Chương 19
Vào đêm thứ hai đó, xung quanh bàn ăn vào giờ ăn tối, thành phố tỏ ra ngạc nhiên về sự vượt ngục của Christmas ít hơn là về nơi ẩn náu mà y đã chọn sau khi ra ngoài được. Y chắc phải biết là ở đó y chắc chắn sẽ bị bắt lại, và người ta còn tự hỏi khi việc này xảy ra, y lại không đầu hàng cũng không chống cự. Như thể y đã dự định và tỏ ra sẵn sàng tự tử một cách thụ động.
Tại sao y cuối cùng thì chạy đến trốn tránh ở nhà Hightower? Các ý kiến, các câu trả lời thì nhiều và khác nhau. “Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu mà; đó là cách dễ nhất, nhanh nhất,” một số người nói, trong đầu nhớ lại những chuyện cũ của ông mục sư. Vài người khác lại tin rằng đó là hoàn toàn tình cờ; vài người khác nữa nói là y đã hành động khôn ngoan, bởi vì không ai hẳn có thể nghĩ ra chuyện đến tìm bắt y ở nhà ông mục sư nếu như không có ai đó thấy y chạy băng qua cái sân sau nhà và chui vào bếp.
Tuy nhiên, Gary Stevens có một thuyết khác. Ông là ủy viên công tố của quận, tốt nghiệp đại học Harvard, một thành viên của Hội Phi Beta Kappa [122] : một người đàn ông cao lều nghều với cái ống điếu làm bằng lõi bắp không khi nào rời tay, tóc tai màu xám sắt bù xù, áo quần màu xám đậm lúc nào cũng rộng lùng thùng và không ủi. Ông thuộc một dòng họ lâu đời ở Jefferson. Tổ tiên ông xưa kia có sở hữu nô lệ ở đó và ông nội ông có quen biết ông nội và anh trai của cô Burden (và cũng ghét họ, và công khai khen ngợi Đại tá Sartoris khi họ bị giết). Ông có một cung cách ứng xử dễ dàng và nhẹ nhàng với nông dân, với cử tri và với các hội thẩm đoàn; thỉnh thoảng người ta có thể thấy ông ngồi ở hàng hiên một tiệm tạp hóa ở nhà quê suốt cả buổi chiều mùa hè giữa đám nông dân mặc quần yếm, nói chuyện tầm phào không đâu vào đâu với họ bằng lối ăn nói riêng của họ.
Đêm thứ hai này, một giáo sư của Đại học tiểu bang [123] lân cận xuống lúc chín giờ từ chuyến tàu xuôi Nam, một người bạn đồng môn của Stevens ở Harvard, đến Jefferson để nghỉ hè vài ngày với bạn mình. Khi bước xuống tàu ông thấy ngay người bạn tức khắc. Ông tưởng là Stevens đến nhà ga để đón mình cho đến khi ông thấy là Stevens đang bận bịu đưa một cặp vợ chồng già trông có vẻ kỳ quặc lên tàu. Nhìn họ, ông giáo sư thấy một ông già nhỏ con, dơ bẩn, với chòm râu ngắn ở cằm, có vẻ ở trong tình trạng như bị chứng giữ nguyên thế [124] , và một bà già hẳn là vợ lão ta - một con người lùn mập với bộ mặt trông như được làm bằng bột nhào dưới cái lông chim màu trắng bị lấm bẩn lắc lư, không ra hình dạng gì trong chiếc áo đầm lụa cổ lỗ sĩ có màu vua chúa [125] và sắp phai hết. Trong một khoảnh khắc, ông giáo sư đứng lại, mặt lộ vẻ quan tâm pha chút ngạc nhiên khi thấy Stevens dúi vào tay người đàn bà, như dúi vào tay một đứa bé, hai tấm vé tàu. Ông bước tới, và Stevens vẫn chưa thấy ông, và ông tình cờ nghe lời nói cuối cùng của người bạn mình ngay lúc người phục vụ trên toa giúp hai ông bà già đi vào hành lang: “Được rồi, được rồi,” Stevens nói, giọng dỗ dành và vắn tắt; “sáng mai cậu ấy sẽ đi tàu lửa. Tôi sẽ lo liệu chu đáo việc này. Tất cả những gì bà phải làm là thu xếp đám tang, nghĩa địa. Giờ bà đưa ông về nhà, đưa ông vào giường. Tôi sẽ lo liệu cho cậu ấy lên tàu lửa sáng mai.”
Rồi con tàu bắt đầu chuyển bánh, Stenvens quay người và thấy ông giáo sư. Stevens bắt đầu câu chuyện khi họ đi xe hơi vào phố và chấm dứt trong lúc ngồi ở hàng hiên ngôi nhà ông. Ông tóm tắt: “Tao nghĩ mình biết tại sao, tại sao y cuối cùng lại chạy đến ẩn trốn ở nhà Hightower. Tao nghĩ nguyên do là bà ngoại của y. Bà vừa mới gặp y được một lúc trong xà lim khi người ta đến dẫn y trở lại tòa án lần nữa; bà với ông ngoại y, cái lão già nhỏ con loạn trí đó muốn hành hình y theo kiểu lin-chơ, lão đến từ Mottstown chỉ với mục đích này. Tao không nghĩ là bà già đó có hy vọng gì để cứu y cả khi đến đây, một hy vọng thực sự. Tao tin rằng tất cả những gì bà muốn, đó là y được chết ‘đàng hoàng’, như bà diễn tả. Được treo cổ một cách đàng hoàng bởi một Lực, một nguyên tắc, chớ không phải bị thiêu sống, bị chặt chém, bị kéo lê sau khi chết bởi một Vật. Tao nghĩ là bà đến đây chỉ để theo dõi lão già thôi, để lão khỏi là giọt nước làm tràn ly, bởi vì bà không dám để lão ra khỏi tầm mắt mình. Không phải vì bà không tin Christmas là cháu ngoại mình, mày hiểu chớ. Nhưng vì bà không hy vọng, chỉ vậy thôi. Không biết làm sao bắt đầu hy vọng. Tao hình dung là sau ba mươi năm cỗ máy hy vọng cần hơn hai mươi bốn giờ để khởi động lại, để vận hành trở lại.
“Nhưng tao tin là, một khi bắt đầu lại trên thực tế, do tác động của chiều hướng điên dại và tin tưởng của lão già, bà cũng để mình bị lôi cuốn theo mà không nhận ra. Vậy là họ đến đây. Họ đến đây bằng chuyến xe lửa sớm, khoảng ba giờ sáng chủ nhật. Và bà không tìm cách gặp Christmas. Có lẽ do bà lúc nào cũng để mắt đến lão già. Nhưng tao không nghĩ vậy. Tao cũng không tin là cỗ máy hy vọng đã khởi động lại lúc đó. Tao không nghĩ là nó đã thực sự khởi động bao giờ cho tới khi đứa bé đó sinh ra sáng nay, sinh ra ngay dưới mắt bà, mày có thể nói vậy; lại một đứa con trai nữa chớ. Và bà chưa hề gặp người mẹ trước đó, và chưa hề biết, chưa hề gặp người cha, và đã không hề gặp đứa cháu ngoại mình từ khi nó thành người lớn; vì vậy, đối với bà, ba mươi năm đó đơn giản là không tồn tại. Bị xóa bỏ ngay khi đứa bé cất tiếng khóc chào đời. Ba mươi năm đó không còn hiện hữu nữa.
“Nhưng tất cả những thứ này ập xuống bà quá nhanh. Có quá nhiều thực tế mà tay và mắt bà không thể chối bỏ, và quá nhiều điều để phải chấp nhận mà tay và mắt bà không thể đưa ra bằng chứng; quá nhiều điều không thể giải thích được mà tay và mắt bà cũng phải chấp nhận một cách quá đột ngột, và phải tin mà lại không có bằng chứng nào. Sau ba mươi năm, chắc chắn là bà giống như một người, sau khi đã sống cô độc, bỗng bất ngờ rơi vào một căn phòng đầy những người xa lạ, tất cả nói chuyện cùng lúc, và bà cố gắng xoay sở một cách tuyệt vọng để giữ gìn sự tỉnh táo bằng cách chọn lựa một cách xử thế hợp lý, trong giới hạn của những khả năng của mình, mà bà có thể tin chắc ít nhiều là mình đủ sức thực hiện. Cho đến khi đứa bé đó sinh ra, cho đến khi bà tìm được cách để đứng một mình, có thể cho là như vậy, bà đã giống như một hình nộm có giọng nói máy móc bị một gã tên là Bunch đẩy lên xe la, bắt phải nói khi gã ra dấu hiệu, như khi gã đưa bà đến, đêm qua, để kể ra câu chuyện của bà cho Tiến sĩ Hightower nghe.
“Và mày thấy đấy, bà vẫn còn dò dẫm. Bà vẫn còn cố sức tìm ra cái gì đó mà tâm trí bà, chắc là đã không hoạt động nhiều lắm từ ba mươi năm nay, có thể tin, có thể thừa nhận là thực tế, là có thực. Và tao nghĩ là bà đã tìm thấy nó ngoài đó, ở nhà Hightower, lần đầu tiên: một người mà bà có thể kể ra hết, một người chịu khó nghe bà. Rất có thể đó là lần đầu tiên từ trước đến nay bà kể ra câu chuyện của đời mình. Và rất có thể đó là lần đầu tiên chính bà biết được, bà thực sự thấy được vào lúc đó câu chuyện đó, toàn bộ và có thực, cùng lúc với Hightower. Cho nên tao không nghĩ rằng đó là quá kỳ lạ khi bà tỏ ra lộn xộn, nhầm lẫn trong một thời gian không những với đứa bé mà cả với quan hệ cha mẹ của nó, bởi vì trong căn lều đó, ba mươi năm qua đã không tồn tại - đứa bé mới sinh và cha nó mà bà chưa từng gặp, và đứa cháu ngoại trai của riêng bà mà bà đã không gặp lại từ khi nó còn là em bé như đứa kia, và cha nó, như cha đứa kia, cũng đã không tồn tại đối với bà, tất cả đều lẫn lộn, mù mờ. Và tao thấy cũng tất nhiên thôi khi niềm hy vọng thực sự bắt đầu nhú ra trong bà, bà liền hướng về ông mục sư cùng với niềm tin tuyệt diệu và vô hạn của loại người như bà đối với những người làm nô lệ tự nguyện, làm người đầy tớ có tuyên thệ của Chúa.
“Đó là những điều bà kể lại với Christmas trong nhà tù ngày hôm nay, trong khi lão già lợi dụng dịp này lẻn đi khỏi bà. Bà lần theo lão lên phố, và tìm thấy lão ở một góc đường, lão tỏ ra điên hết thuốc chữa, hoàn toàn khản tiếng, ra sức thuyết về sự hành hình theo kiểu lin-chơ, kể ra cho mọi người nghe lão là ông ngoại của một thằng con của quỷ sứ và lão đã canh giữ nó cho tới ngày hôm nay. Hay có lẽ bà trên đường đi đến nhà tù để gặp Christmas khi bà rời căn lều. Dù gì đi nữa, bà để cho lão yên ngay khi bà nhận ra là những người nghe thì có vẻ thích thú hơn là bị kích động, và bà tiếp tục đi tìm gặp ông cò. Ông vừa về sau khi ăn tối và trong một lúc ông không thể hiểu bà muốn gì. Dưới mắt ông lúc đó, bà chắc có vẻ như phát khùng đến nơi, với câu chuyện đó của bà, với cái áo đầm dành cho ngày chủ nhật chỉnh tề một cách vô vọng, sẵn sàng xông lên phá ngục. Nhưng ông cho phép bà đi đến nhà tù, với một cảnh sát. Và ở đó, trong xà lim với y, tao tin rằng bà đã nói với y về Hightower, là Hightower có thể cứu y, sắp sửa cứu y.
“Nhưng, tất nhiên là tao không biết bà nói gì với y. Tao không tin là ai đó có thể phục dựng cái cảnh này. Tao nghĩ là chính bà cũng không biết, là bà đã không sửa soạn những điều mà bà sắp nói với y, bởi vì mọi sự đã được diễn đạt, được viết ra cho bà vào cái đêm bà đẻ ra mẹ y; và so với bây giờ thì việc đó xảy ra lâu lắm rồi, lâu đến độ bà ghi khắc nó mãi mãi trong đầu, rồi bà quên đi những lời được viết ra đó. Có lẽ vì vậy mà y tin bà ngay tức khắc, nhắm mắt tin. Tao muốn nói, bởi vì bà không bận tâm đến những điều để nói, đến chuyện y thấy lời bà có vẻ hợp lý hay không, đến chuyện y có thể nghi ngờ lời bà hay không: ở đâu đó và bằng cách này hay cách nọ, trong con người, trong sự hiện diện hay trong bất cứ cái gì, của một ông mục sư già bị ruồng bỏ đó, là một nơi ẩn náu bất khả xâm phạm không những đối với cảnh sát và đám đông mà còn đối với cái quá khứ không thể hủy bỏ được; và đối với bất cứ tội ác nào đã khuôn đúc y, đã hình thành y để cuối cùng dẫn y vào sau song sắt xà lim, với bóng ma của tên đao phủ chưa được chỉ định lúc nào cũng lẩn quẩn trước mắt.
“Và y đã tin bà. Tao nghĩ chính điều đó đã cho y không phải sự can đảm mà là sự kiên nhẫn thụ động để tiếp tục tồn tại, nhận ra và chấp thuận cái cơ hội duy nhất mà y có được để xông vào giữa quảng trường đầy người và chạy trốn, tay còn bị còng. Nhưng có quá nhiều thứ cùng chạy với y, cùng một nhịp chân với y. Không phải những người đuổi bắt đâu, nhưng chính y: những năm tháng, những hành động, những việc làm lơ là hay tận tụy, theo kịp y từng bước chân sải dài, từng hơi thở một, từng nhịp đập của quả tim. Chỉ một quả tim đơn độc. Đó là, không những ba mươi năm này mà bà không biết mà còn một chuỗi những ba mươi năm khác đi trước cái chuỗi đã vấy một vết bẩn trên máu da trắng, hay trên máu da đen của y, tùy các bạn muốn, và chính cái này đã giết y. Nhưng trong một lúc y phải chạy với niềm tin, hay ít ra, với niềm hy vọng. Nhưng máu huyết y thì không muốn im lặng, không muốn được cứu thoát. Nó không muốn cái này lẫn cái kia, không muốn để cho thân thể y tự cứu lấy mình. Bởi vì máu da đen của y thúc đẩy y trước tiên về phía căn lều da đen. Rồi máu da trắng của y lại đẩy y ra khỏi chỗ đó, giống như máu da đen chụp lấy khẩu súng lục và máu da trắng lại không để cho y bắn. Và chính máu da trắng kéo y đến nhà ông mục sư, nó nổi lên trong người y một lần cuối cùng và dứt khoát, đẩy y, trái với mọi lý lẽ và thực tế, vào vòng tay của sự hão huyền, của niềm tin mù quáng ở cái gì đó đọc trong một cuốn Kinh in. Rồi tao nghĩ là máu da trắng bỏ rơi y trong một khoảnh khắc. Chỉ một giây chớp nhoáng, để cho máu da đen nổi lên cho hồi chung cục, đẩy y chống lại cái mà y trước đó đã đặt mọi hy vọng được cứu giúp của mình. Chính máu da đen cho phép nỗi ham muốn của riêng y lôi cuốn y ra ngoài những giới hạn mà con người có thể giúp đỡ y, lôi cuốn y vào trong trạng thái mê ly lúc ra khỏi khu rừng đen nơi mà cuộc sống đã chấm dứt trước khi quả tim ngừng đập và cái chết thì đồng nghĩa với nỗi ham muốn và sự mãn nguyện. Rồi máu da đen lại bỏ rơi y lần nữa, như nó chắc đã làm thế vào những lúc khủng hoảng trong suốt cuộc đời y. Y không giết ông mục sư. Y đơn giản đánh ông bằng khẩu súng lục rồi chạy tiếp, và ngồi núp sau chiếc bàn, và thách thức cái máu da đen lần cuối cùng, như y đã thách thức nó trong ba mươi năm. Y ngồi núp sau chiếc bàn bị lật nhào đó và để cho họ bắn y đến chết mà không dùng đến khẩu súng lục đã lên đạn y cầm trong tay.”
***
Vào thời buổi đó có một thanh niên tên là Percy Grimm sống trong thành phố. Gã khoảng hai mươi lăm tuổi và là một đại úy trong đoàn vệ binh quốc gia của Tiểu bang. Gã sinh ra và sống cả đời ở thành phố này, trừ mùa hè, khi gã vào sống trong trại quân. Gã còn quá trẻ để có thể tham dự vào Thế chiến thứ nhất [126] . Tuy nhiên, chỉ vào năm 1921 hay 1922 gã mới nhận ra là mình sẽ không bao giờ tha thứ cho cha mẹ trước sự việc đó. Cha gã, một người buôn bán vật dụng sửa chữa nhà cửa, không hiểu điều này. Ông tin là thằng con mình chỉ là một đứa lười biếng có khả năng trở thành một tên vô tích sự từ đầu đến chân. Thực ra gã chịu đựng một bi kịch khủng khiếp là sinh ra không những quá trễ nhưng mà không trễ lắm để thoát khỏi lương tri của thời đại đã qua, khi mà gã lẽ ra phải là một người đàn ông thay vì một đứa con nít. Và bây giờ thì sự cuồng loạn đã qua, bây giờ thì những người đã từng gào thét to nhất trong sự cuồng loạn đó và ngay cả những người, những anh hùng đã từng đau khổ, đã từng phục vụ trong cuộc chiến, bắt đầu nhìn lẫn nhau một cách hơi ngờ vực, gã không có ai để mà nói ra nỗi khổ tâm của mình, không có ai để mà cởi mở tấm lòng. Trên thực tế, trận đánh quan trọng đầu tiên của gã là với một tên cựu chiến binh đã mở miệng tuyên bố là, nếu phải bắt đầu lại thì anh ta lần này sẽ chọn chiến đấu bên phía Đức và chống lại Pháp. Grimm tức khắc ngắt lời anh ta. “Chống cả nước Mỹ nữa à?” gã nói.
“Nếu nước Mỹ tỏ ra quá ngu ngốc để nhào vô giúp Pháp lần nữa,” tên lính nói. Ngay lập tức, Grimm tung một cú đấm vào mặt anh ta; gã thì nhỏ con hơn tên lính, lại chưa được hai mươi tuổi. Kết quả thì đã biết trước rồi; ngay cả Grimm chắc chắn cũng biết điều đó. Nhưng gã chịu đựng sự trừng phạt cho tới khi chính tên lính mở miệng xin những người đứng ngoài hãy ra tay giữ chặt tên thiếu niên này lại. Và gã mang những vết sẹo của trận đánh đó một cách hãnh diện giống như sau này khi gã phải mang chính bộ quân phục mà vì nó gã đã đánh nhau một cách mù quáng.
Chính đạo luật dân sự-quân sự mới đã cứu gã. Gã thì giống như một người sống quá lâu trong vùng đầm lầy, trong bóng tối. Như thể gã không những không thấy lối ra trước mặt mình mà còn biết là chẳng có lối ra nào hết. Rồi bất ngờ cuộc đời gã mở rộng ra, được xác định và rõ ràng. Những năm tháng hoang phí mà gã đã trải qua, học hành không ra gì ở trường, có tiếng là lười biếng, cứng đầu, không hoài bão, tất cả giờ đây đã ở sau lưng gã, đã bị lãng quên. Gã bây giờ có thể thấy cuộc sống mở ra trước mặt mình, đơn giản, không thể tránh được, giống như một hành lang trống vắng. Gã cảm thấy hoàn toàn tự do, không còn phải suy nghĩ hay quyết định nữa. Gánh nặng mà gã bây giờ cáng đáng và mang theo thì sáng sủa, nhẹ tênh và hùng dũng, như màu đồng thau trên những huy hiệu của gã: một niềm tin tuyệt diệu và ngấm ngầm vào sự can đảm thể lý và sự phục tùng mù quáng, và một sự tin tưởng là chủng tộc da trắng thì cao cấp hơn tất cả những chủng tộc khác, là chủng tộc Mỹ thì cao cấp hơn tất cả những chủng tộc da trắng khác, là bộ quân phục Mỹ thì cao cấp hơn tất cả mọi người đàn ông, là sinh mạng của riêng gã có lẽ sẽ là cái giá duy nhất mà người ta đòi hỏi gã phải trả để đổi lấy sự tin tưởng này, đặc ân này. Mỗi một khi có ngày nghỉ lễ cả nước mà có chút bất cứ màu sắc quân sự nào thì y như rằng gã khoác lên người bộ quân phục đại úy của mình và đi vào trung tâm thành phố. Và những người thấy gã thì còn nhớ gã vào cái ngày gã đánh nhau với tên cựu chiến binh. Gã trông sáng rực với cái huy hiệu người thiện xạ (gã bắn súng giỏi) và cái lon đại úy, bộ dạng nghiêm trọng, cứng nhắc. Gã tản bộ ngay giữa những người dân thường, mang vẻ nửa hung hăng và nửa lúng túng của một đứa bé kiêu căng.
Gã không phải là thành viên của Hội Cựu chiến binh Mỹ [127] nhưng đó là lỗi của cha mẹ gã chứ không phải lỗi gã. Nhưng khi Christmas bị dẫn từ Mottstown về lại Jefferson vào buổi chiều thứ bảy đó, gã đã tìm đến gặp viên chỉ huy chi hội cựu chiến binh địa phương. Ý kiến, lời lẽ của gã thì đơn giản, rạch ròi. “Chúng ta phải duy trì trật tự,” gã nói. “Chúng ta phải để luật pháp đi theo đúng con đường của nó. Luật pháp, dân tộc. Những người dân thường không có quyền kết án tử hình một người. Và chúng ta, những chiến binh của Jefferson, chính chúng ta phải lo liệu việc này.”
“Làm sao anh biết là ai đó đang trù tính việc gì khác?” viên chỉ huy nói. “Anh đã nghe những tin đồn nào?”
“Tôi không biết. Tôi đã không lắng nghe.” Gã không nói láo. Làm như gã coi là không quan trọng những gì mà người dân thường có thể nói hay không nói, để bỏ công ra mà nói láo. “Vấn đề không nằm ở chỗ đó. Vấn đề ở chỗ là hoặc có, hoặc không, chúng ta, với tư cách là những chiến binh, những người đã và đang mặc quân phục, chúng ta sẽ là những người đầu tiên đưa ra lập trường của mình. Cho dân chúng thấy ngay lập tức chính quyền của đất nước này đang đứng ở đâu trước những sự việc như vậy. Chỉ mở miệng nói lên, nói xuống thì chẳng có ích gì cho dân.” Kế hoạch của gã thì đơn giản. Điều phải làm là tập hợp các cựu chiến binh ở chi hội thành một trung đội do chính gã chỉ huy, chiếu theo cấp bậc sĩ quan tại ngũ của gã. “Nhưng nếu họ không muốn tôi chỉ huy thì cũng được thôi. Tôi sẽ làm phó, nếu họ muốn. Hay làm trung sĩ, hay hạ sĩ.” Và gã thực tình khi nói vậy. Gã đâu thích mấy thứ vinh dự rỗng tuếch. Gã tỏ ra quá ngay thật. Ngay thật, nghiêm chỉnh đến mức viên chỉ huy đành dằn lại, không nói ra ngay lời từ chối thẳng thừng.
“Tôi vẫn nghĩ rằng chẳng cần phải làm như vậy đâu. Nhưng nếu thực sự cần thiết thì tất cả chúng tôi phải hành sử với tư cách người dân thường. Tôi không thể sử dụng chi hội như vậy được. Dù gì thì chúng tôi bây giờ đâu còn là lính tráng nữa. Tôi không nghĩ rằng tôi muốn chấp nhận đề nghị của anh, dù tôi có thể đi nữa.”
Grimm nhìn ông ta, không tỏ ra giận dữ, nhưng như thể nhìn một con sâu bọ. “Tuy nhiên, ông đã từng mặc quân phục,” gã nói với một vẻ kiên nhẫn. Gã nói: “Tôi hy vọng là ông sẽ không dùng quyền hành của mình để ngăn cản tôi nói chuyện với họ, phải vậy không? Với tư cách cá nhân với nhau?”
“Không đâu. Dù sao, tôi chẳng có bất cứ quyền hành gì để ngăn cản anh. Nhưng, với tư cách cá nhân với nhau, nên nhớ vậy. Anh không được sử dụng tên tôi, bất kể trong trường hợp nào.”
Gã trấn an ông ta theo kiểu của gã. “Có thể là tôi sẽ không làm điều đó,” gã nói. Rồi biến mất. Lúc đó là khoảng bốn giờ ngày thứ bảy. Trong phần còn lại của buổi chiều đó, gã đi khắp các cửa tiệm và văn phòng, nơi có những hội viên cựu chiến binh làm việc. Và khi đêm xuống, gã có đủ những người thuận theo ý gã để lập thành được hơn một trung đội. Gã thì không biết mỏi mệt, lại biết giữ gìn ý tứ, nhưng mạnh mẽ; giống như các nhà tiên tri, gã toát ra sức lôi cuốn khó cưỡng được. Tuy vậy, những người mà gã mới mộ được đều nhất trí với viên chỉ huy đó ở một điểm: không được dùng danh nghĩa chính thức của Hội Cựu chiến binh Mỹ trong vụ việc này - nhân đó, và không cố ý, gã đã đạt được mục tiêu ban đầu: người chỉ huy, bây giờ, chính là gã. Gã đã tập hợp tất cả bọn họ lại trước giờ ăn tối và chia họ ra thành những phân đội và chỉ định sĩ quan và bộ tham mưu; những người trẻ nhất, tức là những người đã không sang Pháp đánh nhau trước đây, giờ thì tỏ ra hăng hái hết mực. Gã nói chuyện trước họ, một cách ngắn gọn, lạnh lùng: “... trật tự... tiến trình của công lý... hãy để cho dân chúng thấy là chúng ta đã mang quân phục Hoa Kỳ... Và một điều cuối cùng.” Và bây giờ gã trở nên thân mật, bình dân, theo kiểu người chỉ huy trung đoàn biết rõ lính của mình, có thể gọi họ bằng tên riêng. “Tôi phó thác việc này cho các bạn. Tôi sẽ làm những gì mà các bạn quyết định. Nhưng tôi nghĩ có lẽ tốt hơn tôi nên mặc quân phục cho tới khi nào vụ việc này được giải quyết xong. Để cho dân chúng thấy là Chú Sam có mặt ở đây không chỉ trong ý nghĩ.”
“Nhưng Chú Sam không có ở đây,” ai đó nói nhanh, ngay tức khắc; đó là một người cùng kiểu như viên chỉ huy, à nhân tiện nói thêm là ông ta không có mặt ở đó. “Đây chưa phải là việc rắc rối cho chính phủ. Có thể ông cò Kennedy không thích chuyện này đâu. Đây là việc rắc rối của Jefferson, chứ không phải của Washington [128] .”
“Ta sẽ làm cho ổng thích,” Grimm nói. “Hội Cựu chiến binh của các bạn có ích cho ai nếu không phải là để bảo vệ nước Mỹ và người Mỹ, không phải vậy sao?”
“Không,” người kia nói. “Tôi cho là tốt hơn chúng ta không nên phô trương mấy thứ quân phục này ra. Chúng ta có thể làm những gì chúng ta muốn mà không cần chúng. Như vậy thì còn tốt hơn nữa đó. Này, không phải vậy sao, tụi mày?”
“Được thôi,” Grimm nói. “Tôi sẽ làm như các bạn nói. Nhưng tôi muốn mỗi người mang theo súng lục. Chúng ta sẽ có một cuộc kiểm tra vũ khí nhanh chóng ở đây, trong một giờ nữa. Mọi người sẽ trình diện tại đây.”
“Nhưng ông cò Kennedy sẽ nói gì về mấy khẩu súng lục này?” một người nào đó nói.
“Tôi sẽ lo chuyện đó,” Grimm nói. “Hãy trình diện ở đây đúng một giờ nữa, với vũ khí đeo cạnh sườn.” Gã giải tán họ. Gã đi băng qua quảng trường yên tĩnh để đến văn phòng ông cò. Người ta bảo gã là ông cò đang ở nhà. “Ở nhà ư?” gã lập lại. “Bây giờ sao? Ổng đang làm gì ở nhà vào giờ này?”
“Ăn chớ làm gì. Một người to mập như ổng phải ăn tới mấy lần trong ngày lận.”
“Ở nhà!” Grimm lập lại. Ánh mắt gã không lóe lên chút giận nào; gã tỏ ra cùng vẻ lạnh lùng, xa cách mà hồi nãy gã đã nhìn viên chỉ huy. “Ăn!” gã nói. Gã đi ra ngoài, chân đã bước nhanh. Gã băng qua quảng trường trống vắng lần nữa, cái quảng trường yên bình không có ai vào giờ này, giờ mà người ta ngồi xung quanh bàn, ăn tối một cách yên bình, trong cái thành phố yên bình này, trong cái xứ sở yên bình này. Gã đi thẳng tới nhà ông cò. Và ông cò nói “Không” ngay tức khắc.
“Mười lăm hay hai chục mạng lận súng trong quần rồi xách đít đi quanh quảng trường sao? Không, không! Không xong được đâu. Tôi không cho phép việc này. Không xong được đâu. Hãy để tôi giải quyết việc này.”
Grimm nhìn ông cò hơi lâu. Rồi gã quay người, chân đã bước nhanh lại. “Được rồi,” gã nói. “Nếu đó là cách ông muốn. Vậy thì tôi không xen vào việc của ông và ông không xen vào việc của tôi.” Câu nói này không có vẻ là lời hăm dọa. Nó quá tẻ nhạt, quá dứt khoát, và quá thiếu sức nóng. Gã đi ra nhanh. Ông cò nhìn theo gã và bất ngờ ông gọi gã. Grimm quay người lại.
“Cậu cũng phải để súng ở nhà nữa đó,” ông cò nói. “Cậu có nghe tôi không?” Grimm không trả lời. Gã tiếp tục đi. Ông cò nhíu mày, nhìn gã ra khỏi tầm mắt mình.
Tối hôm đó, sau khi ăn, ông cò vào lại trung tâm thành phố - một chuyện mà ông đã không làm từ bao nhiêu năm nay, trừ những khi ông có việc khẩn cấp không thể tránh được. Ông tìm thấy một tốp người của Grimm ở trước nhà tù, một tốp khác ở trước tòa án, và tốp thứ ba thì đi tuần tra ở quảng trường và các đường phố liền kề. Người ta báo với ông cò là những người khác, dùng để đổi phiên, thì hiện đang ở văn phòng nhà máy bông vải, nơi Grimm làm việc. Văn phòng này giờ thì được họ dùng làm phòng cần vụ và sở chỉ huy. Ông cò gặp Grimm giữa đường, gã đang làm một vòng thanh tra. “Này cậu kia, đến đây coi,” ông cò nói. Grimm dừng lại. Gã không đến gần; ông cò bước về phía gã. Ông vỗ nhẹ vào hông Grimm bằng bàn tay mập ú của mình. “Tôi đã biểu cậu để cái này ở nhà mà,” ông nói. Grimm không nói gì. Gã nhìn thẳng vào mặt ông cò. “Thôi được, nếu cậu không muốn. Tôi cho là tôi chỉ còn cách phong cậu làm một cảnh sát viên đặc biệt thôi. Nhưng cậu thậm chí không được rút súng ra trừ phi tôi biểu cậu. Cậu có nghe tôi không?”
“Tất nhiên là không rồi,” Grimm nói. “Ông nhất định không muốn tôi rút súng nếu tôi không thấy cần thiết sao?”
“Tôi chỉ muốn nói, trước khi tôi biểu cậu.”
“Tất nhiên rồi,” Grimm nói ngay tức khắc, một cách kiên nhẫn và hơi lạnh lùng. “Cả hai chúng ta đều nói vậy mà. Ông đừng lo. Tôi sẽ có mặt ở đó.”
Sau đó, khi thành phố trở lại yên tĩnh trong đêm, khi rạp chiếu bóng không còn người và các cửa hàng dược phẩm kiêm tạp hóa [129] lần lượt đóng cửa, trung đội của Grimm cũng bắt đầu giảm xuống. Gã không phản đối, chỉ lạnh lùng nhìn họ; họ trở nên hơi rụt rè, hơi lo thủ thế. Một lần nữa và không nghĩ tới, gã đã chơi một lá bài chủ. Bởi vì họ cảm thấy hơi hèn, bởi vì họ nhận ra là bằng cách này hay cách nọ họ đã không đạt tới mức độ hăng say trầm tĩnh của riêng gã, họ sẽ trở lại ngày hôm sau, dù chỉ để cho gã thấy mặt. Một vài người ở lại. Vả lại, đó là buổi tối thứ bảy, và ai đó đi lấy thêm vài cái ghế ở đâu đó, và họ bắt đầu đánh bài xì tố. Họ chơi suốt đêm. Nhưng thỉnh thoảng Grimm (gã không chơi bài và gã cũng cấm tên chỉ huy phó, người duy nhất trong bọn họ có quân hàm tương đương với một sĩ quan được cấp bằng, tham dự) gởi một tiểu đội đi ra tuần tra ở quảng trường. Vào lúc này, viên đội cảnh sát trực đêm nhập bọn với họ, tuy ông ta cũng không chơi bài.
Ngày chủ nhật thì yên tĩnh. Cuộc chơi xì tố, không ồn ào, kéo dài suốt ngày hôm đó, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi việc tuần tra đều đặn, trong khi chuông nhà thờ yên bình đổ dồn và các tín đồ tụ tập một cách trang nghiêm, hợp thành từng nhóm với màu sắc mùa hè tươi sáng. Ở quảng trường, người ta đã biết là hội thẩm đoàn đặc biệt sẽ họp vào ngày hôm sau. Chỉ cần nghe các từ “hội thẩm đoàn đặc biệt”, với tất cả những gì bí mật và không thể hủy bỏ, một cái gì đó bị che giấu mà chúng gợi lên, giống như một con mắt có quyền vô hạn và lúc nào cũng mở nhìn các hành động của con người, những người đi theo Grimm bắt đầu cảm thấy vững tin vào sự giả bộ của mình. Con người chỉ cần một thời gian rất ngắn để bị xúc động một cách không ý thức và không thể đoán trước, ngắn đến nỗi mà, tuy không nhận ra điều đó, thành phố bỗng bất ngờ chấp nhận Grimm với sự tôn trọng và có lẽ với một chút sợ sệt và với ít nhiều tin tưởng và tin cậy thực sự, như thể bằng cách nào đó trong tầm nhìn xa, trong lòng yêu nước, trong sự hãnh diện về thành phố của mình, gã đã tỏ ra nhanh nhạy hơn, thành thật hơn chính họ. Dù gì đi nữa, đó là sự cảm nghĩ của những người đi theo Grimm; sau một đêm thức trắng, sự căng thẳng, ngày chủ nhật được nghỉ làm, sự hy sinh các ý muốn, họ hầu như ở mức có thể sẵn sàng chết vì gã, nếu cơ hội xuất hiện. Họ bây giờ đi loanh quoanh trong một quầng sáng nghiêm trang và hơi khủng khiếp, hầu như sờ thấy được như quân phục bằng vải kaki mà Grimm mong muốn họ mặc, mong muốn họ đã mặc lúc này, như thể mỗi lần họ trở lại phòng cần vụ, họ lại mặc trên người một lần nữa những mảnh vụn của giấc mơ của gã, dịu ngọt và rực rỡ một cách khắt khe.
Chuyện đó kéo dài suốt đêm chủ nhật. Cuộc chơi xì tố tiếp tục. Giờ thì không còn thận trọng, không còn lén lút khi đánh bạc. Trong thái độ của họ thì có cái gì đó quá yên trí, một sự bình thản quá tự tin, gần như huênh hoang; đêm đó, khi họ nghe tiếng chân của tên đội cảnh sát ở cầu thang, một tên trong bọn họ buột miệng nói, “Coi chừng, quân cảnh đó [130] !” và trong một khoảnh khắc, họ liếc nhìn lẫn nhau bằng cặp mắt lóe sáng, cứng cỏi và liều lĩnh; rồi một tên khác nói khá to: “Tống cổ thằng chó đẻ đó ra ngoài đi,” rồi một tên khác nữa chúm môi xì ra một tiếng địt. Và vậy là vào sáng hôm sau, thứ hai, khi những chiếc xe hơi và xe la đầu tiên từ vùng quê bắt đầu đến, trung đội của Grimm lại được tập hợp đầy đủ lần nữa. Và họ lúc này mặc quân phục. Đó là những khuôn mặt của họ. Phần lớn chúng mang những dấu ấn của tuổi tác, cho thấy thế hệ của họ, kinh nghiệm của họ. Nhưng còn hơn vậy nữa. Giờ đây chúng mang một sự nghiêm trang sâu sắc và lạnh lùng; và họ đứng đó, nghiêm trang, khắt khe và xa cách, giữa sự đi lại lộn xộn của đám đông; và họ nhìn bằng cặp mắt lạnh lẽo và trống rỗng cái đám đông chậm chạp này, tuy cảm thấy, nhận thấy mà không biết, đang đi ngang trước mặt họ, bước chân chậm lại để nhìn họ chằm chằm, đến nỗi họ bị vây quanh bởi những bộ mặt chăm chú, trống rỗng và bất động như bộ mặt những con bò cái, những bộ mặt đến gần rồi rời xa, được thay thế ngay bởi những bộ mặt khác. Và suốt cả buổi sáng, những tiếng nói đến rồi đi, như trong một cuộc trao đổi kín đáo giữa câu hỏi và trả lời: “Ảnh kia rồi. Cái anh trai trẻ với khẩu súng ngắn tự động đó. Chính ảnh chỉ huy mấy người kia đó. Sĩ quan do ông thống đốc đặc biệt gởi đến đó. Chính ảnh phụ trách toàn bộ sự việc đó. Ông cò chẳng có gì để nói, ngày hôm nay.”
Sau đó, khi chuyện đã quá trễ, Grimm nói với ông cò: “Giá như ông chỉ nghe theo lời tôi. Giá như ông để tôi cho cả một tiểu đội xách y ra khỏi nhà tù, thay vì cho dẫn y đi qua quảng trường với một thằng cảnh sát độc nhất, lại còn không chịu còng tay y nữa chớ, giữa cả cái đám đông đó thì làm sao cái thằng trời đánh Buford dám rút súng ra bắn chớ, dù là hắn bắn phải cái cánh cửa chuồng bò.”
“Làm sao tôi đoán được là y có ý định trốn đi, lại tìm cách trốn ngay lúc đó và ở chỗ đó chớ?” ông cò nói. “Trong khi Stevens biểu tôi trước đó là y sẽ khai có tội trước tòa và nhận án tù chung thân.”
Nhưng chuyện đã quá trễ lúc đó. Đã chấm dứt rồi, lúc đó. Chuyện xảy ra ngay trung tâm quảng trường, nửa đường giữa vỉa hè và tòa án, giữa một đám đông dày đặc như trong ngày hội chợ. Grimm chỉ biết chuyện khi nghe tên cảnh sát bắn chỉ thiên hai phát. Nhưng gã hiểu ngay lập tức chuyện gì xảy ra, tuy gã đang ở bên trong tòa án lúc đó. Phản ứng của gã thì rõ ràng và tức khắc. Gã vừa vọt chạy về phía tiếng súng nổ, vừa hét to ra sau lưng cho tên đàn ông đã theo gã bén gót từ gần bốn mươi tám giờ nay, nửa như phụ tá, nửa như cần vụ: “Kéo còi báo động cháy đi!”
“Báo động cháy sao?” tên phụ tá nói. “Cái gì...”
“Kéo còi báo động cháy đi!” Grimm quát lại. “Người ta nghĩ gì thì mặc kệ họ, miễn là họ biết có chuyện đang xảy ra...” Chưa hết câu, gã đã khuất dạng.
Gã chạy giữa những người cũng chạy, bắt kịp họ, vượt qua họ, bởi vì gã có một mục đích và họ thì không; họ chỉ chạy. Bằng khẩu súng lục tự động to nặng, màu đen, gã mở đường cho mình như một cái cày. Người ta nhìn khuôn mặt trẻ, căng thẳng và cứng cỏi của gã bằng những khuôn mặt tái nhợt, hốt hoảng, với các lỗ tròn có răng, từ đó phát ra một âm thanh kéo dài như tiếng thở dài: “Đằng kia... y bỏ trốn phía đó...” Nhưng Grimm đã thấy tên cảnh sát đang chạy, tay giơ cao khẩu súng lục. Grimm liếc nhìn quanh rồi lao mình chạy tiếp. Trong đám đông rõ ràng đã đi theo viên cảnh sát và người tù ngang qua quảng trường thì có một tên thiếu niên lóng cóng quen thuộc trong bộ đồng phục của Western Union [131] dắt chiếc xe đạp bằng tay lái như dắt con bò cái dễ bảo. Grimm nhét súng vào lại bao, xô thằng bé sang bên, nhảy lên chiếc xe đạp và cưỡi đi một mạch.
Chiếc xe đạp thì không có còi hay chuông. Vậy mà không biết làm sao người ta cảm thấy gã đang chạy đến và tránh đường cho gã; và trong chuyện này nữa, gã có vẻ như được phục vụ bởi sự tin chắc, một niềm tin mù quáng và không lay chuyển được vào tính đúng đắn và tính không thể sai lầm được của những hành động của mình. Khi bắt kịp tên cảnh sát, gã cho xe đạp chậm lại. Tên cảnh sát quay về phía gã cái bộ mặt đẫm mồ hôi, miệng mở to vì la hét, vì chạy. “Y quẹo,” tên cảnh sát hét lên. “Vào cái hẻm kia kìa...”
“Tôi biết. Grimm nói. “Y có bị còng không?”
“Có chớ!” tên cảnh sát nói. Chiếc xe đạp vọt lên.
‘Vậy thì y không thể chạy rất nhanh được,’ Grimm nghĩ. ‘Chẳng mấy chốc y phải tìm chỗ ẩn náu. Ít ra là không cho ai thấy mặt.’ Gã nhanh chóng rẽ vào con hẻm đi sâu từ giữa hai căn nhà, với một hàng rào ở một bên. Vào lúc đó, tiếng còi hụ báo cháy lần đầu tiên vang lên, bắt đầu rồi tăng dần cho tới khi trở thành một tiếng hét chậm rãi và kéo dài, cuối cùng thì vượt qua những giới hạn của tầm nghe để đi vào thế giới của những cảm xúc, như một sự chấn động không ra tiếng. Grimm tiếp tục đạp xe, đầu óc suy nghĩ một cách lô-gíc, nhanh nhạy với một thứ niềm vui mãnh liệt nhưng không được tự nhiên. ‘Việc đầu tiên y phải làm là chui trốn ở đâu đó,’ gã vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh. Con hẻm thì mở ra một bên, còn bên kia là cái hàng rào cao một thước tám. Ở tận cùng, nó bị cắt ngang bằng một cái cổng gỗ mà xa hơn là một đồng cỏ rồi một cái mương sâu làm mốc ranh giới của thành phố. Phía trên đầu cổng, người ta thấy ngọn các cây cao mọc trên cánh đồng; cả một trung đoàn hẳn có thể ẩn mình hay dàn trận ở đó. “A,” gã nói to. Không ngừng hay chậm lại, gã quay đầu xe đạp, đi ngược lại cho tới con đường phố gã vừa rời đi. Tiếng rền rĩ của còi báo động bây giờ đang tắt dần, xuống lại tầm nghe bình thường, và khi gã quẹo xe đạp xuống con đường đó thì gã liếc nhìn đám đông đang chạy và một chiếc xe hơi lao về phía gã. Dù gã cố sức đạp nhưng chiếc xe vẫn bắt kịp gã. Những người trong xe nhoài người hét vào bộ mặt căng thẳng với cặp mắt nhìn thẳng về phía trước của gã. “Lên xe đi!” họ hét to. “Lên xe đi!” Gã không trả lời. Gã không nhìn họ. Chiếc xe, sau khi qua mặt gã, chạy chậm lại. Giờ thì gã vượt qua nó bằng một tốc độ nhanh, lặng lẽ và đều đặn. Chiếc xe hơi lại tăng tốc và vượt qua gã. Những người đàn ông nhoài người ra ngoài và nhìn về phía trước. Gã cũng đi nhanh, im lặng, với sự nhanh chóng khéo léo của ma quỷ hiện hình, với sự đúng đắn không khoan nhượng của Juggernaut [132] hay của ba vị Thần số mệnh [133] . Sau lưng gã, tiếng còi hụ bắt đầu tăng cường độ rền rĩ lại. Khi những người trong xe ngoái đầu nhìn ra sau thì gã đã hoàn toàn biến mất.
Gã đạp hết tốc lực quành vào một con hẻm khác. Bộ mặt gã đanh lại như đá, bình tĩnh, luôn được soi sáng bởi sự biểu lộ một trạng thái trọn vẹn, một niềm vui sâu đậm và táo bạo. Con hẻm này thì sụt hỏng hơn con hẻm trước, có nhiều vết bánh xe hằn sâu hơn. Nó cuối cùng dẫn đến một gò đất trơ trụi, và ở đó gã nhảy xuống, để mặc chiếc xe đạp chạy tiếp rồi ngã xuống, rồi gã có thể thấy toàn bộ cái hẻm núi nằm ở rìa thành phố. Hai hay ba căn lều da đen nằm dọc theo nó cũng hiện ra trong tầm mắt gã. Gã không cử động, cứ đứng đó, im lặng, một mình, như có cái gì tiền định, gần giống như một cột mốc. Một lần nữa, tiếng còi hụ từ thành phố sau lưng gã bắt đầu tắt dần.
Rồi gã thấy Christmas. Gã thấy tên đàn ông, bị nhỏ lại vì khoảng cách, đang leo ra khỏi mương, hai bàn tay sát nhau. Trong khi quan sát y, Grimm thấy, khi mặt trời rọi lên cái còng, hai bàn tay của người trốn chạy lóe lên như một tia sáng của kính định nhật; và gã có cảm tưởng là ngay cả từ chỗ này gã có thể nghe tiếng thở hổn hển và vô vọng của tên đàn ông đó, thậm chí bây giờ vẫn không được tự do. Rồi cái bóng dáng nhỏ bé đó bắt đầu chạy lại và biến mất sau một căn lều da đen gần nhất.
Bây giờ Grimm cũng chạy nữa. Gã chạy nhanh, tuy không tỏ ra vội vã hay gắng sức. Và không có gì là thù hằn nơi gã, không có gì là giận dữ, là bị xúc phạm. Chính Christmas cũng thấy như vậy. Bởi vì trong một khoảnh khắc hai người nhìn nhau, gần như mặt đối mặt. Đó là khi Grimm trong lúc chạy thì sắp sửa quành qua một góc căn lều. Và ngay lúc đó Christmas nhảy vọt ra từ cửa sổ phía sau của căn lều đó, như thể do ma thuật; y giơ hai tay mang còng lên cao, bây giờ phản chiếu ánh sáng như thể chúng bị cháy. Trong một khoảnh khắc, hai người nhìn nhau trừng trừng, một người thì đột ngột ngừng lại ngay lúc ngồi xuống sau cú nhảy, người kia thì ngay giữa bước chân đang chạy, trước khi đà chạy kéo Grimm qua khỏi góc căn lều. Trong khoảnh khắc đó, gã thấy Christmas mang một khẩu súng lục mạ kền to nặng. Gã xoay người, nhảy vọt ra sau ẩn mình sau góc nhà, tay rút khẩu súng lục tự động ra.
Gã suy nghĩ nhặm lẹ, bình tĩnh, với cùng niềm vui lặng lẽ: ‘Y có thể làm hai điều. Y có thể cố gắng xuống lại con mương lần nữa, hay là lẩn tránh xung quanh nhà cho tới khi hoặc y, hoặc mình bị bắn chết. Và y thì ở phía con mương.’ Gã phản ứng tức khắc. Gã chạy hết tốc lực quành qua góc nhà mà y vừa nhảy lùi lại. Gã làm vậy, như thể dưới sự phù hộ của bùa phép hay của ông trời, hay là như thể gã biết là Christmas không chờ sẵn ở đó với khẩu súng lục. Gã tiếp tục chạy không nghỉ qua cái góc nhà kế tiếp.
Bây giờ gã ở bên bờ mương. Gã ngừng lại nửa chừng khi đang chạy, bất động. Phía trên cái báng cứng và lạnh của khẩu súng tự động, khuôn mặt gã vẫn có nét sáng sủa bình thản, siêu tự nhiên của những thiên thần ở các cửa sổ nhà thờ có kính ghép màu. Gã vừa mới ngừng chưa được vài giây thì đã chạy lại rồi, bị thúc đẩy bởi sự phục tùng đơn giản, nhanh chóng, mù quáng đối với bất cứ Tay chơi nào di chuyển gã trên Bàn cờ. Gã chạy tới cái mương. Nhưng ngay từ khi bắt đầu lao xuống giữa các bụi cây phủ dày cái dốc đứng, gã quay lại, hai chân bám đất. Gã bây giờ thấy ra là căn lều được xây theo kiểu nhà sàn, cách mặt đất chừng sáu tấc. Gã đã không để ý đến điều này trước đó, trong sự hấp tấp của mình. Gã bây giờ biết là mình đã mất một điểm. Tức là Christmas, thu mình bên dưới căn lều, đã theo dõi hai chân gã suốt thời gian này. Gã nói, “Khôn lắm đó!”
Đà lao xuống kéo gã thêm một quãng nữa trước khi gã có thể ngừng lại và leo lên khỏi cái mương. Gã có vẻ không biết mệt, như thể gã không phải là người trần mắt thịt, như thể Tay chơi mà gã là con tốt cũng cung cấp hơi thở cho gã. Vẫn không dừng chân tạm nghỉ, vẫn cùng với cái đà đưa gã ra khỏi mương, gã lại bắt đầu chạy. Gã chạy quanh căn lều vừa kịp thấy Christmas nhảy qua một cái hàng rào cách đó gần ba trăm thước. Gã không bắn, bởi vì Christmas giờ đây đang chạy qua cái vườn nhỏ, thẳng về phía một căn nhà. Gã vừa chạy, vừa thấy Christmas nhảy qua bậc tam cấp bên dưới cửa sau và vào trong nhà. “A,” Grimm nói. “Nhà ông mục sư đây mà. Nhà ông Hightower.”
Gã không chậm lại, dù gã rẽ sang lối khác, chạy vòng quanh nhà và ra đến con đường trước nhà. Chiếc xe hơi trước đó đã chạy qua mặt gã và biến mất rồi quay lại, giờ đây đang ở ngay chỗ mà nó phải ở, ngay chỗ mà Tay chơi đã muốn nó ở. Nó tự ngừng lại không cần gã ra dấu, và ba người đàn ông bước ra. Không nói một lời, gã quay người và chạy băng qua cái sân trước và vào trong căn nhà, nơi mà ông mục sư già bị ruồng bỏ sống một mình, và ba người đàn ông đó chạy theo, lao vào trong hành lang, mang vào theo, trong cảnh tranh tối tranh sáng như trong tu viện và có mùi ẩm mốc, một chút ánh sáng mùa hè hoang dại mà họ vừa bỏ lại sau lưng.
Ánh sáng đó ở trên người họ, phát ra từ họ, trong tất cả sự hung bạo trơ trẽn của nó. Các bộ mặt của họ có vẻ lóe sáng từ đó, giống như bị treo riêng, không có thân hình ở dưới, vào những quầng sáng, trong khi họ cúi người vực Hightower dậy từ sàn nhà, mặt ông đầy máu. Trước đó, khi chạy trong hành lang, hai tay bị còng nhưng cầm súng giơ cao, đầy ánh chói lấp lánh như một tia chớp, Christmas trông giống như một vị thần giận dữ và muốn báo thù đang đọc lời kết tội, và y đã xô ông ngã xuống đất. Họ giữ cho ông đứng vững.
“Phòng nào?” Grimm vừa nói, vừa lắc người ông. “Lão già, phòng nào?”
“Quý ông ơi!” Hightower nói. Rồi ông nói: “Các người! Các người!”
“ Phòng nào, lão già?” Grimm hét lên.
Họ giữ cho ông đứng thẳng. Trong cái hành lang tối tăm, sau khi lóa mắt vì ánh sáng mặt trời, ông cũng trông thật thảm hại với cái đầu hói và khuôn mặt to tái nhợt đầy những vệt máu. “Các người!” ông gào lên. “Nghe tôi nói này. Y ở đây đêm hôm đó. Y ở đây với tôi vào cái đêm xảy ra vụ giết người đó. Tôi thề có Chúa...”
“Ông nội ơi!” Grimm la lên bằng cái giọng trẻ trung, rõ ràng và tức tối, nghe như giọng của một thầy tu trẻ. “Chẳng lẽ tất cả mục sư, tất cả gái già ở Jefferson đều trụt quần trước cái thằng chó đẻ nhát gan này sao?” Gã đẩy Hightower sang một bên rồi vụt chạy tiếp.
Như thể gã chỉ chờ đợi Tay chơi di chuyển gã lần nữa, bởi vì, với cùng một sự tin chắc không thể sai lầm, gã chạy thẳng về phía nhà bếp và khi tới cửa thì gã bắt đầu nổ súng, hầu như trước khi gã thấy ra cái bàn lật nghiêng một bên ở trong một góc phòng, và thấy trên cái mép bàn cao nhất hai bàn tay sáng chói, lấp lánh của tên đàn ông thu mình núp sau nó. Grimm bắn hết ổ đạn của khẩu súng lục tự động vào cái bàn; sau này, có người phủ lên cả năm lỗ đạn đó bằng một cái khăn tay gấp lại.
Nhưng Tay chơi chưa chấm dứt. Khi những người khác chạy đến nhà bếp, họ thấy cái bàn bị đẩy sang một bên và Grimm khom người trên cái thân xác đó. Khi họ đến gần để nhìn cho biết gã đang bận làm gì, họ thấy tên đàn ông đó chưa chết, và khi họ thấy việc mà Grimm đang làm, một người trong bọn họ bật ra một tiếng hét bị nén lại nửa chừng, lảo đảo bước lùi vào tường và bắt đầu nôn mửa. Rồi Grimm cũng nhảy lùi, tay ném ra sau một con dao cắt thịt đẫm máu. “Giờ thì mày để yên đàn bà con gái da trắng, ngay cả ở địa ngục,” gã nói. Nhưng tên đàn ông trên sàn nhà không cử động. Y chỉ nằm dài ở đó, đôi mắt vẫn mở, trống rỗng mọi thứ ngoại trừ sự ý thức, và miệng thì có cái gì đó, như bóng tối, bao quanh. Trong một đỗi lâu, y nhìn lên họ bằng đôi mắt yên bình, không thể dò thấu được, và không thể chịu nổi. Rồi khuôn mặt, thân xác y dường như suy sụp, thu mình lại, và từ bộ quần áo bị rách xung quanh hông và chỗ thắt lưng, những tia máu đen bị cầm lại nãy giờ dường như bỗng phọt ra như một tiếng thở dài được buông xuống. Máu có vẻ như phọt ra từ cái thân xác tái nhợt của y như những tia lửa từ một trái pháo thăng thiên đang bay lên; và từ luồng hơi đen này y dường như cũng bay vút lên cao và trôi nổi trong trí nhớ họ, mãi mãi. Và bất luận nơi chốn nào mà họ lặng ngắm những tai họa xưa hay những hy vọng mới, dù đó là ở trong những thung lũng yên bình, bên cạnh những dòng suối lặng lẽ và an tâm của tuổi già, trên những khuôn mặt phản chiếu như gương của tuổi thơ, họ sẽ không bao giờ quên được chuyện này. Nó sẽ luôn có mặt ở đó, trầm ngâm, yên lặng, trước sau như một, không bao giờ phai mờ, và nhất là không bao giờ có vẻ đe dọa, nhưng tự nó thanh thản với chính nó, tự nó hân hoan với chính nó. Một lần nữa đến từ thành phố, bị nhỏ đi một ít vì các bức tường, tiếng gào thét của cái còi hụ dâng cao trong sự tăng cường độ khó tin đến nỗi mất hút ngoài giới hạn của tầm nghe.