh gương vỡ. “Khi tôi đi vào, cô đang trông đợi ai đó. Và không phải tôi. Cô đợi ai vậy?”
Nàng không nhìn đi chỗ khác. Gương mặt nàng không phản chiếu sự ngây thơ hay sự lừa dối. Nhưng nó cũng không được điềm tĩnh hay bình thản. “Tôi đợi ai à?”
“Có phải Byron Bunch mà cô đợi không?” Nàng vẫn không nhìn đi chỗ khác. Bộ mặt của Hightower thì điềm đạm, rắn rỏi và dịu dàng. Thế nhưng nó vẫn lộ ra một tính cách tàn nhẫn mà nàng đã thấy trên mặt của một vài người tử tế nàng quen biết, thường là đàn ông. Ông khom người và đặt bàn tay mình lên bàn tay nàng, nơi nó nâng người em bé. “Byron là một người đàn ông tử tế,” ông nói.
“Tôi cho là tôi biết điều này, biết rõ như bất cứ ai. Ảnh tử tế hơn phần lớn những người khác.”
“Và cô là một người đàn bà tử tế. Cô sẽ là như vậy. Tôi không muốn nói -,” ông nói nhanh. Rồi ông ngừng. “Tôi đã không muốn nói -”
“Tôi cho là tôi biết,” nàng nói.
“Không. Không phải điều này đâu. Điều này thì chẳng quan trọng gì. Điều này thì chưa là gì hết. Tất cả đều tùy thuộc vào những gì cô làm sau này với nó. Với chính cô. Với những người khác.” Ông nhìn nàng; nàng vẫn không nhìn đi chỗ khác. “Hãy để anh ta đi khỏi đây. Tống anh ta đi xa cô.” Hai người nhìn nhau. “Này con gái, hãy đuổi anh ta đi. Cô chắc hẳn bằng nửa tuổi anh ta hay hơn một chút. Nhưng cô đã sống hơn anh ta gấp đôi. Anh ta sẽ không bao giờ vượt được cô, bắt kịp cô, bởi vì anh ta đã phung phí quá nhiều thời gian. Và điều này nữa, cái rỗng không của anh ta thì cũng không thể cứu chữa được như cái vẹn toàn của cô. Anh ta không thể trở ngược ra sau mà hành động cũng như cô không thể trở ngược ra sau mà hủy bỏ. Cô có một đứa con trai không phải con anh ta, mà là con của một người đàn ông không phải là anh ta. Cô sẽ mang, bằng sự áp đặt, vào đời anh ta hai người đàn ông và chỉ một phần ba của một người đàn bà. Anh ta ít ra cũng phải xứng đáng được thấy rằng cái rỗng không trong đó anh ta sống từ ba mươi lăm năm nay bị xâm phạm, nếu nó phải bị xâm phạm, mà không cần sự có mặt của hai nhân chứng. Hãy đuổi anh ta đi!”
“Đó không phải việc mà tôi phải làm. Ảnh thì tự do mà. Ông hãy hỏi ảnh xem. Tôi đã không hề làm gì để giữ ảnh lại.”
“Quả vậy. Chắc là cô hẳn không thể giữ anh ta lại, nếu cô có thử làm đi nữa. Quả vậy. Giá như cô biết cách thử. Nhưng như vậy, nếu cô biết cách thì cô hẳn sẽ không ở đây, trên cái giường này, với em bé này nằm trong lòng. Và cô không muốn đuổi anh ta đi phải không? Cô không muốn nói ra cái từ đó phải không?”
“Tôi không thể nói gì hơn những gì tôi đã nói rồi. Và tôi đã nói không với ảnh cách đây năm ngày.”
“Nói không à?”
“Ảnh đề nghị tôi lấy ảnh. Ảnh biểu tôi đừng chờ. Và tôi nói không.”
“Không biết bây giờ cô có nói không không?”
Nàng nhìn ông chằm chằm. “Có chớ. Tôi cũng sẽ nói như vậy, bây giờ.”
Ông thở dài, tiếng thở tuôn ra từ cái thân thể béo mập, không ra hình thù gì; khuôn mặt ông thấy thoải mái trở lại, và mệt mỏi. “Tôi tin cô. Cô sẽ tiếp tục nói không cho tới khi cô thấy...” Ông nhìn nàng lần nữa; và ánh nhìn của ông thì chăm chú, nghiêm khắc. “Byron, anh ta ở đâu?”
Nàng nhìn ông. Sau một lúc, nàng nói nhỏ nhẹ: “Tôi không biết.” Nàng nhìn ông, và khuôn mặt nàng bỗng dưng trống trơn, như thể cái gì đó đã cho nó sự rắn chắc, sự vững bền thì bắt đầu rút đi. Bây giờ thì không còn gì là lừa dối, không còn gì là cảnh giác hay thận trọng trên khuôn mặt đó cả. “Sáng nay, khoảng mười giờ, ảnh có trở lại. Ảnh không vào trong này. Ảnh chỉ đến bên cửa, ảnh đứng đó và ảnh chỉ nhìn tôi. Và tôi đã không thấy ảnh từ đêm hôm qua và ảnh đã không thấy em bé và tôi nói, ‘Anh vào nhìn nó đi,’ và ảnh nhìn tôi, vẫn đứng ở cửa, và ảnh nói, ‘Tôi đến để hỏi cô khi nào thì cô muốn gặp anh ấy,’ và tôi nói, ‘Gặp ai?’ và ảnh nói, ‘Có thể người ta phải cho một cảnh sát đi cùng anh ấy, nhưng tôi có thể thuyết phục ông Kennedy để cho anh ấy đến đây,’ và tôi nói, ‘Để cho ai đến?’ và ảnh nói, “Lucas Burch,’ và tôi nói, ‘Dạ được,’ và ảnh nói, ‘Tối nay có được không?’ và tôi nói, ‘Dạ được,’ và ảnh đi. Ảnh chỉ đứng ở đó, và rồi ảnh đi.” Nàng bắt đầu khóc, và ông nhìn nàng với nỗi tuyệt vọng của mọi đàn ông trước nước mắt đàn bà. Nàng ngồi thẳng người, đứa bé ở trong lòng, và nàng khóc, không che mặt, không to tiếng, không vật vã, nhưng với một sự khổ sở nhẫn nại và vô vọng. “Và ông đến quấy rầy tôi để biết tôi đã nói không hay nói ừ với ảnh, tôi đã nói không với ảnh và ông quấy rầy tôi và quấy rầy tôi và bây giờ thì ảnh đã bỏ đi. Tôi sẽ không bao giờ gặp lại ảnh nữa.” Và ông ngồi đó và nàng cuối cùng gục đầu xuống, và ông đứng dậy và đứng bên cạnh nàng với hai bàn tay đặt lên đầu nàng đang gục xuống, nghĩ Tạ ơn Chúa. Xin Chúa phù hộ con. Tạ ơn Chúa. Xin Chúa phù hộ con
Ông tìm thấy lối đi cũ của Christmas xuyên qua các khu rừng cây dẫn đến xưởng bào. Ông không biết là nó nằm sẵn đó, nhưng khi thấy hướng đi của nó ông có cảm tưởng, trong nỗi hân hoan của mình, đó là một cái điềm. Ông tin lời nàng nói, nhưng ông muốn xác minh thông tin chỉ để có niềm vui đơn giản là nghe lại nó lần nữa. Đồng hồ chỉ đúng bốn giờ khi ông đến xưởng bào. Ông hỏi chuyện ở văn phòng.
“Bunch à?” viên kế toán nói. “Ông sẽ không gặp ổng ở đây đâu. Ổng đã bỏ việc sáng nay.”
“Tôi biết, tôi biết mà,” Hightower nói.
“Làm việc ở đây năm năm rồi đó, làm cả chiều thứ bảy. Rồi thì sáng nay ổng bước vào đây và nói ổng không muốn làm nữa. Không đưa ra lý do nào cả. Nhưng đó là cung cách xử sự của mấy thứ dân ‘thượng’ [112] này mà.”
“Thôi, thôi,” Hightower nói. “Dù sao họ cũng là những người tử tế. Đàn ông cũng như đàn bà.” Ông rời văn phòng đó. Con đường về phố đi ngang qua căn nhà đặt máy bào, chỗ làm việc của Byron trước đây. Ông quen Mooney, tên cai thợ. “Tôi mới nghe nói là Byron Bunch không còn ở đây với anh,” ông nói khi dừng bước.
“Đúng vậy,” Mooney nói. “Nó nghỉ việc sáng nay.” Nhưng Hightower không tỏ vẻ nghe hắn nói; những người đàn ông trong bộ quần yếm lao động trố mắt nhìn cái hình dạng tồi tàn, kỳ quặc, không quen mặt lắm bất ngờ xuất hiện nơi họ làm việc: Hightower đang ngắm nhìn với một thứ quan tâm hớn hở những bức tường, những tấm ván dài, những cỗ máy bí ẩn mà ông hẳn không thể hiểu, thậm chí không thể học, sự tồn tại cũng như mục đích của nó. “Nếu ông muốn gặp nó,” Mooney nói, “tôi cho là ông sẽ tìm ra nó ở tòa án dưới trung tâm thành phố.”
“Ở tòa án à?”
“Thưa ông, đúng vậy. Hội thẩm đoàn họp hôm nay. Triệu tập đặc biệt. Để truy tố thằng sát nhân đó.”
“Được rồi, được rồi” Hightower nói. “Vậy là anh ta đã bỏ đi. Ừ, anh ta là người tử tế đấy. Thôi, xin chào, xin chào các ông, xin chào mọi người.” Ông lại đi tiếp trong khi những người đàn ông trong bộ quần yếm nhìn theo ông một lúc. Ông chắp tay sau lưng. Ông vừa đi, vừa nghĩ một cách thầm lặng, bình thản và buồn bã: ‘Con người đến là tội nghiệp! Anh chàng đó đến là tội nghiệp! Không có, không thể có sự biện minh cho một người nào lấy đi sự sống của người khác, nhất là nếu người này là một quan chức, một người đã tuyên thệ để phục vụ đồng bào mình. Khi điều đó được nhìn nhận một cách công khai bởi bản thân một quan chức do dân bầu [113] , biết là chính mình đã không đau khổ dưới bàn tay của nạn nhân của mình, bạn có thể gọi nạn nhân đó bằng bất cứ cái tên gì bạn muốn, thì làm sao chúng ta có thể hy vọng một người, một cá nhân tự kiềm chế khi hắn tin là hắn đã đau khổ dưới bàn tay của nạn nhân của hắn ?’ Ông tiếp tục bước đi; ông bây giờ đang ở trên con đường riêng của mình. Chẳng mấy chốc ông thấy hàng rào nhà mình, tấm biển gỗ, rồi căn nhà ẩn sau tán lá tháng tám sum sê. ‘Vậy là anh ta đã ra đi mà không nói lời từ giã với mình. Sau tất cả những gì anh ta đã làm cho mình. Tất cả những gì anh ta từng trải qua để đến tìm mình. Mình nói gì đây? Tất cả những gì anh ta đã cho mình, tất cả những gì anh ta trả lại mình. Dường như chuyện này cũng dành riêng cho mình nữa. Và mình nghĩ như vậy là hết.’
Nhưng chưa hết đâu. Còn có thêm một chuyện nữa dành riêng cho ông.