Chương 18
Khi vào đến trung tâm thành phố, Byron mới biết ra là anh không thể gặp ông cò trước buổi trưa vì ông bận suốt buổi sáng với hội thẩm đoàn đặc biệt. “Ông phải đợi,” người ta bảo anh.
“Được rồi,” Byron nói. “Tôi biết cách mà.”
“Biết cách cái gì?” Nhưng anh không trả lời. Anh rời văn phòng ông cò và dừng chân dưới mái cổng đối diện mặt phía Nam của quảng trường. Từ cái sân hiên hẹp được lát đá phiến, các cột đá nổi lên, uốn vòng cung, mòn cũ với gió mưa, dính bẩn với thuốc lá bị vứt xuống đó trong hàng chục năm. Bên dưới chúng, những người nông dân trong bộ quần yếm đi đi lại lại, đều đặn, kiên nhẫn, nghiêm trang trong sự nhàn rỗi của mình (và ở chỗ này, chỗ nọ, đứng im hay nói chuyện với nhau từ khóe miệng, những thanh niên khá trẻ, những cư dân thành phố mà Byron biết vài người trong bọn họ là nhân viên văn phòng, luật sư trẻ và ngay cả thương gia, tất cả nói chung đều mang vẻ hống hách y hệt nhau, giống như những viên cảnh sát tuy giả dạng thường dân mà lại không để ý gì đặc biệt đến việc giả dạng có che giấu được tướng bộ cảnh sát của mình hay không), trông gần giống như những thầy tu trong tu viện, nói chuyện một cách kín đáo giữa họ với nhau về tiền bạc và mùa màng, thỉnh thoảng yên lặng ngước mắt nhìn lên trời, về phía trần nhà tòa án mà ở dưới nó các thành viên của hội thẩm đoàn sắp sửa, đằng sau những cánh cửa đóng kín, lấy đi mạng sống của một người đàn ông mà ít ai trong bọn họ đã bao giờ thấy mặt trước đó để biết, vì tội đã lấy đi mạng sống của một người đàn bà mà thậm chí còn ít người hơn trong bọn họ đã bao giờ biết trước đó để thấy mặt. Những chiếc xe la và xe hơi đầy bụi đưa họ đến đây thì đậu xung quanh quảng trường, dọc theo những con đường lân cận, và những bà vợ và con gái đi theo họ vào phố thì bước vào, bước ra những cửa tiệm theo từng nhóm nhỏ, chậm rãi và cũng không có mục đích, giống như các con gia súc hay những đám mây. Byron đứng đó khá lâu, bất động, người không tựa vào cái gì hết - một người đàn ông nhỏ con từng sống ở thành phố này bảy năm mà tên họ hay các thói quen thì được biết đến bởi số người nhà quê thậm chí còn ít hơn số người nhà quê biết về tên giết người hay người bị giết.
Byron không có ý thức về điều này. Bây giờ thì anh không để ý tới, tuy cách đây một tuần lễ thì hẳn đã khác. Trong trường hợp đó, anh đã không đứng ở đây, nơi mà mọi người có thể thấy anh và có lẽ nhận ra anh:
A, Byron Bunch, kẻ khác ăn ốc mà gã đổ vỏ đây. Một gã bỏ công ra chăm sóc con điếm của một tên đàn ông khác trong khi tên đó bận rộn làm ra một ngàn đô-la. Và chẳng nhận lại được gì. Byron Bunch đã ra sức bảo vệ thanh danh của người đàn bà trong khi người đàn bà sở hữu cái thanh danh đó và người đàn ông mà nàng ta đã trao gởi nó, cả hai đều ném nó vào thùng rác. Byron Bunch đã xoay sở để đứa con hoang của tên đàn ông đó sinh ra bình yên, kín đáo và mọi phí tổn thì gã chịu, và gã nghe được tiếng khóc của nó chỉ một lần, với số tiền mà gã đã chi trả. Byron Bunch chẳng nhận lại được gì, ngoài việc được cho phép đi tìm tên đàn ông kia mang về cho nàng ta ngay sau khi y lãnh một ngàn đô-la và cuối cùng Byron trở nên vô dụng. Ôi, Byron Bunch ‘Và bây giờ mình có thể ra đi được rồi,’ anh nghĩ. Anh bắt đầu thở sâu. Anh có thể cảm thấy mình thở sâu, như thể mỗi lần thở hai lá phổi anh lại sợ đến lượt thở vào tiếp theo, chúng không thể hấp thu đủ không khí, như thể anh lo ngại một cái gì kinh khiếp sẽ xảy ra, như thể anh lúc nào cũng có thể cúi xuống nhìn mình thở, nhìn ngực mình và không thấy nó cử động gì cả, giống như khi ống thuốc nổ được chuẩn bị cho bây giờ Bây giờ BÂY GIỜ mà hình dạng bên ngoài của cái ống không thay đổi; những người đi ngang qua và nhìn anh thì không thể thấy sự thay đổi: vẫn là một người đàn ông nhỏ con mà người ta sẽ không nhìn đến hai lần, mà người ta sẽ không bao giờ tin là anh ta đã làm những chuyện anh ta đã làm và đã cảm nhận những điều mà anh ta đã cảm nhận, và người đàn ông nhỏ con đó đã từng tin rằng, ngoài kia, một mình ở xưởng bào vào một chiều thứ bảy, anh ta đã không bị một nguy cơ nào đe dọa cả.
Anh bước đi giữa mọi người. ‘Mình phải đi về đâu đó,’ anh nghĩ. Tại sao không để bước chân anh nhịp theo câu nói này? ‘Mình phải đi về đâu đó.’ Điều này sẽ giúp anh đi tới. Anh còn đang lập lại câu nói thì đã đến ngôi nhà trọ. Phòng anh nhìn ra đường. Trước khi nhận ra là mình đã bắt đầu nhìn về phía nó, anh đưa mắt sang hướng khác. ‘Có thể mình thấy ai đó đang ngồi đọc hay hút thuốc ở cửa sổ,’ anh nghĩ. Anh đi vào trong hành lang. Sau buổi sáng đầy nắng, anh không thể nhìn ra gì cả ngay tức khắc. Anh ngửi thấy mùi vải nhựa lót sàn còn ướt và mùi xà bông. ‘Vẫn còn là ngày thứ hai,’ anh nghĩ. ‘Mình đã quên khuấy đi mất. Có lẽ là thứ hai tới. Mình có cảm tưởng đó phải là như vậy.’ Anh không gọi. Sau một lát, anh nhìn thấy rõ hơn. Anh nghe thấy tiếng gậy lau nhà ở cuối hành lang hay có lẽ trong bếp. Rồi trong cái hình chữ nhật có ánh sáng, là cánh cửa sau nhà cũng để mở, anh thấy cái đầu của bà Beard đang cúi xuống, rồi cái bóng của cả người bà hiện ra, bước về phía anh trong hành lang.
“Ủa,” bà nói. “A, ông Byron Bunch đây mà! Ông Byron Bunch đây mà!”
“Dạ, chào bà,” anh nói, trong khi nghĩ, ‘Chỉ có một bà mập không có chuyện lo nghĩ nào khác hơn là cái xô nước lau nhà mới tưởng mình phải cố sức để không...’ Một lần nữa, anh không thể nghĩ ra cái từ mà Hightower biết và sử dụng mà không cần phải nghĩ đến. ‘Làm như mình không những không thể làm bất cứ chuyện gì mà không lôi kéo ông ta vào, mà mình thậm chí cũng không thể suy nghĩ mà không có ông ta giúp vào.’ “Dạ,” anh nói. Và anh cứ đứng đực người ra đó, thậm chí không đủ sức bảo bà là anh đến để chào từ biệt. ‘Có lẽ mình đến không phải vì chuyện này,’ anh nghĩ. ‘Mình cho là khi đã sống trong một căn phòng suốt bảy năm trời thì người ta không thể rời bỏ nó trong một ngày. Chỉ phải cái là điều này sẽ không cản bà ấy cho thuê nó, cái phòng đó, mình nghĩ vậy.’ - “Tôi cho là tôi nợ bà một ít tiền thuê,” anh nói.
Bà nhìn anh. Bà có khuôn mặt cứng cỏi, dễ chịu, không phải là không tử tế. “Tiền thuê cái gì?” bà nói. “Tôi tưởng là anh đã ở yên một chỗ rồi chớ. Đã quyết định ở dưới lều cả mùa hè mà.” Bà nhìn anh. Rồi bà nói ra với anh. Một cách nhẹ nhàng, khéo léo và nể nang. “Tôi đã nhận tiền thuê phòng đó rồi.”
“Ồ,” anh nói. “Thôi được. Tôi hiểu. Thôi được.” Anh lặng lẽ nhìn lên cái cầu thang được lót vải nhựa có sọc, được bảo trì tốt, nhưng đôi bàn chân anh cũng đã từng làm mòn nó ít nhiều. Khi khúc vải nhựa mới được đặt lên cách đây ba năm, anh là người đầu tiên trong số những người ở trọ đã đi trên nó. “Ồ,” anh nói. “Thôi, tôi nghĩ tốt hơn tôi...”
Bà cũng trả lời câu nói nửa chừng này, ngay tức khắc, không phải là không tử tế. “Tôi đã lo việc ấy rồi. Tôi đã bỏ mọi thứ ông còn để lại trong cái túi du lịch của ông. Nó ở trong phòng tôi. Tuy nhiên, nếu ông muốn đi lên tự mình coi thì đi.”
“Tôi không muốn đâu. Tôi nghĩ bà đã gom lại mọi... Thôi được, tôi nghĩ...”
Bà đang nhìn anh. “A, đàn ông các ông!” bà nói. “Chẳng có gì lạ khi đàn bà mất hết kiên nhẫn với các ông. Các ông thậm chí không thể biết được những giới hạn của các trò tinh quái của các ông. Vả lại, tôi có thể đo các giới hạn này với một cái đinh ghim chứ chẳng khó gì. Tôi cho là nếu không phải chuyện lúc nào cũng lôi kéo vài người đàn bà vào để giúp các ông, thì người ta hẳn sẽ đưa tất cả các ông lên thiên đường từ khi chưa lên mười rồi, dù các ông có la hét chống đối đi nữa.”
“Tôi cho là bà không có gì để phải nói ra những điều chống cổ.”
“Không có, hẳn vậy rồi. Tôi không cần. Không cần hơn những người đàn bà khác đang sửa soạn làm chuyện đó. Tôi không nói là đàn bà không phải là người nói chuyện ngồi lê đôi mách nhiều nhất. Nhưng nếu ông có cái gì khác hơn là cái đầu óc đàn ông thì ông sẽ biết là đàn bà không có ý nói gì hết khi họ nói chuyện. Chỉ có đàn ông mới coi lời nói là có thực, là quan trọng. Không có một người đàn bà nào chê trách ông hay chê trách cổ. Bởi vì mọi người đàn bà đều biết rõ là cổ không có lý do gì mà cư xử tồi tệ với ông, chưa kể đến đứa bé sơ sinh đó. Hay đối xử tệ với bất cứ người đàn ông nào khác, lúc này. Cổ không phải làm vậy. Có phải ông và cái ông mục sư đó và tất cả những đàn ông biết chuyện cổ, có phải các ông đã làm cho cổ tất cả những gì cổ có thể muốn không? Vậy thì tại sao cổ cần phải cư xử tồi tệ chớ? Hãy giải thích cho tôi nghe đi.”
“Thôi được,” Byron nói. Anh bây giờ không nhìn bà. “Tôi chỉ tới...”
Bà cũng trả lời câu nói nửa chừng này, trước khi anh nói hết. “Tôi nghĩ là chẳng bao lâu nữa ông sẽ rời bỏ nơi này.” Bà đang nhìn anh. “Họ đã làm gì sáng nay ở tòa án?”
“Tôi không biết. Họ chưa xong mà.”
“Tôi cũng ngờ như vậy. Họ sẽ dùng bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu sức lực, bao nhiêu tiền bạc của quận mình mà họ có thể dùng để giải quyết cái chuyện mà đàn bà tụi tôi hẳn sẽ có thể giải quyết trong vòng mười phút vào đêm thứ bảy. Ngu đến mức đó thì hết biết! Không phải là Jefferson sẽ cảm thấy thiếu y đâu. Người ta có thể không cần đến y. Nhưng đúng là ngu để tin rằng giết một người đàn bà thì có thể tốt cho người đàn ông nhiều hơn là giết một người đàn ông có thể tốt cho người đàn bà!... Tôi cho là bây giờ họ sẽ thả tên kia ra.”
“Phải đó. Tôi nghĩ vậy.”
“Và họ đã có lúc tin hắn là tòng phạm. Và vì vậy họ sẽ cho hắn một ngàn đô-la đó để chứng tỏ hai bên không có oán hận với nhau. Rồi hắn và cổ có thể cưới nhau. Có phải gần đúng như vậy không?”
“Phải đó.” Anh cảm thấy bà đang nhìn anh, một cách không phải là không tử tế.
“Như vậy tôi nghĩ là ông sẽ rời bỏ nơi này. Tôi nghĩ là ông cảm thấy phần nào mình chẳng còn gì để làm ở Jefferson nữa, phải không?”
“Cái gì đó giống như vậy. Tôi nghĩ tôi phải đi thôi.”
“Đành vậy. Jefferson là một thành phố dễ chịu đấy. Nhưng không quá dễ chịu đến mức một người rày đây mai đó như ông có thể tìm thấy trong một thành phố khác đủ trò ma mãnh và rắc rối để mà bận rộn... Ông có thể để cái túi du lịch ở đây, nếu ông muốn, cho tới khi nào ông cần nó.”
Anh chờ cho tới trưa và sau đó nữa. Anh chờ cho tới khi anh tin là ông cò đã ăn trưa xong. Rồi anh đi đến nhà ông cò. Anh không muốn vào. Anh chờ ở ngoài cửa cho tới khi ông cò đi ra - một người đàn ông béo mập với cặp mắt nhỏ từng trải giống như những miếng mi-ca [114] được khảm vào khuôn mặt đầy thịt và bất động. Hai người đi riêng ra, đến dưới bóng cây trong sân. Không có ghế ngồi ở đó; họ cũng không ngồi chồm hổm (cả hai đều lớn lên ở nhà quê) như họ thông thường hẳn đã làm. Ông cò im lặng lắng nghe người đàn ông, người đàn ông nhỏ con thầm lặng đó từ bảy năm nay là một bí ẩn nhỏ nhặt đối với thành phố và từ bảy ngày nay thì rất gần là một sự xúc phạm và sỉ nhục công khai.
“Tôi hiểu,” ông cò nói. “Anh nghĩ là giờ đã đến lúc cho hai người đó cưới nhau.”
“Tôi không biết. Đó là chuyện riêng của hắn và của cổ. Tôi cho là dù sao hắn đi ra gặp cổ thì cũng tốt hơn. Tôi cho là bây giờ là đã đến lúc cho chuyện này. Ông có thể cho một cảnh sát đi kèm hắn. Tôi đã nói với cổ là hắn sẽ đến gặp cổ ngoài đó tối nay. Họ sẽ làm gì lúc đó thì là chuyện riêng của cổ và của hắn. Không phải của tôi.”
“Hẳn vậy rồi,” ông cò nói. “Không phải của anh.” Ông đang nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng của người kia. “Byron, anh định làm gì bây giờ?”
“Tôi không biết.” Anh nhìn bàn chân mình đang cào cào chậm rãi trên đất. “Tôi nghĩ đến chuyện đi lên Memphis. Tôi đã nghĩ đến chuyện này từ hai năm nay. Có thể tôi sẽ đi lên đó. Trong những thành phố nhỏ bé này thì không có gì cả.”
“Hẳn vậy rồi. Memphis thì không tồi đối với những ai thích cuộc sống thành thị. Tất nhiên, anh đâu có vướng tay, vướng cẳng với ai, anh đâu có cả bầu đoàn thê tử để kéo theo. Tôi nghĩ nếu tôi còn độc thân cách đây mười năm thì tôi cũng đã làm vậy rồi. Có lẽ khấm khá hơn. Tôi đoán là anh định đi ngay, phải không?”
“Chắc lát nữa.” Anh ngước mắt lên rồi hạ xuống. Anh nói: “Tôi đã bỏ việc ở xưởng bào sáng nay.”
“Hẳn vậy rồi,” ông cò nói. Tôi đã nghĩ là anh đâu có cuốc bộ cả quãng đường từ ngoài đó đến đây từ hồi mười hai giờ trưa với ý định quay về ngoài đó trước một giờ. A, hình như...” Ông ngừng. Ông biết là tối nay hội thẩm đoàn sẽ chính thức buộc tội Christmas, và Brown - hay Burch - sẽ được trả tự do nhưng có nghĩa vụ phải hầu tòa với tư cách nhân chứng vào tháng sau. Nhưng, ngay cả sự hiện diện của hắn cũng không tuyệt đối cần thiết, bởi vì Christmas đã không chối tội và ông cò tin rằng y sẽ thành khẩn khai có tội trước tòa để cứu cái mạng y. ‘Và chẳng có hại gì cho ai nếu người ta khắc sâu vào đầu cái thằng trời đánh thánh vật đó lòng kính sợ Chúa, một lần trong đời y,’ ông nghĩ. Ông nói, “Tôi cho là chuyện này có thể thu xếp được. Tất nhiên, như anh nói, tôi sẽ phải cho một tên cảnh sát đi kèm hắn. Dù hắn không định bỏ trốn chừng nào hắn còn hy vọng lãnh một phần tiền thưởng. Với điều kiện là hắn không biết điều gì đang chờ hắn khi hắn ra đến ngoài đó. Hắn chưa biết gì cả.”
“Đúng vậy,” Byron nói. “Hắn chưa biết gì cả. Hắn chưa biết là cổ đang ở Jefferson.”
“Vậy thì tôi chỉ việc gởi hắn ra ngoài đó với một tên cảnh sát. Không nói với hắn tại sao: chỉ việc gởi hắn ra đó. Trừ phi anh muốn chính anh dẫn hắn đi.”
“Không,” Byron nói. “Không, không!” Nhưng anh không cử động.
“Tôi sẽ chỉ làm vậy thôi. Tôi nghĩ là tới lúc đó thì chắc anh đi rồi. Tôi sẽ cho một tên cảnh sát đi theo hắn. Lúc bốn giờ được không?”
“Được lắm chớ. Ông thiệt là tử tế. Ông thiệt là tốt bụng.”
“Ôi, chưa tốt lắm đâu. Có rất nhiều người, ngoài tôi ra, đã tỏ ra tử tế với cổ từ khi cổ đến Jefferson đây. Thôi, tôi sẽ không nói lời từ biệt với anh đâu. Jefferson sẽ gặp lại anh một ngày nào đó. Tôi chưa hề gặp ai từng ở đây một thời gian rồi bỏ đi mãi mãi. Có lẽ ngoại trừ cái thằng cha ở trong tù dưới đó. Nhưng y sẽ khai có tội mà, tôi nghĩ vậy. Để cứu lấy cái mạng y. Và dù gì đi nữa, y cũng phải đem nó đi khỏi Jefferson. Và thật khổ cho cái bà già đó cứ tưởng mình là bà ngoại y. Lão già thì ở dưới trung tâm thành phố khi tôi về nhà. Lão vừa la hét, vừa nói huênh hoang, chửi mọi người là hèn nhát bởi vì họ không chịu đến nhà tù xách cổ thằng đó ra mà lin-chơ ngay tại chỗ và ngay lúc ấy.” Ông bắt đầu cười khúc khích, nghe rõ to. “Lão tốt hơn nên tỏ ra thận trọng, nếu không thì Peter Grimm và lũ đàn em sẽ nện cho lão một trận đó.” Ông tỏ vẻ điềm tĩnh lại. “Thật khổ cho bà ấy. Thật khổ cho đàn bà.” Ông nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng của Byron. “Thật khổ cho nhiều người trong chúng ta. Thôi, anh sẽ trở lại một ngày nào đó, chắc không lâu đâu. Có lẽ Jefferson sẽ đối xử tốt hơn với anh lần tới.”
Lúc bốn giờ chiều hôm đó, anh thấy từ chỗ núp chiếc xe hơi đến. Nó ngừng lại, và tên cảnh sát cùng người đàn ông mà anh biết qua cái tên Brown ra khỏi xe và đi về phía căn lều. Brown không bị còng tay, và Byron nhìn theo họ đến căn lều và thấy tên cảnh sát đẩy Brown tới trước và vào bên trong. Rồi cánh cửa đóng lại sau lưng Brown, và tên cảnh sát ngồi xuống ở bậc tam cấp và rút một bao thuốc hút từ túi ra. Byron đứng dậy. ‘Mình có thể đi bây giờ,’ anh nghĩ. ‘Bây giờ mình có thể đi.’ Chỗ anh núp là một lùm cây trên cái bãi cỏ mà ngôi nhà ngày xưa được xây trên đó. Phía bên kia lùm cây, nơi mà người ta không thể nhìn thấy từ con lộ cũng như từ căn lều, con la của anh được cột ở đó, và đằng sau cái yên đã mòn là một cái va-li cũ màu vàng, không phải bằng da, được buộc chặt. Anh leo lên con la và cưỡi nó đi về phía con lộ. Anh không quay đầu nhìn lại.
Con lộ thì có màu đỏ nhạt, chạy dài rồi leo lên một ngọn đồi, trong buổi chiều yên tĩnh đang tàn dần. ‘Được thôi. Một ngọn đồi, mình có thể chịu đựng mà,’ anh nghĩ. ‘Mình có thể chịu đựng một ngọn đồi, đó là cái mà một người đàn ông có thể làm.’ Cảnh vật thì yên bình, êm ả, quen thuộc như trong bảy năm vừa qua. ‘Dường như một người đàn ông có thể chịu đựng mọi thứ. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cả điều hắn chưa bao giờ làm. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là có vài điều vượt quá giới hạn của những gì hắn có thể chịu đựng. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là, nếu như hắn có thể buông xuôi và khóc thì hắn sẽ không làm vậy. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là không quay đầu nhìn lại, ngay cả khi hắn biết là quay đầu nhìn lại hay không quay đầu nhìn lại đều sẽ không mang lại cho hắn cái gì tốt đẹp cả.’
Con lộ chạy lên cao, lên tới chỏm đồi. Anh chưa hề thấy biển, và vậy là anh nghĩ: ‘Đó là giống như đứng bên bờ của hư không. Giống như cái cảm giác là nhảy qua cái bờ này một lần thì mình sẽ rơi thẳng đứng vào hư không. Nơi mà cây cối thì trông như cái gì khác với cây cối, và mang một cái tên khác; nơi mà con người thì trông như cái gì khác với con người và mang một cái tên khác. Và Byron Bunch thậm chí không phải là hay không phải không là Byron Bunch. Byron Bunch và con la của anh sẽ kiệt quệ vì cú rơi nhanh cho tới khi cả hai bốc cháy, như mục sư Hightower nói là chuyện này cũng xảy ra với những thiên thạch di chuyển trong không gian nhanh đến nỗi chúng bốc lửa và cháy tan tành và không có lấy một mảnh cháy dở để rớt xuống mặt đất.’
Nhưng từ sau chỏm đồi là bắt đầu hiện lên những cái mà anh biết là chúng sẽ ở đó: cây cối đúng là cây cối, và cái khoảng cách kinh khiếp và đơn điệu mà anh, thúc đẩy bởi dòng máu luân lưu trong người, phải đi mãi mãi giữa hai chân trời không thể tránh được của cái quả đất không thể nào lay chuyển được. Chúng cứ lên cao mãi, không báo điềm gở, không lộ vẻ hăm dọa. Đúng vậy. Chúng không nhớ tới anh. ‘Không biết và bất cần,’ anh nghĩ. ‘Như thể chúng nói Được rồi. Anh nói là anh đau khổ. Được rồi. Nhưng trước tiên, điều mà chúng tôi biết thì chỉ do miệng anh nói ra mà thôi. Và thứ đến, anh chỉ nói anh là Byron Bunch. Rồi thứ ba, anh chỉ là người tự đặt tên cho mình là Byron Bunch ngày hôm nay, bây giờ, ngay giây phút này ... ‘Vậy thì,’ anh nghĩ, ‘nếu tất cả chỉ có vậy, mình nghĩ rằng có được sự thỏa mãn là không đủ sức chịu đựng khi quay nhìn lại phía sau thì cũng tốt thôi.’ Anh cho con la ngừng lại và xoay người trên cái yên.
Anh không nhận ra là anh đã đi xa đến thế và ngọn đồi thì cao đến thế. Như một cái bát nông, dinh cơ rộng lớn ngày xưa mà bảy chục năm trước đây là một đồn điền, trải rộng dưới chân anh, giữa anh và một ngọn đồi khác mà trên đó người ta đã tạo dựng nên Jefferson. Nhưng hiện giờ thì cái đồn điền đó thì bị chia nhỏ bởi những căn lều da đen nằm rải rác, những mảnh vườn, những cánh đồng chết bị nước xói thành rãnh, bị nghẹt thở dưới đám cây sồi lùn, cây de vàng [115] , cây hồng vàng và cây thạch nam. Nhưng ngay chính giữa, một lùm cây sồi vẫn còn đứng đó như chúng đã đứng đó khi ngôi nhà được xây, tuy bây giờ ngôi nhà đã biến mất. Từ chỗ này, anh thậm chí không thể thấy những dấu vết của đám cháy; anh thậm chí không thể nói được ngôi nhà nằm ở đâu nếu không có các cây sồi, cái chuồng ngựa đổ nát và căn lều ở xa hơn, căn lều mà anh đang nhìn về phía nó. Nó ở đó, y nguyên và yên tĩnh dưới mặt trời chiều, gần giống như một đồ chơi cho con nít; giống như một đồ chơi, tên cảnh sát ngồi ở bậc tam cấp. Rồi trong khi Byron nhìn, một người đàn ông, như có phép lạ, vừa xuất hiện ở phía sau là đã co giò chạy. Hắn bỏ trốn bằng cách chạy đằng sau căn lều trong khi tên cảnh sát ngồi ở bậc tam cấp đằng trước vẫn bất động và yên lặng, không nghi ngờ gì. Byron cũng ngồi im một lúc lâu hơn, xoay nửa người trên yên, đưa mắt dõi theo cái hình dạng nhỏ bé bỏ chạy trên con dốc khô cằn phía sau căn lều, về hướng các khu rừng cây.
Rồi một ngọn gió lạnh rát da rát thịt dường như thổi qua người anh. Một ngọn gió vừa dịu dàng vừa hung bạo cùng lúc, thổi tung tóe, như những sợi rơm, như rác rưởi, như lá chết, tất cả nỗi ham muốn, niềm tuyệt vọng, những giấc mơ bi thảm và hão huyền và những nỗi đau vô phương cứu chữa. Với chính luồng gió ấy, anh có cảm tưởng mình bị đẩy lùi ra sau, người thấy trống rỗng lần nữa, bên trong anh bây giờ không có bất cứ cái gì đã không từng hiện hữu cách đây hai tuần, trước cái ngày anh gặp nàng. Vào khoảnh khắc này, nỗi ham muốn của anh thì hơn cả nỗi ham muốn: đó là một niềm tin thầm lặng và chắc chắn; trước khi nhận ra là bộ óc anh đã ra lệnh cho bàn tay, anh đã cho con la đổi hướng rời con lộ và chưa gì đã chạy nước đại dọc theo dải đất hẹp trên chỏm của dãy đồi, song song với cái hướng chạy của người đàn ông đó khi hắn chạy vào khu rừng cây. Anh thậm chí không tự nói với mình cái tên của người đàn ông đó. Anh không tự hỏi người đàn ông đó đi đâu, và tại sao. Chưa bao giờ vào trong đầu anh, dù chỉ một lần, cái ý nghĩ là Brown bỏ trốn thêm một lần nữa, như chính anh đã dự đoán. Nếu cái ý nghĩ đó có lướt qua đầu anh thì chắc là anh tin rằng Brown, theo kiểu cách riêng của hắn, tham dự vào việc mua bán hoàn toàn hợp pháp nào đó liên quan đến sự ra đi của hắn và của Lena. Nhưng anh đã không nghĩ về chuyện này chút nào; anh đã không nghĩ đến Lena chút nào; nàng hoàn toàn ra khỏi tâm trí anh như thể anh chưa hề gặp nàng, chưa hề nghe tên nàng trước đó. Anh đang nghĩ: ‘Mình đã chăm sóc vợ hắn giùm cho hắn và mình giúp đứa bé chào đời cho hắn. Và bây giờ còn có một việc nữa mà mình có thể làm cho hắn. Mình không thể cử hành hôn lễ cho họ, vì mình không phải là mục sư. Và có lẽ mình sẽ không thể bắt kịp hắn, bởi vì hắn đã đi trước mình một quãng đường. Và nếu có bắt kịp hắn thì có lẽ mình không thể đập hắn một trận, bởi vì hắn to con hơn mình. Nhưng mình có thể thử xem sao. Mình có thể cố gắng làm chuyện này.’
Khi tên cảnh sát đến tìm hắn trong nhà tù, Brown hỏi ngay lập tức là anh ta đưa hắn đi đâu. Thăm viếng, tên cảnh sát trả lời. Brown lùi lại, nhìn tên cảnh sát bằng bộ mặt đẹp trai và trơ tráo một cách giả tạo. “Tôi không muốn thăm viếng ai cả. Tôi là người xa lạ, đâu có quen biết ai ở đây.”
“Mày vẫn xa lạ ở bất cứ nơi nào,” tên cảnh sát nói. “Ngay cả ở nhà mày. Thôi đi cho rồi.”
“Tôi là một công dân Mỹ,” Brown nói. Tôi cho là tôi có những quyền hợp pháp dù tôi không mang ngôi sao bằng thiếc [116] trên dải đeo quần.”
“Hẳn vậy rồi,” tên cảnh sát nói. “Đó là chuyện tao đang làm bây giờ: giúp mày nhận được những gì thuộc về mày.”
Mặt Brown sáng lên: ánh phản chiếu của một tia chớp. “Có phải họ đã... có phải họ sắp trả...”
“Tiền thưởng đó à? Hẳn vậy rồi. Chính tao sẽ dẫn mày ngay bây giờ đến một chỗ mà nếu người ta nợ mày tiền thưởng thì chắc chắn người ta sẽ đưa nó cho mày.”
Brown tỏ ra điềm tĩnh lại. Và bắt đầu đi, dù hắn vẫn nhìn tên cảnh sát một cách ngờ vực. “Cái lối làm ăn như vầy thì thiệt là kỳ cục,” hắn nói. “Giam tôi trong tù trong khi để mấy thằng chó đẻ đó ra sức giành giựt nó trước tôi.”
“Tao cho là cái thằng chó đẻ đó chưa đẻ ra thì làm sao giành giựt tiền thưởng với mày được chớ,” tên cảnh sát nói. Đi đi! Người ta đang chờ tụi mình.”
Họ ra khỏi nhà tù. Dưới ánh nắng chói chang, Brown chớp mắt, nhìn chỗ này chỗ kia, rồi ngẩng đầu quay nhìn qua vai, theo cách các con ngựa. Chiếc xe hơi chờ bên lề đường. Brown nhìn chiếc xe rồi nhìn tên cảnh sát, điềm tĩnh và thận trọng. “Mình đi đâu mà dùng xe hơi?” hắn nói. “Sáng nay, tôi đã đi bộ tới tòa án, đâu có xa lắm đâu.”
“Ông Watt [117] cho dùng xe này để giúp tụi mình mang tiền thưởng về,” tên cảnh sát nói. “Leo lên đi.”
Brown càu nhàu. “Tự nhiên lão ta đâm ra ân cần với tôi quá há! Cho một chiếc xe hơi để đi và không còng tay. Và chỉ có một tên trời đánh bên cạnh để giữ tôi khỏi bỏ trốn.”
“Tao đâu có giữ mày khỏi trốn,” tên cảnh sát nói. Anh ta ngừng tay trong khi đang cho xe nổ máy. “Mày muốn trốn đi bây giờ không?”
Brown nhìn anh ta chằm chằm, mặt mày sưng sỉa, căm tức và ngờ vực. “Tôi biết rồi,” hắn nói. “Lão chơi trò xỏ lá thiệt. Lão muốn đẩy cho tôi bỏ trốn để lãnh riêng một ngàn đô-la đó cho lão. Lão hứa chia phần với ông bao nhiêu vậy?”
“Tao à? Tao sắp nhận giống như mày đó, y chang đến từng xen .”
Brown nhìn tên cảnh sát lâu hơn trước. Hắn buột miệng chửi thề, vô nghĩa, một cách thô bạo và yếu ớt cùng lúc. “Đi nào,” hắn nói. “Đã đi thì đi cho rồi.”
Họ chạy xe đến tận chỗ xảy ra chuyện giết người và cháy nhà. Brown cứ ngẩng đầu lên rồi ngoái ra sau, cách quãng gần như đều đặn, giống như con la thường làm khi chạy một mình trước đầu xe hơi trên một con lộ hẹp. “Chúng ta ra ngoài này làm gì vậy?”
“Để nhận tiền thưởng của mày,” tên cảnh sát nói.
“Tôi sắp nhận nó ở đâu đây?”
“Trong cái căn lều dưới kia. Nó đang chờ mày ở đó.”
Brown đảo mắt nhìn quanh hắn, rồi nhìn đám tro than từng là một ngôi nhà trước kia, rồi nhìn căn lều trống vắng, tả tơi vì mưa nắng, nơi hắn đã ở bốn tháng, giờ nằm im lặng dưới ánh nắng chói chang. Bộ mặt hắn thì nghiêm trọng, cảnh giác. “Có cái gì đó kỳ cục trong việc này. Lão Kennedy [118] không nên tưởng rằng lão có thể chà đạp các quyền hợp pháp của tôi, chỉ vì lão mang cái ngôi sao nhỏ bằng thiếc trời đánh đó trên ngực...”
“Thôi đi đi,” tên cảnh sát nói. “Nếu mày chê món tiền thưởng đó thì tao sẽ chờ mày ở đây để đưa mày trở lại nhà tù lúc nào mày muốn. Ngay bất cứ lúc nào mày muốn.” Anh ta đẩy Brown ra trước, đưa tay mở cửa căn lều, đẩy hắn vào trong và đóng cửa sau lưng hắn rồi ngồi xuống bậc tam cấp.
Brown nghe tiếng cửa đóng lại sau lưng mình. Hắn vẫn đang bước tới. Rồi, trong khi đột ngột đảo mắt liếc nhanh và bao quát, như thể cặp mắt hắn không thể chờ để nhìn toàn bộ căn phòng, hắn đứng khựng lại, sững sờ. Từ trên giường Lena nhìn cái sẹo trắng ở khóe miệng hắn biến mất hoàn toàn, như thể máu chảy dồn ở phía dưới đã lôi cái sẹo đi theo khi chảy qua, như người ta lấy xuống miếng giẻ khô từ sợi dây phơi áo quần. Nàng không nói gì. Nàng chỉ nằm đó, lưng tựa vào gối, nhìn hắn bằng đôi mắt điềm tĩnh mà trong đó không lộ ra gì cả - không vui mừng, không ngạc nhiên, không trách móc, không tình yêu - trong khi trên mặt hắn thì hiện ra sự choáng váng, nỗi kinh ngạc, sự sỉ nhục rồi nỗi kinh hãi cùng cực, và mỗi một trạng thái tình cảm này thì lần lượt chế nhạo cái sẹo trắng, nhỏ mà phát lộ nhiều điều, trong khi cặp mắt bị phiền nhiễu và tuyệt vọng của hắn thì không ngừng đảo quanh căn phòng trống trải, dừng lại chỗ này, chỗ kia. Nàng nhìn hắn đang tìm cách chế ngự cặp mắt hắn như hai con thú bị khiếp sợ, để ép buộc chúng phải gặp gỡ đôi mắt nàng. “À há, à há,” hắn nói. “À há, à há, à há. Em Lena đây mà!” Nàng nhìn hắn đang cố giữ cặp mắt hắn ngang tầm với đôi mắt nàng, như hai con thú sắp sửa chạy thoát, như thể hắn biết là nếu để chúng chạy thoát lần này thì hắn sẽ không bao giờ bắt chúng lại được, không thể bắt chúng quay lại lần nữa, và chính hắn sẽ bị thất lạc mãi mãi. Nàng hầu như thấy được đầu óc hắn nghĩ vơ vẩn, không ngừng lang thang đây đó, bị quấy nhiễu, bị kinh hãi, tìm kiếm những từ ngữ, những lời lẽ mà giọng nói, cái lưỡi của hắn có thể nói ra. “Nhưng, trời ơi, em Lena đây mà. Đúng rồi! Vậy là em đã nhận được lời nhắn của anh rồi? Ngay khi tới đây anh liền gởi lời nhắn cho em tháng trước đây chớ đâu, ngay khi anh ổn định chỗ ở và anh nghĩ nó đã bị thất lạc - Đó là một thằng cha anh không biết tên nó nhưng nó hứa nó sẽ mang giùm - nó trông không đáng tin cậy lắm nhưng anh phải tin vào nó nhưng anh nghĩ khi anh đưa nó mười đô-la để em dùng trả các chi phí đi lại rằng nó...” Giọng hắn tắt đi đâu đó đằng sau cặp mắt tuyệt vọng. Tuy nhiên, nàng vẫn còn thấy tâm trí hắn đang lao tới, đang lao tới không thương tiếc, không gì cả; nàng nhìn hắn bằng ánh mắt nghiêm trang, không nháy mắt, không thể nào chịu nổi, nhìn hắn dò dẫm, lẩn tránh, thay đổi cho đến khi tất cả những gì còn lại của lòng tự trọng trong hắn, của cái lòng tự trọng đã tồi tệ mà còn ham muốn biện bạch, cuối cùng thì rời bỏ hắn, để hắn trần truồng ở lại. Rồi lần đầu tiên nàng lên tiếng. Giọng nàng thì bình thản, không bối rối, không thắm thiết.
“Anh lại đây đi,” nàng nói. “Lại đây, em không để con nó cắn anh đâu.” Khi hắn cử động thì hắn rón rén đi tới gần. Nàng thấy cách đi của hắn tuy nàng đã không còn nhìn hắn nữa. Nhưng nàng biết, giống hệt như nàng biết là hắn bây giờ đứng đó, với một thứ kinh sợ vụng về và rụt rè, bên cạnh nàng và đứa bé đang ngủ. Nhưng nàng biết là sự kinh sợ này không phải do sự hiện hữu của đứa bé gây ra. Nàng biết là, theo nghĩa đó, hắn thậm chí đã không thấy đứa bé. Nàng còn có thể thấy, cảm thấy tâm trí hắn đang lao tới, lao tới. Ảnh sắp sửa làm bộ không sợ nàng nghĩ. Ảnh sẽ không thấy xấu hổ hơn khi nói láo để che giấu nỗi sợ, giống hệt như ngày trước ảnh đã không thấy xấu hổ hơn khi tỏ ra sợ vì đã nói láo
“À há, à há,” hắn nói. “Em bé đây rồi. Đúng rồi.”
“Phải đó,” nàng nói. “Anh ngồi xuống đi chớ!” Cái ghế mà Hightower đã kéo đến vẫn còn đó, bên cạnh giường. Hắn đã nhận thấy điều này trước đó. Con nhỏ cũng lo liệu chu đáo cho mình đó chớ hắn nghĩ. Một lần nữa y chửi thề nhưng không gây tiếng động, lộ vẻ bị quấy rầy, giận dữ Tụi chó đẻ. Tụi chó đẻ Nhưng bộ mặt hắn thì gần như dịu dàng khi hắn ngồi xuống.
“Hay quá! Tụi mình gặp lại nhau đây. Y chang như anh đã sắp xếp khi trước. Anh cũng muốn bố trí mọi thứ cho sẵn sàng trước khi em đến nhưng khổ một cái là anh dạo này bận rộn quá. Và chuyện này khiến anh nhớ ra là...” Một lần nữa, hắn bất ngờ ngoái đầu nhìn ra sau như con la. Nàng không nhìn hắn. Nàng nói:
“Ở đây có một ông mục sư. Ổng đã đến gặp em.”
“Tốt lắm,” hắn nói. Giọng hắn thì rõ to, vui vẻ. Tuy vậy, sự vui vẻ cũng như cái âm sắc thì có vẻ tạm thời và ngắn ngủi như âm của các từ khi nói ra; tất cả đều biến mất, không để lại gì, ngay cả một ý tưởng rõ ràng trong tai hay trong nhận thức. “Tốt lắm. Ngay khi anh giải quyết xong mọi thứ công việc này - ” Hắn vung tay làm một cử chỉ mơ hồ như thâu tóm cái gì đó, mắt vẫn nhìn nàng. Khuôn mặt của hắn thì dễ chịu nhưng trống rỗng. Cặp mắt hắn thì dịu dàng, lanh lợi, bí mật, vậy mà vẫn có cái gì đó bị phiền nhiễu và tuyệt vọng lẩn quất đằng sau chúng. Nhưng nàng không nhìn hắn.
“Hiện giờ thì anh làm loại công việc gì? Ở xưởng bào?”
Hắn quan sát nàng. “Không, anh đã bỏ việc đó.” Cặp mắt hắn quan sát nàng. Như thể chúng không phải là đôi mắt hắn, không dính dáng gì đến phần còn lại của người hắn, đến những gì hắn làm, đến những gì hắn nói. “Làm việc như một thằng mọi đen trời đánh, cực chết luôn, mười giờ mỗi ngày. Anh hiện giờ có việc này đang tiến triển, mang lại bộn tiền. Chớ không phải mười lăm xen một giờ vặt vãnh đó đâu. Và ngay khi anh lo xong việc này, ngay khi anh thu xếp xong vài ba cái chi tiết nhỏ nhặt, lúc đó em và anh sẽ...” Nghiêm khắc, chăm chú, bí mật, cặp mắt hắn nhìn nàng, nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng đang cúi xuống của nàng. Một lần nữa, nàng nghe cái tiếng động đột ngột, khẽ khàng khi hắn ngẩng đầu lên và nhìn ra phía sau. “Và chuyện này khiến anh nhớ ra là...”
Nàng không cử động. Nàng nói: “Sẽ là khi nào vậy, Lucas?” Rồi nàng nghe thấy, cảm thấy một sự bất động hoàn toàn, một sự im lặng tuyệt đối.
“Khi nào cái gì?”
“Anh biết rõ mà. Như anh đã nói. Dưới đó, ở quê em. Một mình em, thì cũng được thôi. Không quan trọng gì. Nhưng bây giờ thì khác rồi. Em cho là em có quyền lo lắng, bây giờ.”
“Ồ, chuyện đó,” hắn nói. “Chuyện đó. Em đừng lo về chuyện đó. Chỉ cần để cho anh giải quyết xong việc này và nhận số tiền đó đã. Nó thuộc quyền của anh. Không có lấy một thằng chó đẻ nào...” Hắn ngừng. Hắn đã bắt đầu lên giọng, như thể hắn đã quên mất mình đang ở đâu và đã suy nghĩ thành tiếng. Hắn hạ giọng; hắn nói: “Hãy để anh lo liệu. Em đừng lo lắng. Anh có bao giờ cho em lý do để mà băn khoăn đâu, phải không? Trả lời anh đi.”
“Không. Em không bao giờ băn khoăn cả. Em đã biết là em có thể tin vào anh.”
“Vậy thì em đã biết việc này. Và những thằng chó đẻ này ở đây... những thằng này ở đây...” Hắn đã đứng lên khỏi ghế. “Và chuyện này khiến anh nhớ ra là...” Nàng không nhìn lên, không nói lời nào trong khi hắn đứng bên cạnh nàng, nhìn nàng bằng cặp mắt bị quấy nhiễu, tuyệt vọng và nài nỉ. Làm như nàng giữ hắn lại ở đó và nàng biết điều đó. Và nàng trả tự do cho hắn theo ý riêng của nàng, một cách có chủ tâm.
“Em cho là anh có nhiều việc phải làm lúc này.”
“Thực tế là vậy. Với tất cả những chuyện làm anh bận tâm và những thằng chó đẻ...” Nàng bây giờ nhìn hắn. Nàng nhìn hắn trong khi hắn nhìn cái cửa sổ ở bức tường cuối phòng. Rồi hắn nhìn cái cửa ra vào đã đóng sau lưng hắn. Rồi hắn nhìn nàng, nhìn khuôn mặt nghiêm trang của nàng, nó mang vẻ không biết gì cũng như biết tất cả, hiểu tất cả. Hắn hạ giọng. “Anh có kẻ thù ở đây. Những người không muốn anh nhận cái mà anh đã giành được. Vì vậy anh sắp sửa...” Một lần nữa làm như nàng giữ hắn lại, bắt ép hắn nói láo, thử lòng hắn với lời nói láo cuối cùng này mà ngay cả cái cặn bã đáng buồn của lòng tự trọng của hắn cũng ghê tởm; làm như nàng giữ hắn lại không phải bằng gậy hay dây thừng nhưng bằng cái gì đó làm cho sự nói láo của hắn trở nên không đáng kể như lá khô hay như rác rưởi. Nhưng nàng không nói gì cả. Nàng chỉ nhìn hắn trong khi hắn rón rén đi đến mở cửa sổ không gây ra tiếng động. Rồi hắn nhìn nàng. Có lẽ hắn nghĩ mình bây giờ an toàn rồi, có thể nhảy qua cửa sổ trước khi nàng có thể chạm đến người hắn với bàn tay bằng da bằng thịt của nàng. Hay có lẽ đó là cái phần còn lại tồi tệ nào đó của sự xấu hổ, giống như một lát trước đó, cái phần còn lại tồi tệ của lòng tự trọng. Thực vậy, hắn nhìn nàng, và cảm thấy, ngay giây phút này, không còn có thể ăn nói dài dòng và láo khoét. Giọng nói của hắn giờ chỉ còn thầm thì: “Có một người ở ngoài. Trước nhà, đang đợi anh.” Rồi hắn đi mất, qua cửa sổ, không gây ra tiếng động nào, bằng một động tác duy nhất gần như giống một con rắn. Nàng nghe ra bên ngoài cửa sổ một tiếng sột soạt rất nhẹ khi hắn bắt đầu chạy. Chỉ vào lúc đó nàng mới cử động, nhưng chỉ để buông ra một tiếng thở dài thật sâu.
“Bây giờ mình phải đứng dậy lần nữa đây,” nàng nói.
***
Khi ra khỏi khu rừng cây và gặp đường ray xe lửa, Brown thở hổn hển. Đó không phải vì mệt mỏi, dù trong hai mươi phút hắn đã chạy được gần hai dặm và đường thì khó khăn. Đúng hơn, đó là tiếng thở gầm gừ và xấu xa của một con thú chạy trốn: trong khi hắn đứng nhìn cả hai phía đường xe lửa trống vắng, bộ mặt hắn, vẻ biểu lộ trên mặt hắn thì trông giống như một con thú đang chạy trốn một mình, không muốn ai giúp, nó bám chặt vào sự tin cậy cô độc ở những cơ bắp của mình thôi, và vào lúc tạm nghỉ để lấy lại hơi thở, nó thấy ghét từng bờ cây bụi cỏ trước mắt như thể chúng là kẻ thù đang sống không bằng, nó thấy ghét ngay cả mặt đất trên đó nó nghỉ ngơi, cả không khí mà nó cần để hít thở.
Hắn đã gặp đường ray xe lửa vài trăm thước cách chỗ nó nhắm đi đến. Đó là chỏm một con dốc, nơi mà tàu lửa chở hàng lên phía Bắc chạy chậm lại, trông như bò lê bò lết một cách kinh khủng, còn chậm hơn một người đi bộ. Cách trước mặt hắn không xa, hai đường ray sáng láng có vẻ được cắt gọn như thể do kéo cắt.
Trong một lúc, hắn đứng giấu mình sau bức màn cây bên cạnh đường ray. Hắn đứng như một người suy tư và tính toán một cách vô vọng, như thể hắn ra sức hình dung trong đầu một ván bài tuyệt vọng cuối cùng trong một canh bạc đã thua rồi. Sau khi đứng thêm một lát nữa, căng tai nghe ngóng, hắn quay người và bắt đầu chạy lại, xuyên qua khu rừng cây và song song với đường xe lửa. Hắn dường như biết rõ ràng mình đi đâu. Giờ đây hắn gặp một con đường mòn và theo nó, vẫn chạy, rồi thấy hiện ra một khoảng rừng trống trên đó có một căn lều da đen. Hắn đến gần phía cửa trước, bây giờ thì đi chứ không chạy nữa. Dưới hàng hiên, một bà già da đen đang ngồi hút ống điếu, đầu quấn khăn trắng. Brown tuy không chạy nhưng vẫn thở nhanh, nặng nhọc. Hắn chờ cho bớt mệt rồi mở miệng. “Chào bà,” hắn nói, “có ai ở nhà không?”
Bà già da đen lấy ống điếu ra khỏi miệng. “Có tui. Tại sao muốn biết?”
“Tôi phải gởi một tin nhắn về phố. Gấp lắm.” Hắn kiểm soát hơi thở để có thể nói. “Tôi sẽ trả tiền. Không biết có ai đây có thể làm việc này không?”
“Nếu gấp như vậy thì tốt hơn ông tự đi lấy.”
“Tôi sẽ trả tiền. Tôi nói với bà vậy mà!” hắn nói. Hắn nói bằng sự kiên nhẫn đầy giận dữ bên trong, cố nén giọng nói và hơi thở. “Một đô-la nếu đi khá nhanh. Bộ ở đây không có ai muốn làm ra một đô-la sao? Một trong những người con trai bà chẳng hạn?”
Bà già vừa hút thuốc, vừa nhìn hắn. Với khuôn mặt già nua, bí ẩn và tối tăm như nửa đêm, bà có vẻ ngắm nhìn hắn bằng một sự dửng dưng gần như thần thánh nhưng thiếu thiện cảm. “Một đô-la tiền mặt hả?”
Hắn làm một cử chỉ khó tả, một cử chỉ của sự hối hả, sự giận dữ bị đè nén, gần như nỗi tuyệt vọng. Hắn sắp sửa quay lưng bỏ đi khi bà da đen mở miệng nói lại. “Đâu có ai ở đây, trừ tui ra với hai đứa nhỏ. Tui cho là chúng quá nhỏ đối với ông.”
Brown quay người lại. “Nhỏ thế nào?” Tôi chỉ muốn một người có thể mang cái tin nhắn đến cho ông cò, mang đi gấp và...”
“Cho ông cò hả? Vậy là ông đến lầm chỗ rồi. Không đời nào có ai trong gia đình tui mà mất thì giờ làm trò khỉ với mấy ông cò. Tui có biết một thằng mọi đen tưởng mình quen biết với một ông cò đủ thân thiết để xách đít đi thăm ổng. Nó không bao giờ trở về. Ông hãy đi tìm ở chỗ nào khác đi.”
Nhưng Brown đang bỏ đi. Hắn không chạy ngay tức khắc. Hắn chưa nghĩ tới chuyện chạy lại; vào lúc này, hắn không thể nghĩ gì được cả. Nỗi giận dữ và cảm giác bất lực thì bây giờ gần như ở trạng thái mê ly. Hắn có vẻ suy ngẫm, bây giờ, về một thứ như tính chất không thể sai lầm - nó thì tươi đẹp và nằm ngoài thời gian - của những sự thất bại không thể đoán trước được của hắn. Như thể chính việc luôn luôn làm nạn nhân như vậy của những thất bại này đã nâng hắn, bằng cách này hay cách nọ, lên bên trên những hy vọng và những ham muốn nhỏ nhoi thuộc con người mà người đời bác bỏ và thủ tiêu. Do đó mà bà già da đen phải hét đến hai lần hắn mới nghe được và quay lại. Bà đã không nói gì, không cử động: bà chỉ hét lên. Bà nói, “Có người giúp ông đưa tin rồi đó.”
Trước hàng hiên, hình như từ trên không hiện xuống, là một tên da đen mang vẻ hoặc một thằng người lớn đần độn hoặc một đứa con nít lớn quá nhanh. Mặt nó thì đen, bất động, cũng khá bí ẩn. Hai người đứng nhìn nhau. Hay đúng hơn, Brown nhìn tên da đen. Hắn không thể nói là tên da đen có nhìn hắn hay không. Và điều này, bằng cách này hay cách nọ, cũng có vẻ đúng và tốt và hòa hợp với những gì còn lại: đó là hy vọng cuối cùng của hắn, là phương sách cuối cùng của hắn, giờ lại tùy thuộc vào một con thú vật có vẻ không đủ trí óc để tìm ra thành phố, chưa tính đến chuyện tìm ra một người ở đó. Một lần nữa, Brown làm một cử chỉ khó tả. Hắn bây giờ vừa gần như chạy về phía hàng hiên, vừa lục lọi trong túi áo sơ-mi. “Tao muốn mày đem cái thư ngắn này lên phố và đem thư trả lời về lại cho tao,” hắn nói. “Mày có làm được không?” Nhưng hắn không chờ đợi câu trả lời. Hắn đã rút ra từ túi áo một mảnh giấy lấm bẩn và một cây bút chì bị nhay, và khom người trên lan can hàng hiên, hắn viết, khó nhọc và vội vã, trong khi bà già da đen nhìn hắn:
***
Ông Wat Kenedy Thưa ông xin vui lòng đưa cho ngừi man thư này Tiền thưởn của Tôi vì bét được thằng Giết ngừi Xmas gói tiền trong Giấy để đưa cho ngừi man thư trân trọng. [119]
Hắn không ký tên. Hắn cầm mảnh giấy lên, nhìn nó trừng trừng trong khi bà già da đen quan sát hắn. Hắn cứ nhìn mảnh giấy lấm bẩn và vô tội, những hàng chữ viết nguệch ngoạc, hấp tấp và khó nhọc mà trong đó hắn đã làm được một việc, dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi: đánh bẫy tất cả linh hồn cũng như toàn bộ cuộc đời hắn nữa. Rồi hắn đặt mạnh nó xuống và viết không Kí tên nhưng được rùi Ông biếc ai mà [120] . Hắn gấp nó lại rồi đưa cho tên da đen. “Mang nó đến ông cò. Không được mang đến cho bất cứ ai khác. Mày có nghĩ mày tìm ra ổng không?”
“Nếu ông cò không tìm ra nó đầu tiên,” bà già da đen nói. “Đưa cho nó đi. Nó sẽ tìm ra ổng, nếu nó còn sống. Lấy một đô-la rồi chạy đi cho mau nghe mày.”
Tên da đen đã bắt đầu đi. Nó ngừng lại. Nó chỉ đứng đó, không nói gì, không nhìn gì. Trên hàng hiên, bà già da đen ngồi. Bà hút thuốc và nhìn xuống khuôn mặt tên đàn ông da trắng: một khuôn mặt yếu ớt, giống chó sói, đẹp, có vẻ ngay thẳng, nhưng bây giờ biến đổi thành một cái mặt nạ kiệt sức và xảo trá, bởi một sự mệt mỏi gì đó nhiều hơn là thể xác. “Tui tưởng ông gấp lắm mà,” bà nói.
“Được rồi,” Brown nói. Hắn móc ra một đồng tiền từ trong túi. “Đây này. Nếu mày mang thư trả lời về cho tao trong vòng một tiếng đồng hồ, tao sẽ cho mày thêm năm đồng như cái này nữa.”
“Đi đi, mọi đen,” người đàn bà nói. “Mày đâu có cả ngày đâu. Ông muốn nó mang thư trả lời về tại đây hay sao?”
Brown nhìn bà hơi lâu hơn một chút. Rồi một lần nữa, sự thận trọng, sự xấu hổ, tất cả rời bỏ hắn. “Không. Không tại đây. Mang nó lên trên đỉnh dốc ngoài kia. Đi theo đường rầy xe lửa cho tới khi tao gọi mày. Và tôi lúc nào cũng theo dõi bà. Bà đừng quên nghe. Bà có nghe không?”
“Ông khỏi phải lo,” bà da đen nói. “Nó sẽ đến đúng chỗ và quay về với thư trả lời, nếu không có gì chặn nó lại. Đi đi mày.”
Tên da đen lại đi. Nhưng nó chưa đi được nửa dặm đường thì có cái gì đó chặn nó lại. Đó là một người đàn ông da trắng khác đang dắt một con la.
“Ở đâu?” Byron nói. “Mày gặp hắn ở đâu?”
“Vừa mới đây. Dưới đó, ở nhà.” Người đàn ông da trắng đi tiếp, tay dắt con la. Tên da đen nhìn theo. Nó không trình ra cho ông da trắng lá thư ngắn đó vì ông da trắng không đòi xem nó. Có lẽ lý do tại sao ông da trắng không đòi xem lá thư ngắn đó là vì ông da trắng không biết rằng nó có lá thư đó; có lẽ tên da đen đang nghĩ điều này, bởi vì trong một lúc bộ mặt nó phản ánh một cái gì đó kinh sợ và bí mật. Rồi bộ mặt sáng tỏ ra. Nó hét lên. Người đàn ông da trắng quay người, đứng lại. “Ổng không còn ở dưới đó đâu,” tên da đen nói to như hét. “Ổng nói ổng đi lên trên cái dốc gần đường xe lửa để đợi tôi.”
“Cám ơn nhiều,” người đàn ông da trắng nói. Tên da đen tiếp tục đi.
***
Brown quay lại đường xe lửa. Hắn bây giờ không chạy. Hắn tự nhủ, ‘Nó sẽ không làm việc này. Nó không thể làm. Mình biết nó không thể tìm ra ổng, nó không thể nhận tiền và mang về cho mình.’ Hắn không gọi ra những cái tên, nghĩ đến những cái tên. Hắn có cảm tưởng là bây giờ tất cả bọn họ, tên da đen, ông cò, món tiền đó, tất cả, chỉ còn là những hình dạng, giống như những quân cờ bị di chuyển không lý do và không thể dự kiến được bởi một Đối thủ có thể đoán những nước đi của hắn trước khi hắn đi cờ, và tự ý tạo ra những quy tắc mà hắn, chứ không phải Đối thủ, phải tuân theo. Hiện giờ, hắn thậm chí đã ở ngoài nỗi tuyệt vọng khi hắn rời đường xe lửa và đi vào trong bụi cây thấp gần đỉnh dốc. Hắn bây giờ bước đi không vội vã, đưa mắt ước lượng khoảng cách như thể không có gì khác trên thế giới này hay ít ra trong cuộc đời hắn. Hắn chọn một chỗ và ngồi xuống. Hắn có thể thấy, nhưng không sợ bị thấy, đường xe lửa đó.
‘Nhưng mình biết nó sẽ không làm việc này,’ hắn nghĩ. ‘Mình thậm chí không trông chờ. Nếu mình thấy nó trở lại với bó tiền trong tay, mình sẽ không tin đâu. Tiền đó đâu phải để cho mình. Mình chắc chắn như vậy. Mình sẽ biết đó là một lầm lẫn.’ Mình sẽ nói với nó Mày hãy đi tiếp. Mày đang tìm ai khác chớ không phải tao. Mày đâu phải tìm Lucas Burch. Không, không. Lucas Burch không xứng đáng với món tiền đó, với tiền thưởng đó. Hắn không hề làm gì để có nó. Không, không Hắn bắt đầu cười. Ngồi xổm. Bất động. Bộ mặt mệt mỏi cùng cực cúi xuống. Cười. ‘Đúng, đúng vậy. Lucas Burch chỉ muốn một điều: công lý. Chỉ có công lý thôi. Không phải do đã khai ra với bọn chó đẻ đó tên họ của thằng sát nhân và nơi mà chúng có thể tìm thấy y. Chỉ phải cái là chúng đã không muốn ra sức. Chúng đã không hề ra sức bởi vì chúng hẳn sẽ phải trả tiền cho Lucas Burch. Công lý.’ Rồi hắn nói to, giọng cay đắng và đẫm lệ: “Công lý. Không cái gì khác. Chỉ những quyền lợi của tôi. Và bọn chó đẻ với những ngôi sao bằng thiếc tí hon, tất cả mỗi đứa đều tuyên thệ bảo vệ công dân Mỹ.” Hắn nói điều đó một cách cay đắng, gần như khóc vì giận dữ, tuyệt vọng và mỏi mệt: “Trời đất! Bộ không đủ lý do để biến người ta thành bôn-sê-vích [121] thứ thiệt sao?” Rồi chỉ còn sự im lặng cho tới khi Byron lên tiếng ngay sau lưng hắn:
“Nào, đứng dậy đi!”
Chuyện đó đã không kéo dài lâu. Byron biết điều đó từ trước. Nhưng anh không lưỡng lự. Anh chỉ leo lên cho tới khi anh thấy người kia. Và anh ngừng lại, nhìn cái hình dạng đang nằm và không hay biết gì cả. ‘Mày thì to con hơn tao,’ Byron nghĩ. ‘Nhưng tao bất chấp. Mày luôn luôn có tất cả mọi lợi thế khác hơn tao. Nhưng tao cũng bất chấp luôn. Trong chín tháng, mày đã vứt bỏ hai lần cái mà tao đã không bao giờ có được trong ba mươi lăm năm. Và bây giờ tao sắp đem thân ra chịu đòn và tao cũng bất chấp luôn.’
Sự việc đã không kéo dài lâu. Brown xoay người, lợi dụng ngay cả sự ngạc nhiên của chính mình. Hắn không tin là bất cứ người nào bất thần tìm được kẻ thù đang ngồi lại cho nó cơ hội đứng dậy đàng hoàng, ngay cả trong trường hợp kẻ thù này không phải to con nhất trong hai người. Bản thân hắn hẳn sẽ không làm như vậy. Nhưng sự việc xảy ra, là tên nhỏ con nhất trong hai đứa đã thực sự làm chuyện này trong khi hắn hẳn đã không làm, thì tồi tệ hơn cả lời sỉ nhục: đó là sự chế giễu. Vậy là hắn đánh nhau một cách ác liệt hơn, một cách dã man hơn là trong trường hợp nếu như Byron bất thần nhảy xổ vào hắn từ sau lưng: hắn đánh nhau bằng sự dũng cảm mù quáng và tuyệt vọng của một con chuột đói bị dồn vào góc tường.
Sự việc đã kéo dài ít hơn hai phút. Rồi Byron nằm yên giữa những bụi cây thấp bị gãy đổ và giẫm nát, máu chảy lặng lẽ trên mặt. Anh nghe tiếng sột soạt của tầng cây mọc sát mặt đất được một lát thì thấy nó ngừng, rơi dần vào im lặng. Rồi chỉ còn mình anh. Anh bây giờ không cảm thấy đau chỗ nào, nhưng còn tốt hơn thế nữa, anh không cảm thấy vội vã, cấp bách để làm bất cứ chuyện gì hay đi bất cứ chỗ nào. Anh chỉ nằm đó, chảy máu và bình thản, biết chắc chắn là sau một lát sẽ không bao giờ muộn để trở vào thế gian và thời gian lần nữa.
Anh thậm chí không tự hỏi Brown đã đi đâu. Anh không phải nghĩ đến Brown lúc này. Một lần nữa, trong tâm trí anh hiện lên những hình dạng im lìm giống như những đồ chơi của tuổi thơ bị vứt bỏ, chỉ còn những mảnh rời lộn xộn chất chồng lên nhau, bị bụi lặng lẽ phủ lên, trong một góc tủ bị bỏ quên - Brown. Lena Grove. Hightower. Byron Bunch - tất cả đều giống như các đồ vật nhỏ đã không bao giờ sống, mà anh đã chơi trong thời thơ ấu và anh đã làm đổ vỡ rồi quên lãng. Anh nằm như vậy khi anh nghe tiếng còi xe lửa ở chỗ chắn tàu cách đó nửa dặm.
Nó đánh thức anh; đây là thế gian, và đây cũng là thời gian nữa. Anh ngồi dậy, chậm rãi, ngập ngừng. ‘Dù sao đi nữa, mình không bị gãy tay gãy chân gì hết,’ anh nghĩ. ‘Mình muốn nói là hắn đã không đánh gãy cái gì thuộc về mình hết.’ Trời đang cuối chiều: thời gian đã trở lại, cùng với nó là khoảng cách và sự di chuyển. ‘Phải rồi. Mình phải đi thôi. Mình phải xoay sở tìm cho mình cái gì khác để mà xen vào.’ Tàu lửa đang đến gần. Nhịp kéo của cái đầu máy đã chậm lại và trở nên nặng nhọc hơn khi nó bắt đầu lên dốc; sau một chốc, anh có thể thấy khói. Anh thọc tay vào túi tìm cái khăn tay. Anh không có khăn, vậy là anh xé phần đuôi áo sơ-mi và vừa chấm chấm nhẹ lên mặt một cách thận trọng, vừa nghe tiếng thở ngắn và chói tai của cái đầu máy ngay trên dốc. Anh đi ra phía rìa bụi cây mà từ đó anh có thể thấy đường ray xe lửa. Cái đầu máy bây giờ thì ở trong tầm mắt, hầu như đối diện anh, dưới những luồng khói đen kịt. Nó tạo ra một ấn tượng kinh khiếp về sự bất động. Vậy mà nó vẫn tiến tới, bò lên một cách kinh khủng cho tới đỉnh dốc. Đứng ở rìa bụi rậm, anh nhìn cái đầu máy đến gần và bò qua trước mặt anh một cách nặng nhọc. Anh nhìn nó với sự mê mải trẻ con và sung sướng vô ngần (và có lẽ khao khát), làm lộ ra quá khứ được nuôi dạy và lớn lên ở đồng quê của anh. Nó đi qua. Anh đưa mắt nhìn theo, và quan sát các toa tàu khi đến lượt chúng bò lên rồi vượt qua đỉnh dốc. Và đột ngột, và là lần thứ hai trong buổi chiều đó, anh thấy một người đàn ông hình như từ khoảng không hiện ra và đang chạy.
Cho đến bấy giờ anh vẫn không nhận ra điều mà Brown sắp làm. Anh đã tiến quá sâu trong sự bình yên và sự cô đơn để mà tự hỏi. Anh chỉ đứng đó, nhìn Brown chạy về phía tàu lửa, người khom xuống, mang vẻ lẩn trốn; anh thấy hắn đưa tay nắm lấy cái thang sắt ở cuối một toa tàu, nhảy lên rồi biến mất, như thể bị hút bởi khoảng không. Tàu lửa bắt đầu tăng tốc. Anh nhìn cái toa tàu mà Brown đã biến mất trong đó. Nó đi qua. Bám vào đằng sau nó, giữa nó và toa tàu tiếp sau, Br